Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.64 KB, 73 trang )

Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Trong bối
cảnh đó, nhiều người cần huy động vốn nhanh để đầu tư kinh doanh, trong khi
việc vay vốn ở các ngân hàng và tổ chức tín dụng còn một số hạn chế như thủ
tục phiền hà, cần thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Một số khác có đồng vốn nhàn
rỗi, nhưng không có nhu cầu kinh doanh, không muốn gửi ngân hàng nhưng vẫn
muốn đồng tiền sinh lãi, khi cần lại có thể rút vốn nhanh chứ không bị ràng buộc
như hợp đồng vay tài sản. Một số người khác, đời sống đang gặp khó khăn,
muốn có một hình thức tiết kiệm hiệu quả để cải thiện đời sống của mình… Tất
cả những mong muốn nêu trên đều có thể được đáp ứng khi tham gia giao dịch
hụi, họ, biêu, phường - một hình thức giao dịch theo tập quán hình thành từ rất
lâu đời trong đời sống nhân dân ta ở khắp tất cả các vùng miền.
Tuy vậy, đường lối xử lý của Nhà nước ta đối với hụi, họ, biêu, phường qua
các thời kỳ lịch sử lại có những thay đổi khác nhau. Để có một hành lang pháp
lý phù hợp với thực tiễn cuộc sống đã có rất nhiều tranh luận gay gắt về vấn đề
này. Thế nhưng pháp luật nước ta chính thức quy định về hụi, họ, biêu, phường
mới chỉ bắt đầu có từ khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời. Trong khi đó, từ trước đến
nay mới chỉ có những bài viết đề cập đến các khía cạnh nhất định của hụi, họ,
biêu, phường chứ chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu đầy đủ, hệ
thống về vấn đề hụi họ.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới, phát triển và
hội nhập. Hụi, họ, biêu, phường cũng có những chuyển biến mới, từ việc chơi
hụi họ nhằm mục đích tiết kiệm, tương trợ là chủ yếu, ngày nay hình thức hụi có
lãi đã phát triển nhanh chóng. Kéo theo đó, các tranh chấp về lĩnh vực này cũng
diễn ra nhiều và phức tạp. Trong khi hiện nay, trình độ hiểu biết và ý thức tuân
thủ pháp luật của những người tham gia hụi, họ, biêu, phường còn rất hạn chế,
Luận văn Tốt nghiệp - 1 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
do đó có lúc đã để cho quyền và lợi ích pháp hợp pháp của mình bị xâm phạm


một cách đáng tiếc và nhiều khi xẩy ra những tranh chấp mà lẽ ra có thể ngăn
ngừa được. Mặt khác hiện nay, các quy định của pháp luật hiện hành về hụi, họ,
biêu, phường còn một số bất cập cần sửa đổi bổ sung.
Với những lý do nêu trên, và mong muốn bước đầu tiếp cận sâu hơn về
pháp luật Dân sự, pháp luật Hợp đồng nói chung và pháp luật về Hụi, họ, biêu,
phường nói riêng, tôi chọn đề tài “Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân
sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn áp dụng” để nghiên cứu và trình bày trong
Luận văn này.
Tuy đây là kết quả nghiên cứu bước đầu, nhưng tác giả cũng mong muốn
góp phần nhỏ bé vào nhiệm vụ xây dựng một môi trường pháp lý nước nhà lành
mạnh và khoa học. Hi vọng Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu pháp luật có liên quan - và là sự gợi ý, hướng dẫn cho các chủ thể
khi tham gia vào quan hệ pháp luật hụi, họ, biêu, phường.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm những mục đích và nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, nhằm tìm hiểu một số vấn đề về lý luận và hệ thống hóa lại các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hụi, họ, biêu, phường để để có cái
nhìn tổng hợp, khách quan, đồng thời nâng cao sự hiểu biết của bản thân về đề
tài nghiên cứu.
Thứ hai, tìm hiểu thực tiễn về hụi, họ, biêu, phường nhằm tìm ra những hạn
chế về mặt pháp luật cũng như vướng mắc thực tiễn trong quá trình giải quyết
tranh chấp trong các vụ án, từ đó có hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
Thứ ba, nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra nguyên nhân của những vướng
mắc, bất cập về mặt pháp luật và thực tiễn. Từ đó đề xuất một số biện pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hụi, họ, biêu, phường góp phần
gắn kết lí luận vào thực tiễn cuộc sống.
Luận văn Tốt nghiệp - 2 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
Thứ tư, nghiên cứu vấn đề hụi, họ, biêu, phường là ý kiến nhằm mục đích

trao đổi giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan và những người quan tâm đến
vấn đề này. Đồng thời, tôi cũng mong muốn góp một phần nhỏ trong việc tuyên
truyền pháp luật và hình thành ở mọi người sự quan tâm thích đáng đối với một
vấn đề có tính phổ biến trong xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài trên cơ sở đường lối xử lý tranh chấp cũng
như quy định của pháp luật hiện hành về hụi, họ, biêu, phường của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay. Trong đó có sự liên hệ với những quy định của pháp luật trong
thời kỳ trước đó.
Tuy nhiên, do hụi, họ, biêu, phường mới được quy định trong BLDS 2005,
thời gian chưa đủ dài, do vậy còn khó khăn trong tổng hợp số liệu, tài liệu và
tình hình khi nghiên cứu, cùng với điều kiện nghiên cứu hạn chế. Do vậy, chúng
tôi nghiên cứu về đề tài hụi, họ, biêu, phường chủ yếu từ các vụ tranh chấp trên
địa bàn thành phố Huế và một số vụ án khác trong phạm vi cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong Luận văn này, chúng tôi nghiên cứu đề tài hụi, họ, biêu, phường trên
nền tảng duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp các vấn đề về cơ sở pháp lý của hụi, họ,
biêu, phường.
+ Phương pháp điều tra, thống kê để thu thập số liệu, tư liệu, hồ sơ và thông
tin cần thiết có liên quan đến phạm vi đề tài.
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật với nhau
trong quá trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài
Đề tài gồm có 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong
đó Phần nội dung gồm 2 chương:
Luận văn Tốt nghiệp - 3 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…

Chương 1: Một số vấn đề về lý luận và các quy định của Pháp luật Dân sự
Việt Nam về hụi, họ, biêu, phường.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp hụi, họ, biêu, phường trong cả
nước nói chung, thành phố Huế nói riêng và một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật.
Luận văn Tốt nghiệp - 4 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ HỤI, HỌ, BIÊU, PHƯỜNG
1.1 Khái niệm về hụi, họ, biêu, phường theo pháp luật Việt Nam
1.1.1 Khái niệm chung về hụi, họ, biêu, phường
Hụi, họ, biêu, phường là một loại giao dịch về tài sản theo tập quán hình
thành từ rất lâu trong đời sống của nhân dân ta ở khắp tất cả các miền. Miền Bắc
thường gọi là họ; Miền Trung thường gọi là biêu, phường; Miền Nam thường
gọi là hụi. Một số nơi còn có cách gọi khác là bưu, huê, hội... Tuy vậy, cách gọi
“hụi” thường phổ biến cả một số nơi miền bắc, miền trung và trên các sách báo,
tạp chí. Mặc dù cách gọi khác nhau, nhưng về bản chất là giống nhau. Tại Điều
479 Bộ luật Dân sự 2005 (Sau đây gọi là BLDS 2005) quy định về hụi, họ, biêu,
phường như sau:
“Hụi, họ, biêu, phường là một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán
trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại, cùng định ra số
người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh hụi và quyền, nghĩa
vụ của các thành viên.”
Định nghĩa hụi, họ, biêu, phường (sau đây gọi chung là “hụi” hoặc “hụi
họ”) nêu trên của BLDS 2005 khá đầy đủ và ngắn gọn. Qua định nghĩa đó ta
thấy, trên cơ sở tự nguyện, một nhóm người tập hợp nhau lại, thường thì số
người này phân công một thành viên trong nhóm làm “chủ hụi”, trong dân gian
thường gọi là “cái”, những người còn lại là các thành viên trong dây hụi, gọi là

“con”. Cũng có trường hợp một người đứng ra làm chủ hụi và kêu gọi những
người khác tham gia dây hụi của mình. Các thành viên sẽ góp tiền hoặc tài sản
khác như thóc, vàng… theo từng phần hụi thông qua chủ hụi. Một thành viên sẽ
Luận văn Tốt nghiệp - 5 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
nhận được toàn bộ các phần đóng góp này gọi là lĩnh hụi hay hốt hụi. Tới kỳ
tiếp theo sẽ đến lượt thành viên khác lĩnh hụi tạo thành một vòng luân phiên
theo chu kỳ nhất định. Tuỳ theo loại hụi mà việc xác định thành viên lĩnh hụi
thông qua hình thức bốc thăm hay thoả thuận (đối với hụi không có lãi) hoặc
thông qua hình thức bỏ lãi, ai bỏ lãi cao sẽ được lĩnh hụi trước (đối với hụi có
lãi). Một người có thể làm chủ nhiều dây hụi hoặc tham gia nhiều phần hụi
(chân hụi) trong một dây hụi. Cũng có thể nhiều người chung nhau tham gia một
phần hụi nếu các hụi viên nhất trí.
Hụi có nhiều loại khác nhau tuỳ theo sự thoả thuận giữa chủ hụi và các
thành viên như hụi ngày, hụi tuần, hụi tháng, hụi 3 tháng, 6 tháng, hụi mùa vụ,
hụi năm… Tuỳ theo loại hụi mà có chu kỳ đóng hụi và khui hụi (lĩnh hụi) khác
nhau, chẳng hạn hụi ngày thì mỗi ngày đóng và khui hụi một lần, hụi tuần thì 7
ngày đóng và khui hụi một lần, hụi tháng thì mỗi tháng đóng và khui hụi một
lần… đối với hụi mùa vụ thì khi đến mùa thu hoạch các thành viên sẽ thống nhất
đóng hụi và khui hụi vào một ngày nhất định nào đó, một năm thường có 2 lần
đóng và khui hụi nhưng tuỳ thuộc vào vụ thu hoạch mà khoảng cách mỗi lần
đóng và khui hụi là 3 tháng hoặc 6 tháng chứ không có một ngày tháng nhất
định nào cả.
Để tiếp cận và nghiên cứu đề tài, chúng ta tìm hiểu một số thuật ngữ thường
gặp trong lĩnh vực này.
Phần hụi: Phần hụi là số tiền hoặc tài sản khác đã được xác định theo thoả
thuận mà thành viên phải góp trong mỗi kỳ mở hụi. Phần hụi phải là tài sản có
thể giao dịch được.
Dây hụi: Gọi chung cho tất cả các phần hụi của các thành viên tham gia
chơi hụi trong một kỳ khui hụi, hay còn có thể hiểu là giá trị của dây hụi trong

một kỳ. Chẳng hạn một hụi tháng có mỗi phần hụi phải nộp mỗi tháng là
1.000.000 đồng và có 20 phần hụi thì 20 phần hụi này gọi chung là dây hụi có
tiền góp mỗi tháng là 20.000.000 đồng. Từ đó “dây hụi” còn được hiểu là gọi
chung các thành viên tham gia hụi. Trong các văn bản luật chưa thấy giải thích
Luận văn Tốt nghiệp - 6 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
từ này, tuy nhiên trong các bài viết nghiên cứu về hụi và trong cách gọi của nhân
dân thì từ “dây hụi” được dùng khá phổ biến.
Kỳ mở hụi: Là thời điểm được xác định theo thỏa thuận của các thành viên
tham gia hụi mà tại thời điểm đó từng thành viên được lĩnh hụi. Kỳ mở hụi được
xác định bằng khoảng thời gian giữa người lĩnh hụi kỳ trước và người lĩnh hụi ngay
kỳ sau đó, có thể là một tuần, nửa tháng, một tháng, theo mùa hoặc một năm.
Hụi sống: Là phần hụi mà thành viên nộp hàng tháng nhưng chưa được lĩnh
hụi. Nếu hụi có lãi thì thành viên chưa lĩnh hụi chỉ phải góp phần hụi sau khi đã
trừ đi tiền lãi do thành viên được lĩnh hụi trả cho các thành viên.
Hụi chết: Là phần hụi mà thành viên đã hốt hụi, họ không có quyền hốt tiếp
trong những kỳ mở hụi sau đó nhưng vẫn có nghĩa vụ phải đóng phần hụi cho
đến hết chu kỳ, nếu là hụi có lãi thì phần hụi chết phải đóng không được trừ
phần lãi của thành viên hốt hụi kỳ đó, vì người đã hốt không được hưởng lãi.
Như vậy, hụi chết luôn bằng phần hụi đã được ấn định lúc đầu.
1.1.2 Chủ thể tham gia quan hệ hụi, họ, biêu, phường
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ pháp luật, nói
cách khác, đó là các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trên cơ sở những quyền
và nghĩa vụ do Nhà nước quy định trong pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp
luật có thể là cá nhân, tổ chức. Trong hụi, họ, biêu, phường chủ thể tham gia là
cá nhân.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có
thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Năng lực hành vi là khả năng của
chủ thể được Nhà nước thừa nhận bằng hành vi của mình thực hiện một cách
độc lập các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các quan hệ xã

hội. [12, 25]
Trong quan hệ hụi, họ, biêu, phường chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là cá
nhân, được thể hiện dưới vai trò là chủ hụi và thành viên tham gia hụi (hụi viên).
Chủ hụi: Theo quy định tại Điều 5, Nghị định144/2006/NĐ-CP quy định về
hụi, họ, biêu, phường (Sau đây gọi là NĐ144) thì: “Chủ hụi là người tổ chức,
Luận văn Tốt nghiệp - 7 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
quản lý hụi, thu các phần hụi và giao các phần hụi đó cho thành viên được lĩnh
hụi trong mỗi kỳ mở hụi cho tới khi kết thúc hụi, trừ trường hợp có thoả thuận
khác. Chủ hụi phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Tuỳ theo loại
hụi mà có các loại chủ hụi: chủ hụi đồng thời là thành viên trong dây hụi (hụi
không có lãi và hụi có lãi đầu thảo) và chủ hụi không phải là thành viên trong
dây hụi (chủ hụi hưởng hoa hồng)
Thành viên: Thành viên là người tham gia hụi, góp phần hụi và được lĩnh
hụi. Thành viên có thể góp một hoặc nhiều phần hụi trong một hụi. Trường hợp
chủ hụi không phải là thành viên của dây hụi ta có thể phân biệt được do thành
viên có nghĩa vụ góp hụi và có quyền lĩnh hụi. Nếu chủ hụi cũng có quyền và
nghĩa vụ đó thì chủ hụi cũng đồng thời là thành viên của dây hụi.
1.1.3 Đặc điểm pháp lý của hụi họ
Xét mối quan hệ hụi họ ta thấy, bản chất của việc chơi hụi là một hình thức
để dành dụm của cải, một loại giao dịch dân sự dưới dạng hợp đồng. Đây là sự
tổ chức dây chuyền, tập trung vận động được nhiều người tham gia đóng góp
việc vay và cho vay của nhau, thể hiện đầy đủ đặc điểm của một hợp đồng vay
tài sản (HĐ VTS).
BLDS 2005, tại Điều 121 định nghĩa về giao dịch dân sự như sau: “Giao
dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Điều 388 định nghĩa về hợp đồng dân sự: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Điều 471 quy định về HĐ VTS: “HĐ VTS là sự thoả thuận giữa các bên,

theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn
trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Như vậy xét về hụi, họ, biêu, phường ta thấy, đây là một loại giao dịch dân
sự vì nó là sự thoả thuận của các bên (hợp đồng) nhằm xác lập, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Hụi họ cũng là một dạng hợp đồng dân sự nói
Luận văn Tốt nghiệp - 8 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
chung và HĐ VTS nói riêng vì nó có đầy đủ các đặc trưng của hợp đồng mà
BLDS 2005 đã quy định.
Hụi họ là một dạng hợp đồng, do vậy hụi họ có các đặc điểm pháp lý của
một hợp đồng dân sự. Đầu tiên chính là sự thỏa thuận nhằm xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao dịch này. Sự thỏa thuận đó phải phù hợp
với ý chí và mong muốn của các bên. Đây là nguyên tắc tồn tại bất di bất dịch
trong pháp luật hợp đồng của các nước trên thế giới. Nghĩa là các chủ thể khi
tham gia hụi họ do bị đe dọa, lừa dối, nhầm lẫn… là không phù hợp với ý chí
của người tham gia nên về nguyên tắc giao dịch đó vô hiệu. Pháp luật dân sự
thừa nhận quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và
đạo đức xã hội. Hụi họ được xem là một dạng của HĐ VTS, do vậy mọi người
được tự do tham gia giao dịch phù với với ý chí của mình, đồng thời phải trong
khuôn khổ quy định của pháp luật và chuẩn mực của đạo đức xã hội.
Hụi họ còn có đặc điểm pháp lý nữa là khi tham gia vào giao dịch này, các
bên tham gia tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và ngay thẳng. Đặc điểm
này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi
thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lí
do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế
v.v. để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình
đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện
của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp
đồng nói chung và giao dịch hụi họ nói riêng được giao kết thiếu bình đẳng và

không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy
nhiên, đánh giá ý chí tự nguyện của các bên có hay không là một công việc
tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế. [13][14]
Mặt khác, trong chơi hụi, có một người - chủ hụi - đứng ra làm trung gian
tài chính làm đầu mối huy động vốn và hưởng lợi nhuận, vì vậy việc chơi hụi
thực chất là một quan hệ tín dụng - tín dụng dân gian.
Tín dụng xuất phát từ gốc từ Latinh: Gredittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm.
Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ Việt Nam là sự vay mượn. Trong thực tế
Luận văn Tốt nghiệp - 9 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào tín dụng
cũng thể hiện 2 mặt cơ bản:
- Người sở hữu 1 số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử
dụng trong 1 thời gian nhất định.
- Đến thời hạn do 2 bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở
hữu 1 giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn
ngữ kinh tế là lãi suất. [16]
Pháp luật hiện hành quy định, việc chơi hụi nhằm mục đích tương trợ trong
nhân dân theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Nghiêm cấm việc
tổ chức chơi hụi dưới hình thức cho vay nặng lãi nhằm mục đích thu lợi bất chính.
1.1.4 Điều kiện để quan hệ hụi, họ, biêu, phường có hiệu lực
Hụi, họ, biêu, phường là một giao dịch dân sự, một dạng của HĐ VTS vì
vậy trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật về hụi họ cần chú ý các quy
định chung của BLDS 2005 như sau:
* Về điều kiện có hiệu lực
Điều 122 BLDS 2005 quy định, giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các
điều kiện sau đây:
+ Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
+ Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;

+ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.
* Hình thức
BLDS 2005 quy định hình thức giao dịch dân sự tại Điều 124:
+ Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể.
Luận văn Tốt nghiệp - 10 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
+ Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện
bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tuân theo các quy định đó.
Hình thức hợp đồng dân sự quy định tại Điều 401 BLDS 2005 như sau:
+ Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được
giao kết bằng một hình thức nhất định.
+ Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Phù h p v i các quy nh trên, N 144 quy nh hình th c h i h t i i u 7ợ ớ đị Đ đị ứ ụ ọ ạ Đ ề
nh sau:ư
Thoả thuận về họ được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Văn bản
thoả thuận về họ được công chứng, chứng thực nếu những người tham gia họ có
yêu cầu.
Khi tham gia chơi hụi, các thành viên cần chú ý các điều kiện có hiệu lực
này này để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các cơ quan Nhà
nước cần lưu ý các điều kiện nêu trên khi giải quyết các tranh chấp về hụi, họ để
áp dụng đúng pháp luật.

* Giải thích giao dịch dân sự
Trong trường hợp giao dịch dân sự có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
+ Theo ý muốn đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
+ Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
+ Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.
Luận văn Tốt nghiệp - 11 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
Việc giải thích hợp đồng dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 409
của Bộ luật này. Việc giải thích thỏa thuận về hụi cũng trên cơ sở các quy định
trên.
* Vấn đề vô hiệu
Các vấn đề về vô hiệu trong hụi họ cũng tuân theo các quy định của BLDS
2005 như sau:
Điều 127 BLDS 2005 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
122 của Bộ luật này thì vô hiệu (xem phần điều kiện có hiệu lực nêu trên).
Ngoài ra, các điều từ 128 đến 143 còn quy định cụ thể các trường hợp vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, do giả tạo, bị nhầm
lẫn, bị lừa dối, đe dọa, do không tuân thủ quy định về hình thức, do người xác
lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự xác lập, thực hiện.
Điều 410 quy định về Hợp đồng dân sự vô hiệu, cơ bản vẫn trên tinh thần
các quy định về giao dich dân sự vô hiệu vừa nêu trên.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại Điều 137 như sau:
+ Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
+ Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì

phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị
tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
1.1.5 Phân loại hụi, họ, biêu, phường
Theo quy định tại NĐ144 của Chính phủ thì hụi được chia làm 2 loại là hụi
không có lãi và hụi có lãi, hụi có lãi gồm 2 loại là hụi đầu thảo và hụi hưởng hoa
hồng.
Luận văn Tốt nghiệp - 12 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
1.1.5.1 Hụi không có lãi
Là hụi mà theo thỏa thuận của những người tham gia hụi, thành viên được
lĩnh hụi nhận các phần hụi và không phải trả lãi cho các thành viên khác. Thành
viên đã lĩnh hụi có nghĩa vụ tiếp tục góp hụi để các thành viên khác lĩnh cho đến
khi thành viên cuối cùng lĩnh hụi (Điều 11, NĐ144). Như vậy theo thỏa thuận
hoặc theo bốc thăm, người lĩnh hụi được nhận toàn bộ số tiền hụi của các thành
viên trong dây hụi qua góp bằng cách nhân trực tiếp hoặc thông qua chủ hụi. số
tiền mà các thành viên được lĩnh hụi đều bằng nhau. Hình thức này mang tính
chất tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong dây hụi.
Hụi này không phát sinh lãi, các thành viên thực hiện nghĩa vụ chủ yếu dựa trên
sự tự giác.
Ví dụ một dây hụi có 12 người tham gia, mỗi phần hụi phải đóng là
1.000.000đ. Mỗi tháng khui một lần, vậy người được lĩnh hụi sẽ nhận được
11.000.000đ của 11 thành viên khác đóng (người hốt hụi không phải đóng).
Những người đã hốt hụi vẫn phải tiếp tục đóng để các thành viên khác lĩnh. Đến
tháng thứ 12 thành viên cuối cùng sẽ được lĩnh hụi.
Có một hình thức khác của loại hụi không có lãi gọi là hụi “heo’: Hụi này
đóng tiền hụi theo ngày với mức đóng rất thấp: 5000đ, 10.000đ, 20.000đ… Chu
kỳ hốt hụi luôn là một năm. Đây là hình thức giống như bỏ ống heo tiết kiệm
(nên gọi là hụi heo). Các “con” chỉ thu được số tiền góp hụi vào cuối kỳ đúng
bằng số tiền mà họ đã góp trong năm nhằm có một khoản tiền kha khá để mua
sắm đồ hoặc phục vụ vào dịp tết Nguyên đán. “Cái” sử dụng số tiền huy động

được trong hụi heo để đầu tư quay vòng vốn hoặc tham gia vào “chân hụi” khác.
1.1.5.2 Hụi có lãi
Hụi có lãi là hụi mà theo sự thoả thuận giữa những người tham gia hụi, thành
viên được lĩnh hụi nhận các phần hụi khi đến kỳ mở hụi và phải trả lãi cho các
thành viên khác. Thành viên đã lĩnh hụi có nghĩa vụ tiếp tục góp các phần hụi để
các thành viên khác được lĩnh cho đến khi thành viên cuối cùng lĩnh hụi (NĐ144).
Hụi này mang bản chất kinh doanh, có lãi. Các thành viên bỏ phiếu kín để xác
định người được lĩnh hụi trong kỳ mở hụi. Ai bỏ lãi suất cao nhất thì được hốt hụi
Luận văn Tốt nghiệp - 13 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
trước, các thành viên khác chỉ phải đóng phần hụi khi đã trừ đi mức lãi suất mà họ
đã đưa ra. Loại họ này thông thường có nhiều thành viên tham gia với khoản tiền
góp hụi rất lớn và các thành viên ngay từ đầu đã có ý thức kinh doanh tiền tệ.
Thành viên nào muốn lĩnh hụi sớm thường phải trả một khoản lãi suất khá cao
cho những thành viên khác để được lấy trước khi cần huy động vốn làm ăn. Hụi
có lãi được thể hiện qua 2 loại sau:
* Hụi đầu thảo: Hụi đầu thảo là hụi mà theo sự thoả thuận giữa những
người tham gia hụi, chủ hụi được lĩnh toàn bộ các phần hụi trong một kỳ mở hụi
và không phải trả lãi cho các thành viên khác. Trong các kỳ mở hụi khác, thành
viên trả lãi cao nhất được lĩnh hụi và phải trả lãi cho các thành viên khác. Lưu ý
là chủ hụi không được chia số tiền lãi này vì đã lĩnh hụi nên sẽ là thành viên
phải đóng hụi chết.
Chủ hụi (chủ thảo) có trách nhiệm thu tiền của các thành viên khác để giao
cho thành viên được lĩnh hụi và có nghĩa vụ đóng hụi chết kể từ lần khui hụi tiếp
theo cho đến khi dây hụi kết thúc. Ví dụ: Trong dây hụi đầu thảo có 10 thành
viên do K là chủ hụi, mỗi phần hụi mỗi tháng là 1.000.000 đồng (đ). Dây hụi có
tổng số tiền là 10.000.000đ và bắt đầu từ ngày 1/1/2007 và kết thúc 1/10/2007.
Khi khui hụi lần đầu chủ hụi được ưu tiên lĩnh trọn 9.000.000đ mà không phải
trả lãi (10.000.000đ – 1.000.000đ chủ hụi không phải đóng). Lần khui hụi tiếp
theo thành viên nào trả lãi cao nhất thì được lĩnh hụi.

Nếu thành viên Y trả lãi cao nhất với số tiễn lãi cho mỗi phần hụi là
200.000đ nên được lĩnh hụi, các thành viên khác chưa được lĩnh hụi chỉ phải
đóng hụi sống là 800.000đ trên người (1.000.000đ – 200.000đ tiền lãi =
800.000đ). Đối với chủ thảo phải đóng tiền hụi chết là 1.000.000đ. Như vậy
tổng số tiền thành viên Y được hưởng là: 8 thành viên phải đóng hụi sống x
800.000đ + 1.000.000đ hụi chết chủ thảo đóng (thành viên Y không phải đóng)
= 7.400.000đ.
(Trường hợp trên, có một hình thức góp và hốt hụi như sau: Tất cả các
thành viên đều góp 1.000.000đ, như vậy 10 thành viên sẽ góp được
10.000.000đ. Y trả lãi cao nhất 1.600.000đ và được lĩnh 8.400.000đ (trong đó có
Luận văn Tốt nghiệp - 14 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
1000.000đ do Y đóng nên thực tế chỉ nhận 7.400.000đ từ các thành viên khác).
Chủ hụi đã lĩnh hụi nên không được trả lãi, số tiền lãi 1.600.000đ sẽ được chia
cho 8 thành viên còn lại, mỗi người sẽ được nhận 200.000đ)
Tương tự, lần khui hụi thứ ba thành viên Z trả lãi cao nhất với số tiền lãi
150.000đ cho mỗi phần hụi thì các thành viên khác chưa lĩnh hụi chỉ phải đóng
hụi sống là 850.000đ/người. Như vậy, tổng số tiền thành viên Z được lĩnh là: (7
thành viên phải đống hụi sống x 850.000đ) + (2 thành viên phải đóng hụi chết
(chủ thảo và Y) x 1.000.000đ) = 7.950.000đ.
Tương tự như vậy cho đến lần khui hụi cuối cùng, người lĩnh hụi cuối cùng sẽ
không phải trả lãi và được nhận 9.000.000đ do chín thành viên phải nộp hụi chết
(10.000đ trừ số tiền 1000.000đ mà thành viên cuối cùng này không phải đóng).
* Hụi hưởng hoa hồng: Hụi hưởng hoa hồng là hụi mà theo sự thoả thuận
giữa những người tham gia hụi, chủ hụi có trách nhiệm thu phần hụi của các
thành viên góp hụi để giao cho thành viên được lĩnh hụi. Thành viên được lĩnh
hụi phải trả lãi cho các thành viên khác và phải trả một khoản hoa hồng cho chủ
hụi. Mức hoa hồng do những người tham gia hụi thoả thuận. Chủ hụi không phải
là thành viên của dây hụi. Các thành viên đều phải bốc thăm trả lãi suất. Theo
qui ước thành viên nào trả lãi cao nhất thì được lĩnh hụi, số tiền này được coi là

tiền lãi của các thành viên khác. Ví dụ: Dây hụi tuần có 14 thành viên do anh H
là chủ hụi với mỗi phần hụi là 1.000.000đ và tiền hoa hồng cho chủ hụi là
100.000đ trên kỳ lĩnh hụi. Cách tính như sau:
Ở kỳ khui hụi đầu tiên thành viên A trả lãi cao nhất với số tiền lãi 200.000đ
cho mỗi phần hụi, thì thành viên A được lĩnh hụi với số tiền là: 13 thành viên
phải đóng hụi sống x 800.000đ hụi sống – 100.000đ tiền hoa hồng cho chủ hụi =
10.300.000đ. (A lĩnh hụi nên không phải đóng, H là chủ hụi nhưng không phải
thành viên nên không phải đóng)
Ở lần khui hụi thứ hai, thành viên B trả lãi cao nhất với số tiền lãi 150.000đ
cho mỗi phần hụi thì thành viên B được lĩnh hụi với số tiền là: 12 thành viên
phải đóng hụi sống x 850.000đ hụi sống + 1000.000đ hụi chết của thành viên A
– 100.000đ tiền hoa hồng cho chủ hụi = 11.100.000đ.
Luận văn Tốt nghiệp - 15 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
Lần lượt như vậy cho đến người lĩnh hụi cuối cùng thì dây hụi chấm dứt.
Thành viên lĩnh hụi cuối cùng sẽ được lĩnh số tiền là 12.900.000đ (13 triệu do
thành viên có hụi chết phải đóng – 100.000đ tiền hoa hồng cho chủ hụi).
Đối với hụi hưởng hoa hồng này các thành viên trả tiền hoa hồng cho chủ
hụi có thể thỏa thuận theo số phần trăm (%) tổng số tiền lãi. Ví dụ, thỏa thuận
chủ hụi được hưởng tiền hoa hồng là 10% tổng số tiền lãi, nếu một dây hụi
tháng có 10 thành viên, mỗi thành viên góp mối kỳ là 1.000.000đ thì dây hụi có
số tiền góp mỗi tháng là 10.000.000đ. Nếu tháng thứ 2, thành viên K trả lãi cao
nhất là 1.000.000 đồng nên được hốt hụi 9.000.000đ (trong đó có 1.000.000đ do
K góp nên thực tế K chỉ nhận 8.000.000đ). Vậy chủ hụi được nhận số tiền hoa
hồng là: 10% x 1.000.000đ tổng số tiền lãi = 100.000đ. Số tiền lãi còn lại
1.000.000đ – 100.000 = 900.000đ được chia cho 8 thành viên nộp hụi sống (10
thành viên – (K + 1 thành viên lĩnh hụi tháng thứ nhất), mỗi thành viên sẽ được
số tiền lãi 900.000/8 = 112.500đ (hoặc chỉ phải nộp hụi 1.000.000đ – 112.500 =
887.500đ).
1.2 Đường lối xử lý hụi, họ, biêu, phường của Nhà nước ta các thời kỳ

1.2.1 Hụi, họ, biêu, phường trước năm 1996
Hụi, họ, biêu, phường là một giao dịch tài sản theo tập quán được hình
thành từ rất lâu trong đời sống nhân dân và đã được các nhà nước trước đó công
nhận. Tại Điều 1204 Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ đã quy định như sau: “phàm những
hội để giành tiền và những hội cho vay lẫn nhau như chơi họ (hụi), hội hiếu hỉ,
hội tư văn là tuân theo dân luật tục lệ, cùng khế ước của người đương sự được
lập ra”. Điều 1435 Bộ luật Viết Trung Kỳ hộ luật cũng quy định: “thể lệ luật này
nếu không trái gì với luật lệ hay tục riêng về thương mại, thời cũng đem thi hành
đối với các hội buôn. Đối với các hội để giành tiền và các hội để cho vay lẫn
nhau như chơi họ (hụi) cũng vậy”.
Vào cuối những năm 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước tình hình
các dây hụi được lập ra sau đó bị bể, vỡ hàng loạt gây ảnh hưởng xấu đến ổn
định kinh tế và trật tự xã hội. Ngày 10/8/1990, Văn Phòng Hội đồng Bộ trưởng
đã ra Thông báo số 2590/PPCT về ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Hội đồng Bộ
Luận văn Tốt nghiệp - 16 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
trưởng về chống tệ nạn xã hội “vỡ hụi”. Thông báo có đoạn viết: “Trong tình
hình hiện nay nghiêm cấm tất cả các tổ chức và mọi công dân tổ chức hụi và
tham gia hụi dưới mọi hình thức. Bất cứ tổ chức cá nhân nào mà tham gia chơi
hụi, họ thì tùy theo lỗi nặng, nhẹ mà xử lý hành chính hoặc truy tố trước pháp
luật”. Tuy nhiên, việc chơi hụi vẫn không giảm, mà còn có chiều hướng gia
tăng, số lượng các tranh chấp về nợ hụi khởi kiện tại toà án ngày một nhiều,
trong khi đó pháp luật lại chưa có quy định điều chỉnh cụ thể vấn đề này. Chính
vì vậy, ngày 8/8/1992, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân tối cao đã ra
Thông tư liên ngành số 04/TTLN hướng dẫn toàn ngành thống nhất đường lối
giải quyết tranh chấp về nợ hụi. Theo Thông tư số 04/TTLN, thì các tranh chấp
về hụi, họ phải được thụ lý và giải quyết như là một loại tranh chấp về vay nợ,
khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển sang xử lý bằng hình sự.
Thông tư liên ngành số 04 hướng dẫn giải quyết cá tranh chấp về nợ hụi theo
hướng các hoạt động hụi, họ không dược công nhận, nên khi giải quyết các tranh

chấp liên quan đến hụi, họ Tòa án chỉ buộc người nợ phải trả cho người đòi nợ
một phần vốn gốc, mà không buộc người nợ phải trả lãi cho người đòi nợ một
khoản lãi nào. Khi giải quyết phần nợ gốc thì Tòa án căn cứ vào Thông tư số
01/TTLN ngày 10/1/1992 của TAND TC, VKSND TC, Bộ Tư pháp và Bộ tài
chính “Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản trong các vụ án hình sự
và dân sự” để giải quyết. Thông tư 04/TTLN 1992 này được áp dụng cho đến
khi Bộ luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực từ ngày 01/01/1996. [9] [17]
1.2.2 Hụi, họ, biêu, phường từ năm 1996 đến 2006
Năm 1995, khi Quốc hội (QH) xem xét, thông qua BLDS, đã có nhiều ý
kiến đề nghị QH quy định về vấn đề hụi họ. Tuy nhiên, vì còn rất nhiều ý kiến
khác nhau, do đó QH đã "ghi nợ", giao cho các cơ quan hữu quan tiếp tục
nghiên cứu để trình QH quyết định ở thời điểm thích hợp.
Kể từ ngày BLDS 1995 có hiệu lực ngày 1/7/1996 , theo quy định tại điểm 2,
khoản 2, Nghị quyết QH khóa IX kì họp thứ 8 “Về việc thi hành BLDS” TAND TC
đã có thông báo số 38/KHXX ngày 5/7/1996 “Về việc hủy bỏ, chấm dứt hiệu lực
thi hành, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy định pháp luật dân sự theo Nghị
Luận văn Tốt nghiệp - 17 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
quyết của Quốc hội về việc thi hành BLDS”. Theo Thông báo số 38 này thì Thông
tư liên ngành số 04/TTLN 1992 không còn hiệu lực áp dụng để giải quyết các tranh
chấp về nợ hụi phát sinh từ việc chơi hụi xác lập từ ngày 1/7/1996.
Tiếp đó TAND TC có Công văn số 49/KHXX ngày 20/5/1997 về một số
quy định trong TTDS, Công văn số 120/KHXX ngày 27/10/1997 về TTDS,
Công văn số 19/KHXX ngày 13/3/1998 về việc giải quyết tranh chấp nợ hụi…
có nội dung: Thông tư liên ngành số 04/TTLN 1992 không còn hiệu lực áp dụng
để giải quyết các tranh chấp về nợ hụi phát sinh từ việc chơi hụi xác lập từ ngày
1/7/1996. Do vậy, nếu có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ việc chơi hụi mà các giao dich này được xác lập từ ngày
1/7/1996 thì Tòa án chưa thụ lý để giải quyết. Nếu Tòa đã thụ lý mà chưa giải
quyết xong thì phải ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết để chờ hướng dẫn mới.

Tòa án cần giải thích cho đương sự rõ là đang chờ hướng dẫn của các cơ quan có
thẩm quyền ở Trung ương.
Sau ngày 1/7/1996 việc chơi hụi, họ trong nhân dân vẫn diễn ra khá phổ
biến, nhiều tranh chấp về hụi đã gây ảnh hưởng xấu đối với người dân và tình
hình trật tự an ninh xã hội, tuy nhiên vẫn chưa được Tòa án thụ lý giải quyết.
Điều này đã gây ra nhiều bức xúc trong nhân dân, nhiều người đã có đơn yêu
cầu Tòa án giải quyết về nợ hụi, nhiều Tòa án địa phương, chính quyền, cấp ủy
đã có nhiều công văn đề nghị TAND TC phối hợp với các cơ quan hữu quan
Trung ương nghiên cứu và ra văn bản hướng dẫn giải quyết các tranh chấp nợ
hụi được xác lập từ ngày 1/7/1996 trở lại đây. Đặc biệt các đoàn Đại biểu QH
các tỉnh, thành phố có nhiều kiến nghị yêu cầu TAND TC phối hợp với các cơ
quan hữu quan ở Trung ương sớm ban hành văn bản hướng dẫn giải quyết các
tranh chấp này để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và an ninh, trật tự
trong cả nước. Tuy nhiên chờ mãi vẫn không thấy TAND TC có văn bản nào
hướng dẫn về hụi, họ, biêu, phường..
Trong thời gian này, một số Toà án đã linh động giải quyết các tranh chấp về
nợ hụi dưới dạng hợp thức hoá bằng HĐ VTS để chuyển sang giải quyết kiện đòi
nợ. Điều này trên thực tế chỉ giải quyết được khi các bên thống nhất được về việc
Luận văn Tốt nghiệp - 18 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
thoả thuận là HĐ VTS, còn khi một trong hai bên không nhất trí thì sẽ gặp khó
khăn. Khi phát sinh tranh chấp về nợ hụi (chủ yếu là tranh chấp giữa người chơi
hụi và chủ hụi), tức là phát sinh tranh chấp về vay nợ thì việc tòa án không thụ lý
giải quyết vô hình chung đã làm hạn chế quyền về tài sản của các đương sự.
Ở đây có thể nhận thấy việc chậm trễ ban hành các quy phạm pháp luật để giải
quyết các tranh chấp về nợ hụi có thể là Nhà nước không khuyến khích và muốn
hạn chế việc chơi hụi trong nhân dân, do những biến tướng và hậu quả của một số
vụ bể hụi đối với xã hội. Đã đến lúc cần nhìn rõ một sự thật, đó là chấp nhận việc
chơi hụi như là một giao dịch bình thường và phổ biến trong xã hội, từ đó nhanh
chóng ban hành các quy định để giải quyết khi các tranh chấp nợ hụi xảy ra.

Trong suốt 10 năm, bắt đầu từ 1995, các kỳ họp của QH đã nhiều lần đề cập
đến hụi họ, song chưa đi đến một quyết sách nào, trong khi thực tế ở nước ta,
quan hệ hụi họ được xác lập ở mọi lúc, mọi nơi.
Tại kỳ họp thứ 7, QH khoá XI (5/2005) vấn đề hụi họ là một trong những
vấn đề được các đại biểu QH tranh luận gay gắt. Có rất nhiều ý kiến tranh luận
xung quanh vấn đề này nhưng tập trung vào 2 luồng ý kiến. Nhóm ý kiến thứ
nhất cho rằng: Không nên công nhận hụi họ, vì khi hợp pháp hoá hoạt động này
có thể tạo nên những biến trướng khó lường mà nên quy định hụi, họ là HĐ
VTS vô hiệu. Tuy nhiên nhóm ý kiến thứ 2 lại cho rằng: Nên công nhận hụi
trong BLDS để các cơ quan nhà nước có cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp
về hụi họ trong nhân dân, đồng thời nhằm định hướng mục đích tốt đẹp của hoạt
động hụi họ là tương trợ, tương thân thương ái, hạn chế bớt những tiêu cực từ
những tranh chấp do giao dịch này mang lại.
Không tán thành việc đưa hụi họ vào trong Luật, đại biểu Nguyễn Thị
Hường (Quảng Nam) phân tích: “Nếu muốn giúp đỡ nhau vì tinh thần tương
thân tương ái thì ngân hàng và các tổ chức xã hội khác đã có thể đảm trách
được” [19]. Đại biểu Bùi Sĩ Lợi (Thanh Hóa) lại cho rằng: "Qui định về hụi, họ
trong Bộ luật Dân sự không rõ ràng sẽ làm cho người dân hiểu nhầm, gây khó
khăn, gây hại cho xã hội. Chính vì thế cần có những qui định rõ ràng để đảm bảo
hụi, họ là hợp đồng vay mượn mang tính tương thân tương ái, để người dân hiểu
Luận văn Tốt nghiệp - 19 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
và không làm sai". Cũng đồng tình với ý kiến của đại biểu Bùi Sĩ Lợi, đại biểu
Nguyễn Đức Dũng (Kon Tum) cũng cho rằng "quan hệ vay mượn tồn tại từ rất
lâu và ở đâu cũng có với hình thức này hay hình thức khác. Nhưng vì từ trước
đến nay luật pháp không quy định, chúng ta không điều chỉnh nên nhiều người
lợi dụng điều này gây ra những hiệu quả xấu cho xã hội . Vì thế cần cố gắng
nghiên cứu để đưa vấn đề này vào luật để người dân tự xem xét xem họ làm như
vậy có đúng không, nếu vi phạm sẽ bị xử lý như thế nào?". [20]
Các Đại biểu QH cũng như nhiều bài viết trên sách báo đã có nhiều ý kiến

khác tranh luận về vấn đề lãi suất trong hụi, họ; vấn đề có cần phân biệt hụi và
họ; vấn đề có quy định bản chất kinh doanh trong hụi, họ... Từ những tranh luận
này, cuối cùng BLDS 2005 đã có một điều luật quy định về hụi, họ, biêu,
phường. Đây là điều luật mang tính nguyên tắc khi giải quyết các tranh chấp về
hụi, họ, biêu phường.
1.2.3 Hụi, họ, biêu, phường từ 2006 đến nay
Sau những tranh luận sôi nổi và gay gắt, cuối cùng tổng hợp ý kiến Đại
biểu QH cho thấy, đa số các đại biểu (280/385 bằng 73%) tán thành việc quy
định về vấn đề hụi, họ, biêu, phường trong dự thảo BLDS. Tuy nhiên vẫn còn có
nhiều ý kiến chưa thống nhất, khi có tới 105 Đại biểu (chiếm 27%) không tán
thành, cho thấy hụi họ là một vấn đề rất phức tạp và cần được nghiên cứu thấu
đáo để có những quy định phù hợp với thực tế cuộc sống. [18]
Vấn đề hụi, họ, biêu, phường được BLDS 2005 (hiệu lực từ ngày 1/7/2006)
quy định tại điều 479, trong phần quy định về HĐ VTS. Ngày 27/11/2006 Chính
phủ ban hành Nghị định 144/2006/NĐ-CP về hụi, họ, biêu, phường (Sau đây gọi
là NĐ144). Tuy vậy, khi các bên có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về hụi họ
thì Toà án vẫn chưa thụ lý do chưa có văn bản hướng dẫn. Ví dụ như vụ vỡ hụi
của chủ hụi Trần Thị Thu Hà ở quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh vào tháng 2
năm 2007. Hàng trăm tiểu thương các chợ Nghĩa Hòa, Nghĩa Phát, Tân Bình,
Bắc Hải, Phạm Văn Hai (Thành phố Hồ Chí Minh) tạm ngừng việc kinh doanh,
đến công an, tòa án tố cáo hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của chủ hụi Trần
Thị Thu Hà và đề nghị các cơ quan chức năng giải quyết, giúp đỡ. Sau một thời
Luận văn Tốt nghiệp - 20 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
gian nghiên cứu hồ sơ, TAND quận Tân Bình có văn bản trả lời từ chối tiếp
nhận đơn xin giải quyết việc vỡ hụi với lý do “Về các loại án liên quan đến hụi,
họ, Chính phủ đã có nghị định hướng dẫn nhưng hiện nay TAND TC chưa có văn
bản hướng dẫn nên vẫn chưa thụ lý giải quyết”. Cách giải quyết không dứt điểm
như trên không phải cá biệt và người thiệt hại vẫn là con hụi. Luật sư Trương
Xuân Tám cũng nhấn mạnh: hiện nay nhiều tòa án viện vào lý do chưa có hướng

dẫn về thụ lý thanh chấp nợ hụi để từ chối thụ lý đơn khởi kiện của nhân dân là
không chính đáng, vô hình chung đã làm hạn chế quyền về tài sản của các
đương sự. [21]
Đây là một thực trạng xây dựng luật ở nước ta hiện nay: Luật, Nghị định để
có hiệu lực phải có văn bản hướng dẫn, trong khi đó văn bản hướng dẫn lại
thường được ban hành chậm. Ngày 06/04/2007 TAND TC có Công văn số
40/KHXX hướng dẫn giải quyết tranh chấp về hụi họ (Sau đây gọi là Công văn
số 40). Như vậy Điều 479 BLDS 2005, NĐ144, Công văn số 40 là những căn cứ
pháp lý để Toà án thụ lý và giải quyết các tranh chấp về hụi họ hiện nay.
1.3 Những quy định của pháp luật hiện hành về hụi, họ, biêu, phường
1.3.1 Quy định chung của pháp luật về hụi, họ, biêu, phường
Điều 479, mục 4, chương XVIII, phần thứ ba của BLDS 2005 quy định mang
tính nguyên tắc chung về hụi, họ, biêu, phường như sau: “Hụi, họ, biêu, phường là
một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thoả thuận của một
nhóm người tập hợp nhau lại, cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản
khác, thể thức góp, lĩnh hụi, và quyền, nghĩa vụ của các thành viên. Hình thức hụi
nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp
luật. Nghiêm cấm việc tổ chức hụi dưới hình thức cho vay nặng lãi”.
Điều 2 NĐ144 cũng quy định: “Quyền và lợi ích hợp pháp của những người
tham gia họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân theo quy định của Nghị
định này và các văn bản pháp luật khác có liên quan được pháp luật bảo vệ.
Nghiêm cấm việc tổ chức họ để cho vay nặng lãi, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm
hoặc các hành vi trái pháp luật khác để chiếm đoạt tài sản của người khác”.
Luận văn Tốt nghiệp - 21 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
Như vậy theo các quy định này thì pháp luật nước ta thừa nhận và bảo hộ
việc chơi hụi có mục đích lành mạnh, mang tính tương thân tương ái, mà không
nhằm mục đích kinh doanh, trục lợi. Nhà nước nghiêm cấm việc tổ chức hụi
dưới hình thức cho vay nặng lãi.
Đây là mục đích tốt đẹp của hụi họ mà nhà nước hướng tới và cũng chính là

nguồn gốc ban đầu khi hụi họ ra đời. Tuy nhiên cùng với thời gian, ngày nay
hình thức hụi có lãi đã phát triển nhanh chóng và được nhiều người chơi ưa
chuộng lựa chọn. Vì vậy ngoài mục đích tiết kiệm hay giúp đỡ lẫn nhau thì một
bộ phận người dân chơi hụi rõ ràng nhằm mục đích kinh doanh có lãi. “Xét về
hình thức, các chủ hụi (nhất là hụi đầu thảo) lớn, cầm trong tay một lúc 5-3 dây
hụi cũng chính là người kinh doanh tài chính, lãi suất nhiều mà mức độ rủi ro
cũng cao”. Hơn nữa đã xác định hụi họ là HĐ VTS, tất nhiên vay thì phải có lãi,
vấn đề đặt ra là quy định lãi ở mức độ nào cho hợp lý, vừa huy động được
nguồn vốn trong dân cư vừa phát huy được tác dụng của việc huy động vốn, vừa
không gây hại. Đây là một xu thế của xã hội nên không thể ngăn cấm được. Vấn
đề là chúng ta đối xử với nó thế nào? [22]
Thực tế cho thấy rằng phần lớn các vụ vỡ hụi và các tranh chấp hụi được
giải quyết tại Tòa án là hụi có lãi, thậm chí nhiều vụ tranh chấp vỡ hụi là do
người chơi đặt lãi quá cao. Các vụ việc này Tòa án vẫn thụ lý và giải quyết bình
thường, chưa thấy Tòa nào tuyên vô hiệu hoặc trả lại đơn vì hụi có lãi không
nhằm mục đích tương trợ nên pháp luật không bảo vệ. Một số người tham gia
chơi hụi nhưng không hề quen biết các thành viên khác trong dây hụi mà chỉ
thông qua chủ hụi, như vậy nói hụi chỉ nhằm mục đích tương thân, tương ái là
không chính xác.
Chính vì thế chúng tôi thiết nghĩ Nhà nước cần nghiên cứu về lý luận và
điều chỉnh lại quy định cho phù hợp với thực tế cuộc sống theo hướng Nhà nước
khuyến khích việc chơi hụi nhằm mục đích tương trợ lẫn nhau trong nhân dân
nhưng vẫn công nhận cả mục đích kinh doanh có lãi của hụi chứ không phải chỉ
công nhận bản chất tương trợ của hụi họ như hiện nay.
1.3.1.1 Hình thức và nội dung thoả thuận về hụi
Luận văn Tốt nghiệp - 22 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
* Hình thức:
Thoả thuận về hụi được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Văn bản
thoả thuận về hụi được công chứng, chứng thực nếu những người tham gia hụi

có yêu cầu (Điều 7, NĐ144). Như vậy, dù pháp luật không bắt buộc các thoả
thuận về hụi phải bằng văn bản, nhưng nếu các bên thoả thuận khi tham gia hụi
phải lập thành văn bản, và ở mức cao hơn có công chứng hoặc chứng thực sẽ
hạn chế được tranh chấp xẩy ra, và nếu có tranh chấp thì việc giải quyết sẽ đỡ
phức tạp. Quyền của chủ hụi và các thành viên sẽ được đảm bảo hơn.
* Nội dung:
Khi tham gia hụi, họ các thành viên có thể thoả thuận các nội dung trên tinh
thần tự nguyện, thiện chí, bình đẳng theo pháp luật về giao dịch dân sự và hợp
đồng. Tuy nhiên, tối thiểu phải có các nội dung sau để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của những người tham gia:
- Chủ hụi
- Số người tham gia, phần hụi.
- Kỳ mở hụi.
- Thể thức góp và lĩnh hụi.
- Quyền và nghĩa vụ của người tham gia.
- Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ.
- Chuyển giao, ra khỏi hụi, chấm dứt hụi.
- Các nội dung khác.
Thực tế, khi tham gia hụi các thành viên ít khi thảo luận để thống nhất một
cách đầy đủ các nội dung như đã nêu trên, thường thì chỉ thỏa thuận về chủ hụi,
số người tham gia, phần hụi, kỳ mở hụi, thể thức góp và lĩnh hụi. Ít khi chú ý
đến thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của người tham gia, trách nghiệm do vi
phạm nghĩa vụ, thỏa thuận về trách nhiệm của chủ hụi cũng thường không chặt
chẽ. Từ đó, dẫn đến khi xẩy ra mâu thuẫn, tranh chấp khó xác định được quyền
và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể. NĐ144 quy định các nội dung thỏa thuận về
Luận văn Tốt nghiệp - 23 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
hụi tại Điều 8 đã góp phần nâng cao ý thức của người chơi hụi trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.3.1.2 Sổ hụi

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì mọi trường hợp đều phải lập sổ
hụi. Đây là căn cứ để giải quyết tranh chấp. Nếu tranh chấp xẩy ra mà không có
sổ hụi thì khó xác định được quyền và nghĩa vụ của những người tham gia nên
yêu cầu của nguyên đơn có thể không được chấp nhận. Việc chơi hụi có thể
được thoả thuận bằng miệng nhưng vẫn phải có sổ hụi. Pháp luật quy định về sổ
hụi tại Điều 9 NĐ144 như sau:
1. Chủ hụi phải lập và giữ sổ hụi. Trong trường hợp hụi không có chủ hụi
thì những người tham gia hụi uỷ quyền cho một thành viên lập và giữ sổ hụi.
2. Tuỳ theo từng loại hụi, sổ hụi có thể bao gồm các nội dung sau:
a) Tên, địa chỉ của chủ hụi và các thành viên trong hụi;
b) Phần hụi, kỳ mở hụi, thể thức góp hụi và lĩnh hụi;
c) Số tiền, tài sản khác đã góp hụi hoặc đã lĩnh hụi;
d) Việc chuyển giao phần hụi;
đ) Việc ra khỏi họ và chấm dứt hụi;
e) Chữ ký hoặc điểm chỉ của các thành viên khi góp hụi và lĩnh hụi;
g) Các nội dung khác liên quan đến hoạt động của hụi.
Nhà nước quy định trong mọi trường hợp việc tham gia hụi đều phải lập sổ
hụi là một quy định đúng đắn, mang tính nguyên tắc cần phải tuân thủ để bảo vệ
quyền lợi của những người tham gia và thuận lợi trong quá trình giải quyết tranh
chấp của các cơ quan chức năng. Tuy nhiên, hiện nay Nhà nước lại chỉ quy định
chủ hụi lập và giữ sổ hụi, như vậy nếu khi có tranh chấp xẩy ra mà không có lợi
cho chủ hụi, nếu chủ hụi tiêu hủy sổ hụi thì sẽ rất khó có căn cứ xác định quyền
lợi của những người tham gia. Theo chúng tôi đây là một hạn chế cần chú ý khi
sửa đổi bổ sung các quy định về hụi họ.
Khi tham gia hụi, nhiều thành viên khi nộp tiền hụi cho chủ hụi thường
không ký tên hoặc điểm chỉ vào sổ hụi, cũng không được chủ hụi viết biên lai
Luận văn Tốt nghiệp - 24 - Nguyễn Đình Giáp
Hụi, họ, biêu, phường theo Pháp luật Dân sự Việt Nam…
ghi nhận việc góp hụi mà chỉ có chủ hụi đánh dấu vào sổ hụi một cách rất đơn
giản. Chính vì thể một số chủ hụi đã lợi dụng điều này để chiếm đoạt tiền của

người chơi. Một số hụi viên lại không nhớ chính xác số tiền mình đã nộp từ đó
phát sinh tranh chấp. Để đảm bảo quyền lợi cho chính mình và tránh các vụ
tranh chấp đáng tiếc xẩy ra thì việc tuân thủ các quy định của pháp luật về sổ hụi
là rất cần thiết, nhằm hạn chế những rủi ro có thể xẩy ra cho những người chơi
hụi.
1.3.1.3 Lãi suất trong hụi họ
Trong trường hợp hụi có lãi thì lãi suất đối với phần hụi được thực hiện
theo quy định tại Điều 476 của BLDS 2005 như sau: Lãi suất do các bên thoả
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên
có thoả thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp
về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ.
Nói cách khác, thỏa thuận về lãi suất cho vay cao hơn 150% lãi suất cơ bản
do NHNN là trái pháp luật. Theo quy định hiện hành, Ngân hàng Nhà nước công
bố lãi suất cơ bản theo định kỳ hàng tháng, do đó, mức trần lãi suất cho vay tối
đa trên thị trường cũng thay đổi tương ứng theo từng tháng. Ví dụ từ tháng 1 –
9/2006, NHNN đều công bố mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm. Như vậy, mức
lãi suất vay trên thị trường cũng sẽ không được phép vượt quá 150% mức lãi
suất cơ bản trên tức khoảng 12,375% /năm. Việc khống chế mức lãi suất như
vậy hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau.
Ngay từ khi BLDS 2005 ra đời đã có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau về
quy định mức lãi suất trên thị trường tại Điều 476, đặc biệt là các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng. Theo Vụ trưởng Vụ Chính sách Tiền tệ (NHNN) Nguyễn
Ngọc Bảo, quy định tại Điều 476 kể trên không phù hợp với chủ trương tự do
hoá lãi suất. Khi tham gia góp ý xây dựng luật, Ngân hàng Nhà nước đã kiến
nghị với các cơ quan chức năng không nên có những quy định mang tính hành
chính áp đặt với lãi suất.
Luận văn Tốt nghiệp - 25 - Nguyễn Đình Giáp

×