Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUỐC HÙNG

TRÌNH TỰ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

TRÌNH TỰ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Võ Thị Kim Oanh
Học viên: Nguyễn Quốc Hùng
Lớp: Cao học Luật, khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn Thạc sĩ về “Trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ
thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của bản thân,
được xuất phát từ yêu cầu phát sinh trong cơng việc để hình thành định hướng
nghiên cứu. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng các nguyên tắc và kết
quả trình bày trong luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực.
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS. Võ Thị Kim Oanh. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn
tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Hùng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra

: BLTTHS
: CQĐT

Hội đồng xét xử

: HĐXX

Hội thẩm nhân dân
Kiểm sát viên

: HTND

: KSV

Người bào chữa
Tòa án nhân dân

: NBC
: TAND

Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát nhân dân

: TTHS
: VKSND

Viện kiểm sát
Vụ án hình sự

: VKS
: VAHS


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÌNH TỰ XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM.......................................................................10
1.1. Khái niệm trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ........................10
1.2. Đặc điểm của trình tự xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm ...........................12
1.3. Ý nghĩa của trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự ......14
1.4. Cơ sở việc quy định trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm......................15
1.4.1. Cơ sở lý luận...........................................................................................15

1.4.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................16
1.5. Một số nguyên tắc liên quan đến trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ
thẩm vụ án hình sự .............................................................................................17
1.5.1. Ngun tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật .......................17
1.5.2. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm ................................18
1.5.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật ...................................................................................................19
1.5.4. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự .....20
1.6. Quy định pháp luật một số nƣớc về trình tự xét hỏi ................................21
1.6.1. Pháp luật tố tụng hình sự Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ..............................21
1.6.2. Pháp luật tố tụng hình sự Cộng hồ Pháp .............................................24
1.6.3. Pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hịa Liên bang Nga .......................26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................29
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỀ
TRÌNH TỰ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM .......................31
2.1. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi trong phiên tịa hình sự sơ
thẩm .....................................................................................................................31
2.1.1. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi trước Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 ..........................................................................................................31
2.1.2. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 ..........................................................................................................32
2.1.3. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ..........................................................................................................34


2.1.4. Quy định của pháp luật về trình tự xét hỏi Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 ..........................................................................................................37
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trình tự xét hỏi trong
phiên tịa hình sự sơ thẩm ..................................................................................45
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trình tự xét hỏi của Hội

đồng xét xử .......................................................................................................45
2.2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trình tự xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân .......................................................49
2.2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về trình tự xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của những người tham gia tố tụng.............................................53
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................57
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN TRÌNH TỰ
XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM ............................................59
3.1. Nhu cầu của việc nâng cao hiệu quả thực hiện trình tự xét hỏi ..............59
3.1.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp .................................................................59
3.1.2. Hạn chế của pháp luật hiện hành ...........................................................60
3.1.3. Vướng mắc từ thực tiễn ..........................................................................61
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trình tự xét hỏi ....................62
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trình
tự xét hỏi ...........................................................................................................62
3.2.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trình tự xét hỏi
..........................................................................................................................65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu khách quan của nhu cầu đổi mới kinh tế xã hội- giai đoạn đầu
Nhà nước tập trung hoàn thiện pháp luật về kinh tế (đổi mới pháp luật nội dung), về
sau chú trọng đến đổi mới thủ tục tố tụng (pháp luật hình thức) để nhằm bảo vệ
quyền con người, quyền công dân và phù hợp với các chuẩn mực chung của quốc

tế. Trong bối cảnh hiện nay, theo tinh thần cải cách tư pháp, Nhà nước mong muốn
đạt được mục tiêu là hoạt động xét xử được diễn ra theo hướng tranh tụng, công
bằng, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự. Vì lẽ
đó, nhu cầu hồn thiện pháp luật tố tụng và đổi mới phiên tịa hình sự, hồn thiện
thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trở nên cấp thiết. Việc lựa chọn lĩnh
vực nghiên cứu với đề tài Luận văn thạc sỹ luật học: “Trình tự xét hỏi tại phiên tòa
sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” dựa trên:
Một là, sự cần thiết phải làm rõ lý luận khoa học luật tố tụng hình sự về trình
tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm: Trong giai đoạn cải cách tư pháp đang diễn
ra mạnh mẽ ở nước ta, đặt ra cho các nhà khoa học pháp lý trách nhiệm giải quyết
thấu đáo về mặt lý luận việc đổi mới phiên tòa hình sự gắn liền với đổi mới thủ tục
xét hỏi. Vì thủ tục xét hỏi là cơ sở của quá trình tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm; ở đó cịn là cơ sở để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của công dân và xã hội.
Hai là, sự cần thiết phải hoàn thiện thủ tục xét hỏi và nâng cao chất lượng xét
hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm: Pháp luật tố tụng hình sự nước ta qua 03 lần
pháp điển hố (Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988; năm 2003 và năm 2015), ở đó
nhà lập pháp đã thiết lập thành công một hệ thống thủ tục tố tụng hình sự, là cơng
cụ sắc bén để phòng, chống tội phạm và tăng cường pháp chế. Tuy nhiên, mơ hình
tố tụng hình sự nước ta chưa tiếp thu được nhiều các hạt nhân hợp lý của mô hình
tranh tụng, nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cịn bất cập,
trong đó quy định về trình tự xét hỏi chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
tranh tụng. Trên thực tế, trong những năm gần đây có sự chuyển biến tích cực về
mọi mặt trong hoạt động tư pháp hình sự, tuy nhiên chất lượng, hiệu quả xét xử
vẫn chưa cao; việc tổ chức phiên tịa hình sự và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới trong xã hội. Về tổ chức
phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp và vấn đề văn hố pháp lý cũng có tính


2

thời sự được dư luận quan tâm; thực trạng án bị huỷ, sửa do vi phạm thủ tục tố
tụng đáng kể hoặc có trường hợp gây oan, sai xâm phạm đến quyền lợi ích hợp
pháp của cơng dân.v.v.
Ba là, u cầu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và một số văn bản
được ban hành: Trước yêu cầu đó, pháp luật tố tụng hình sự phải cụ thể hóa ngun
tắc tranh tụng, ngun tắc suy đốn vơ tội và các nguyên tắc khác được Hiến pháp
năm 2013 quy định. Bên cạnh đó, tinh thần Hiến pháp năm 2013 coi trọng bảo vệ
quyền con người, quyền công dân là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm,
trong đó nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự phải được
xác định rõ và thực thi có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến thời điểm này, ở Việt Nam có một số cơng trình chun khảo nghiên
cứu nào đề cập về lý luận và thực tiễn thuộc lĩnh vực của đề tài. Tuy nhiên, các
cơng trình này thiên về thực tiễn, chưa có tính lý luận cao.
- Về sách: Ở Việt Nam, tài liệu về sách có liên quan đến đề tài nghiên cứu
không nhiều. Trong cuốn “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Dương
Thanh Biểu, do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2007 đề cập một cách hạn chế
về thủ tục tranh luận. Bên cạnh sự thành cơng trong việc phân tích khá sâu sắc về
các kiểu tố tụng hình sự được áp dụng ở một số nước trên thế giới, cuốn sách chủ
yếu bàn luận về nghiệp vụ kiểm sát như các kỹ năng về nghiên cứu hồ sơ, đọc cáo
trạng, thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và cho ví dụ minh họa
từ rất nhiều vụ án, tình huống có thật. Đáng lưu ý là quan điểm của tác giả cho rằng,
Hội đồng xét xử vẫn phải giữ trách nhiệm xét hỏi để kiểm tra, xác định tính khách
quan, chân thực của các tài liệu, chứng cứ, để làm rõ các tình tiết của vụ án; cịn
Kiểm sát viên hỏi để làm rõ thêm các tình tiết buộc tội, gỡ tội. Vấn đề này khác với
chiều hướng, quan điểm khác là không giao trách nhiệm xét hỏi chính thuộc về Hội
đồng xét xử. Ngồi ra cịn có các cuốn: “Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Võ Thị Kim Oanh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh năm 2011; cuốn “Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự” của tác giả Mai
Thanh Hiếu- Nguyễn Chí, Dương Thanh Biểu (2007); “Tranh luận tại phiên tòa sơ

thẩm”, NXB Tư pháp, Hà Nội, trang 23-27, Nhà xuất bản Lao động- Xã hội năm
2008. Ở đó phần lớn đề cập đến các vấn đề liên quan đến công tác xét xử, như nêu
lý luận chung về các phiên tịa hình sự, các vấn đề về mơ hình tố tụng và chức năng
cơ bản của tố tụng hình sự, về thẩm quyền xét xử, các giai đoạn xét xử, các bước


3
tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử .v.v, trong đó đề cập mang tính chất giới
thiệu, sơ lược về thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
- Về đề tài nghiên cứu khoa học các cấp: Các đề tài khoa học thực hiện ở các
khía cạnh khác nhau liên quan đến khoa học luật tố tụng hình sự, tiêu biểu gồm có:
+ Đề tài khoa học cấp bộ: “Các giai đoạn của tố tụng hình sự Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hoàn thành
vào năm 2010. Đề tài đã khá thành cơng khi giải thích về khái niệm, bản chất pháp
lý và vị trí vai trị của các giai đoạn tố tụng, gồm giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố... Qua đó khẳng định những vấn đề cần tăng cường nhận thức, hoàn thiện và áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự theo hướng cải cách tư pháp. Về các thủ tục tố tụng
hình sự được các tác giả của cơng trình đánh giá mang tính khái qt, khơng đi sâu
làm rõ thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
+ Ngồi ra cịn có các đề tài: Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp”, của tác giả Lê Hữu Thể hoàn thành vào năm 2010; Đề tài khoa học cấp
Nhà nước: “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng
cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân” của tác giả ng Chu Lưu hồn thành năm 2005;
Đề tài “Cải cách hệ thống tư pháp hình sự nhằm bảo vệ các quyền con người”; Đề
tài nghiên cứu nhóm B của Đại học Quốc gia Hà Nội trong Dự án của Đan Mạch,
do tác giả Lê Văn Cảm (chủ nhiệm) hoàn thành năm 2011; và Đề tài thuộc Dự án
nêu trên: “Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” do tác
giả Nguyễn Ngọc Chí làm chủ nhiệm. Các cơng trình nêu trên chủ yếu làm rõ các
cơ sở: lý luận, thực tiễn, khoa học, pháp lý của việc đổi mới hoạt động cơ quan tư

pháp, định hướng chung về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo hướng dân
chủ, bình đẳng và gần dân hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam.
- Về tạp chí khoa học chuyên ngành luật: Hoạt động xét hỏi và tranh luận tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm có tính thời sự được nhiều nhà khoa học và cán bộ làm
công tác chuyên môn quan tâm nghiên cứu, trao đổi trên diễn đàn tạp chí chuyên
ngành luật.
+ Về các bài viết như: “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của tác giả Đinh Văn Quế trên tạp
chí Tịa án nhân dân tháng 4/2004 (số 8); “Một số vấn đề hoàn thiện quy định của


4
Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm” của tác giả Trần Văn Độ, đăng
trên Tạp chí Kiểm sát số 08 năm 2012. Một số ý tưởng nghiên cứu được gợi mở: Cụ
thể tại trang 22 tác giả bài báo đã nêu quan điểm: “Thậm chí cần phải đi xa hơn
trong vấn đề này, cần cho phép người tham gia tố tụng có quyền trực tiếp xét hỏi về
các tình tiết liên quan đến quyền, lợi ích của mình”. Quả thật cần phải hướng tới
đánh giá sâu sắc hoạt động, vai trò của các chủ thể tham gia xét hỏi và tranh luận
làm cơ sở cho đề xuất mở rộng quyền trực tiếp xét hỏi của người tham gia tố tụng
tại phiên tịa hình sự sơ thẩm. Tác giả Trần Văn Độ còn đưa ra quan điểm là nên
gộp phần thủ tục xét hỏi và phần thủ tục tranh luận làm một. Đây là một vấn đề mới
được đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gộp thủ tục xét hỏi và tranh luận
làm một tại Mục V: Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa của chương XX: Những quy
định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa; “Về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm” của tác giả Lê Thị Thúy Nga, đăng trên Tạp chí Luật học số 07 năm 2008.
Ở bài này tác giả chỉ tiếp cận một số vấn đề cụ thể liên quan đến phương pháp xét
hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm có giá trị tham khảo cho Luận văn, như vấn đề về
thứ tự xét hỏi và cách ly bị cáo tại phiên tòa (nhất là định hướng mở rộng quyền xét
hỏi của người giám định), nhưng chỉ nêu định hướng chung; bài “Các nguyên tắc

cơ bản của cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam” của tác giả Lê Cảm- Tạp chí Tịa án nhân dân số 1/2006; bài “Những chức
năng cơ bản trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Thái Phúc - Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 12/2005; bài “Tố tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và
hồn thiện theo hướng nào?” của tác giả Đào Trí Úc- Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 15/2011. Các bài báo nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về các yếu tố chi phối
thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và vấn đề bảo đảm chất
lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự. Đây khơng phải là các nghiên cứu có hệ
thống, chun sâu về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm; “Hoàn thiện quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm”
của tác giả Nguyễn Ngọc Kiện trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22 (302)
T11/2015; “Bảo đảm quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của Tịa án nhân dân ở thủ tục xét hỏi” của tác giả Võ Quốc Tuấn trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 22 (326) T11/2016; “Hồn thiện các quy định về phiên tịa
hình sự sơ thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Lê Thanh Phong-Tòa án
nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh đăng trên trang điện tử Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật năm 2017; “Một số ý kiến đối với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự


5
về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm” của tác giả Hồ Nguyễn Quân-Tòa
án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4 trên trang thông tin điện tử của trường Đại học
kiểm sát Hà Nội1 ; “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Trần
Duy Bình đăng trên trang điện tử trường Đại học kiểm sát Hà Nội.2
- Về Luận án Tiến sĩ:
+ Luận án của tác giả Lê Tiến Châu, “Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự
Việt Nam” hồn thành năm 2008 tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Luận án này
tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn về chức năng xét
xử. Điểm nổi bật là cơng trình làm rõ được mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản

trong tố tụng; về các yếu tố lý luận và thực tiễn bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng
chức năng xét xử, bảo đảm hoạt động tranh tụng; đồng thời phát hiện nhiều bất cập
của các thủ tục tố tụng hình sự liên quan đến việc vận dụng chức năng xét xử.
+ Luận án của tác giả Võ Thị Kim Oanh, “Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam” hồn thành năm 2008 tại Viện Nhà nước và Pháp luật- Viện Hàn
Lâm khoa học xã hội Việt Nam. Ở đó trình bày kết quả nghiên cứu về các vấn đề
liên quan đến công tác xét xử, nêu các khái niệm về xét xử sơ thẩm, về phiên tịa
hình sự, về thẩm quyền xét xử, các giai đoạn xét xử, các bước tiến hành truy tố,
xét xử .v.v. Nghiên cứu về hoạt động xét xử sơ thẩm, trong đó làm rõ ở diện rộng
các thủ tục tố tụng và khái quát đến thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm.
+ Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc Kiện năm 2016, “Thủ tục xét hỏi
và tranh luận tại phiên tịa sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”. Cơng trình đã
bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Về thực tiễn thực hiện quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm cũng được tác giả phân tích, đánh giá và chỉ ra được những
nguyên nhân hạn chế, bất cập. Tuy nhiên, tác giả đi sâu phân tích về thủ tục xét hỏi
và tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, nhưng chỉ đề cập sơ qua về trình tự xét
hỏi tại phiên tịa, mang nặng tính lý luận, các vấn đề thực trạng chỉ nêu chung
chung, chưa tập trung đi sâu về trình tự xét hỏi.
1

Hồ Nguyễn Quân, “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp”, truy cập ngày 01/8/2017;
2
Trần Duy Bình, “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tịa hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp”, truy cập ngày 01/8/2017.



6
- Về luận văn thạc sĩ:
+ Luận văn thạc sĩ của tác giả Võ Hồng Phúc năm 2015, “Hoàn thiện thủ tục xét
hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”. Cơng trình đã nêu lên một
số vấn đề lý luận về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Tác giả đã nghiên cứu các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình
sự, đối chiếu thực tiễn áp dụng, qua đó phát hiện những bất cập về kỹ thuật lập pháp
cũng những sai phạm của các chủ thể khi áp dụng quy định pháp lý về thủ tục xét hỏi
và các yếu tố khác làm hạn chế hiệu quả hoạt động xét hỏi. Luận văn đã xác định các
yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị
quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 và đánh giá tác động của tinh thần cải cách tư
pháp đến nhu cầu hoàn thiện thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Từ đó, đưa ra một
số giải pháp nhằm hồn thiện quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xét hỏi và
những cơ chế đảm bảo nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
+ Luận văn của tác giả Đỗ Văn Thinh, “Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm” hồn thành năm 2006 tại Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh. Đây là
cơng trình đầu tiên ở bậc cao học nghiên cứu về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm. Luận văn đã nhìn nhận khách quan về vấn đề Hội đồng xét xử tích cực
trong việc xét hỏi là khơng hợp lý; làm rõ được tính chất, nội dung về thủ tục xét
hỏi. Hạn chế chủ yếu là, ở Chương 1 của Luận văn về phần lý luận dàn trải, thiếu
tính tập trung, chỉ làm rõ các vấn đề về giai đoạn xét xử và phiên tịa hình sự, các
khái niệm và ý nghĩa xung quanh phiên tòa hình sự sơ thẩm, nêu các điều kiện
chung của phiên tòa như thẩm quyền xét xử v.v; dành thời lượng phân tích tất cả
các thủ tục của phiên tịa hình sự sơ thẩm. Ở Chương 2 phần đánh giá luật thực định
sa vào bình luận và trích dẫn ý kiến xung quanh vấn đề chứng minh tội phạm tại
Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự và vai trị của Hội đồng xét xử và bị hại trong thủ
tục xét hỏi…Về phần giải pháp đáng chú ý là đề xuất sau năm 2020 bỏ đi quyền xét
hỏi của Hội đồng xét xử nhưng chưa lý giải và đưa ra cơ sở khoa học...
+ Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Đặng Anh Việt năm 2017, “Trình tự xét
hỏi tại phiên tịa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”. Cơng trình đã nêu

được những vấn đề cịn hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
cũng như những tồn tại mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa khắc phục
được về trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của
Luận văn đã thấy được những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng pháp luật về trình
tự xét hỏi trong thực tiễn. Từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện pháp


7
luật. Tuy nhiên, cơng trình trên theo định hướng ứng dụng nên Luận văn chỉ tập
trung vào giải quyết các vấn đề thực tiễn áp dụng pháp luật của một số địa phương
để từ đó phát hiện những khó khăn, bất cập trong trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm. Trong khi đó Luận văn chưa giải quyết được bản chất vấn đề mang tính
khái quát, sâu rộng, chưa so sánh, đánh giá trình tự xét hỏi giữa Việt Nam và một số
nước trên thế giới để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp mang tính hiệu quả hơn.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy các bài viết trên đã phân tích các quy định
của pháp luật về thủ tục xét hỏi, về thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm,
từ đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật khi áp dụng các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự trong thực tiễn. Tuy nhiên, các bài viết trên phần lớn đề cập đến
kỹ năng chuyên biệt của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư cũng như các giải pháp
để nâng cao chất lượng xét hỏi và tranh tụng tại phiên tịa hình sự.
Trong q trình thực hiện đề tài, tác giả đã kế thừa những kiến thức, kinh
nghiệm của một số Luận án, Luận văn và các bài viết nêu trên. Ngoài ra, tác giả
cũng đưa ra và giải quyết những vấn đề còn chưa phù hợp trong quy định của pháp
luật mà các cơng trình nghiên cứu trên chưa đề cập đến. Đồng thời, tác giả cũng
phân tích, đánh giá sâu những vấn đề cịn bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật,
từ đó đưa ra kiến nghị, đề xuất để đóng góp phần vào cơng tác hồn thiện pháp luật
nói chung và quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, xây dựng hệ thống lý luận,
nghiên cứu và làm rõ thực trạng trình tự xét hỏi trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ

đó Luận văn đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp hồn thiện trình tự xét hỏi
tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ
giải quyết các vấn đề sau:
+ Làm rõ lý luận về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm;
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về trình tự xét hỏi, chỉ ra những bất cập của những quy định này, đồng
thời phân tích, đánh giá quy định của pháp luật ở một số nước trên thế giới về trình
tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
+ Làm rõ thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về trình tự xét hỏi, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
của nó.


8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý
luận và thực tiễn về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn chủ yếu phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về trình tự xét hỏi, mà trọng tâm là theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cũng như nghiên cứu các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự một số nước trên thế giới về vấn đề này.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm ở Việt Nam từ năm 2003 đến 2015.
+ Về khơng gian: Để bảo đảm tính khái qt cao, Luận văn chỉ biện luận các
cơ sở và lý luận cho việc xây dựng khái niệm khoa học về trình tự xét hỏi tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm và phân tích đặc điểm, ý nghĩa của trình tự xét hỏi. Tuy nhiên,
để bảo đảm tính hệ thống và hiệu quả của mục tiêu nghiên cứu, thì Luận văn cũng

phân tích, lý giải một số quy định chứa đựng các yếu tố xét hỏi. Bên cạnh đó là sự
lựa chọn nghiên cứu đối với pháp luật của các nước về quy định trình tự xét hỏi tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Luận văn chỉ nghiên cứu, đánh giá thực tiễn về trình tự xét hỏi ở cấp xét xử sơ
thẩm, cùng với một số vụ án hình sự đã được xét xử.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước về pháp luật, về chủ trương cải cách tư pháp, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người.
Đồng thời, để thu thập, phân tích, xử lý các thơng tin, những phương pháp
nghiên cứu được sử dụng bao gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn cũng được sử dụng như: phương pháp thống kê, phương pháp
nghiên cứu vụ án điển hình, phương pháp tổng hợp án, phương pháp phỏng vấn
chuyên gia nhằm góp phần làm rõ những vấn đề nghiên cứu.
6. Dự kiến các điểm mới, các đóng góp mới về mặt lý luận của đề tài
Những đóng góp mới của Luận văn cho đến nay ở Việt Nam, mặc dù đã có
một luận văn thạc sĩ nghiên cứu về trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam, nhưng Luận văn này chỉ đi sâu về thực tiễn, chưa có tính


9
lý luận cao. Kết quả nghiên cứu cụ thể của Luận văn với những đóng góp mới
như sau:
Thứ nhất, Luận văn làm rõ, bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về trình
tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Những vấn
đề lý luận này được nghiên cứu làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Thứ hai, làm rõ thực trạng luật thực định Việt Nam về trình tự xét hỏi tại phiên
tịa hình sự sơ thẩm; trong đó có so sánh, đánh giá những điểm mới cùng vấn đề

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, nghiên cứu so
sánh quy định về trình tự xét hỏi ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với
Việt Nam.
Thứ ba, phân tích thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm; đánh giá những kết quả
đạt được, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó.
Thứ tư, đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình
sự sơ thẩm đáp ứng u cầu cải cách tư pháp.
7. Bố cục Luận văn
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn bao gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ
thẩm.
Chương 2. Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về trình tự xét hỏi tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trình tự xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm.


10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÌNH TỰ XÉT HỎI
TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm trình tự xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
Kết quả của một vụ án hình sự (VAHS) phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong suốt
quá trình giải quyết vụ án nhưng hoạt động tại phiên tòa giữ vai trò trung tâm. Thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa là thủ tục quan trọng khi mọi vấn đề của vụ án được đưa ra
xem xét công khai. Hoạt động xét hỏi làm sáng tỏ nội dung vụ án, để chứng minh
có hay khơng có tội phạm xảy ra trên thực tế.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt phổ thơng thì “xét” là tìm

hiểu, cân nhắc để nhận biết, đánh giá, kết luận về cái gì đó; cịn “hỏi” là nói ra
những điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu trả lời3.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “xét hỏi” là một động từ chỉ “nhà chức trách hỏi
kĩ để phát hiện hành vi phạm pháp hoặc tìm hiểu sự thật về một vụ án”4. Ở đây xét
hỏi được hiểu dưới góc độ chung, có tính khái quát. Với nghĩa của Từ điển cho thấy
bao giờ hoạt động xét hỏi cũng phải do chủ thể có quyền hạn thực hiện. Theo cách
giải thích này thì “xét hỏi” gắn với “hỏi kĩ”, nghĩa là “xét hỏi” phải kĩ lưỡng, tường
tận để phát hiện vấn đề, phát hiện sự thật. Như vậy, có thể hiểu “xét hỏi” là việc tìm
hiểu, kiểm tra một vấn đề thơng qua việc hỏi và trả lời trực tiếp giữa người hỏi và
người được hỏi.
“Trình tự” là sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước sau theo một trật tự nhất định5.
Từ đó có thể hiểu, trình tự xét hỏi là sự sắp xếp việc hỏi trước, hỏi sau theo
một thứ tự luật định để tìm hiểu, kiểm tra, đánh giá một vấn đề nào đó thơng qua
việc hỏi và trả lời giữa người hỏi và người được hỏi.
Xét dưới góc độ pháp lý, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và
BLTTHS năm 2015 không đưa ra định nghĩa thế nào là xét hỏi hay trình tự xét hỏi
mà chỉ quy định về trình tự, thủ tục hỏi, nội dung xét hỏi và những hoạt động của
các chủ thể hỏi và được hỏi. Có nhiều quan điểm về xét hỏi như “xét hỏi” là thủ tục
chính của phiên tịa sơ thẩm, trong đó tịa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ của bên buộc tội đã thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các
chứng cứ do bên gỡ tội cung cấp, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
3

Viện ngôn ngữ học (2002), “Từ điển tiếng Việt phổ thong”, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, tr 1058;
Trung tâm Từ điển học (2009), “Từ điển Tiếng Việt”, NXB Đà Nẵng, tr. 1462;
5
Trung tâm Từ điển học (2009), tlđd (4), tr. 1006.
4



11
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì: “Xét hỏi tại phiên tòa mà nhiều người quen gọi là
thẩm vấn. Xét hỏi tại phiên tòa là một phần (một giai đoạn) của quá trình xét xử
một vụ án hình sự, trong đó Hội đồng xét xử (HĐXX), Kiểm sát viên (KSV), người
bào chữa (NBC), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể kiểm
tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách cơng khai về những tình
tiết của vụ án6. Quan điểm này đã nêu rõ được vị trí, bản chất của hoạt động xét hỏi
nhưng vẫn chưa làm rõ được vai trò của hoạt động này cũng như chưa nêu lên cách
thức tiến hành hoạt động xét hỏi.
Theo giáo trình luật tố tụng hình sự (TTHS) của trường Đại học Luật Hà Nội
thì thủ tục xét hỏi tại phiên tịa nhằm xem xét công khai những chứng cứ đã thu thập
trong giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án7. Giống với quan
điểm trên, Giáo trình trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đưa ra định
nghĩa đầy đủ hơn: “Xét hỏi là cuộc điều tra công khai được thực hiện qua việc xét
hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, các tài liệu nhằm
kiểm tra các chứng cứ và làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án”8. Các quan điểm này
đã đề cập đến mục đích, ý nghĩa của xét hỏi là kiểm tra các chứng cứ về mọi tình
tiết của vụ án, tuy nhiên lại chưa nêu lên được chủ thể của việc xét hỏi.
Quan điểm khác, theo giáo trình luật TTHS Việt Nam do tác giả Võ Khánh
Vinh chủ biên lại cho rằng: “Xét hỏi tại phiên tịa là cuộc điều tra cơng khai chính
thức của HĐXX về vụ án”9. Quan điểm này khẳng định, phiên tịa là sự tiếp tục q
trình điều tra, HĐXX đóng vai trị chính trong hoạt động này, đây là đặc trưng của
mơ hình tố tụng thẩm vấn. Tuy nhiên, mơ hình tố tụng nước ta hiện nay là tố tụng
pha trộn đã có sự tiếp thu những hạt nhân hợp lý của tố tụng tranh tụng thì rõ ràng
khái niệm này khơng cịn phù hợp.
Các quan điểm này dù tiếp cận ở những khía cạnh khác nhau nhưng đều đã
nêu lên những đặc trưng của hoạt động xét hỏi tại phiên tịa. Từ những quan điểm
trên, theo tác giả có thể rút ra một khái niệm chung về xét hỏi như sau:
“Trình tự xét hỏi là thủ tục được tiến hành công khai dưới sự điều khiển của
Thẩm phán chủ tọa phiên tịa. Thơng qua việc đặt câu hỏi lần lượt của HĐXX, KSV,

NBC và việc trả lời trực tiếp của những người tham gia tố tụng và những người có
6

Đinh Văn Quế (2007), Bình luận án và một số vấn đề thực tiễn áp dụng trong luật hình sự và BLTTHS, Nxb
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr.151;
7
Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật tố tụng hình sự, NXB Công an nhân dân, tr.390;
8
Trường Đại học Luật TP.HCM (2016), Giáo trình trường Đại học Luật TP.HCM, Võ Thị Kim Oanh, Nxb
Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam;
9
Võ Khánh Vinh, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr.363.


12
liên quan được triệu tập đến phiên tòa về những vấn đề liên quan đến vụ án, nhằm
xem xét, đánh giá cơng khai, tồn diện về các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập
trong giai đoạn điều tra và chứng cứ mới tại phiên tịa”.
1.2. Đặc điểm của trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ thẩm
Thứ nhất, trình tự xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm VAHS do Thẩm phán – chủ
tọa phiên tòa tiến hành điều khiển. BLTTHS quy định tại phần xét hỏi, Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa sẽ điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ
tự hợp lý… Vai trò điều hành việc xét hỏi của chủ tọa phiên tòa còn được thể hiện khi
xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tịa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội
thẩm, KSV, NBC, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện
việc hỏi. Việc Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi sẽ giúp phiên tịa
được tiến hành đúng trình tự, thủ tục luật định và bảo đảm tính nghiêm túc, khách
quan của việc xét xử vụ án hình sự
Thứ hai, trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ thẩm VAHS Việt Nam là
trình tự xét hỏi theo mơ hình tố tụng pha trộn. Trình tự xét hỏi trong TTHS Việt

Nam mang đặc điểm của mơ hình tố tụng pha trộn với sự kế thừa những hạt nhân
hợp lý của cả mơ hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng trên thế giới hiện nay.
Trong mơ hình tố tụng tranh tụng, phiên tòa trong thủ tục này thực sự là cuộc
tranh đấu giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Do đó, kết quả của vụ án phụ thuộc nhiều
vào trình độ, kỹ năng, sự tích cực tranh luận của hai bên đối trọng, ngang quyền.
Tịa án đóng vai trị trọng tài xét xử, khơng phải nghiên cứu trước hồ sơ vụ án,
không tham gia vào việc hỏi bị cáo và các nhân chứng. Chứng cứ được thu thập,
đưa ra và đánh giá tự do mà không bị giới hạn, vấn đề ở chỗ bên nào thuyết phục
được Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn về giá trị chứng minh của chứng cứ. Mọi chứng
cứ, tranh luận sẽ khơng cịn cần thiết nếu bị cáo tự nhận tội.
Mơ hình tố tụng xét hỏi quan niệm rằng, sự thật có thể và phải được tìm ra
trong quá trình thẩm tra. Do đó, thủ tục xét hỏi là thủ tục chính tại phiên tịa mà
khơng tồn tại thủ tục tranh luận cơng bằng như những mơ hình tố tụng khác. Hoạt
động xét hỏi giữ vai trò mấu chốt trong việc giúp HĐXX tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Do đó, HĐXX với chức năng xét xử được giao trọn quyền xét hỏi.
HĐXX trở thành trung tâm của quá trình xét hỏi và quyền lực tập trung vào Thẩm
phán. Vì việc chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về cơ quan cơng tố mà cịn
thuộc về HĐXX nên cơ quan cơng tố có thể thụ động, ỷ lại vào HĐXX cịn quyền
bào chữa của bị cáo bị xem nhẹ.


13
Trong thủ tục xét hỏi trong TTHS Việt Nam, cả bên buộc tội, bên bào chữa và
cả Tòa án đều tham gia vào q trình xét hỏi. Thẩm phán khơng chỉ có chức năng
trọng tài xét xử như mơ hình tố tụng tranh tụng mà còn tham gia vào quá trình xét
hỏi, thẩm vấn và hỏi chính. Vai trị của thẩm phán năng động hơn so với mơ hình tố
tụng tranh tụng: thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ trước khi xét xử10, tham gia vào
quá trình xét hỏi nhằm làm sáng tỏ tình tiết vụ án11, đưa ra các phán quyết đúng đắn,
hợp lý12. Ngồi ra, thẩm phán cịn có quyền triệu tập nhân chứng mà mình xét thấy
cần thiết cho việc làm rõ vụ án, không phụ thuộc vào u cầu của các bên13. Bị cáo

có quyền khơng trả lời vì nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng14. Chính vì vậy, trong mơ hình tố tụng xét hỏi, HĐXX
sẽ đóng vai trị là người hỏi chính và có chức năng như buộc tội, xác định sự thật
khách quan của vụ án.
Thứ ba, trình tự xét hỏi được quy định chặt chẽ trong luật TTHS. Thủ tục xét
hỏi là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trong hoạt động đấu tranh phịng
chống tội phạm. Chính vì vậy, để thủ tục xét hỏi được thực hiện chặt chẽ, đúng luật
thì việc quy định cụ thể về trình tự xét hỏi là việc hết sức quan trọng. Trình tự xét
hỏi trong phiên tòa sơ thẩm VAHS được quy định tại Điều 307 BLTTHS năm 2015.
Trình tự xét hỏi trong TTHS, chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người
hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi
trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, NBC, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Cịn đối với trình tự xét hỏi
trong tố tụng hành chính và tố tụng dân sự, hỏi sau khi nghe đương sự hoặc người
đại diện cho đương sự trình bày xong thì chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi15. Sự
khác nhau này xuất phát từ đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng
của từng ngành luật, dẫn đến vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng, trình tự, thủ
tục xét hỏi trong mỗi ngành luật lại có sự khác nhau.
Như vậy, trình tự xét hỏi của phiên tịa sơ thẩm VAHS được điều hành bởi
Thẩm phán chủ tọa phiên tịa, trình tự xét hỏi của phiên tịa sơ thẩm trong BLTTHS
Việt Nam là đặc trưng của mơ hình tố tụng tranh tụng và trình tự xét hỏi của phiên
10

Điểm a, Khoản 1 Điều 45 BLTTHS năm 2015;
Điểm b, khoản 1 điều 45 BLTTHS năm 2015;
12
Điểm c, khoản 1 điều 45 BLTTHS năm 2015;
13
Điểm g, khoản 2 điều 45 BLTTHS năm 2015;
14

Điểm h, khoản 2 điều 61 BLTTHS năm 2015;
15
Điều 177 Luật Tố tụng hành chính 2015 và Điều 249 BLTTHS năm 2015.
11


14
tòa sơ thẩm được quy định chặt chẽ trong BLTTHS là những đặc trưng riêng của
trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm VAHS. Đây là cơ sở phân biệt trình tự xét hỏi
trong TTHS và các ngành tố tụng khác như tố tụng hành chính, tố tụng dân sự.
1.3. Ý nghĩa của trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, trình tự xét hỏi chính là khung pháp lý, là cơng cụ điều hành cần
thiết của thủ tục xét hỏi. Hoạt động xét hỏi có đạt được hiệu quả là làm sáng tỏ các
tình tiết, sự kiện của vụ án, có tìm ra được sự thật khách quan của vụ án hay khơng
phụ thuộc vào việc quy định trình tự xét hỏi có hợp lý, khoa học, các chủ thể xét hỏi
có phát huy được hết vai trị, quyền hạn của mình khi tiến hành xét hỏi.
Thứ hai, thực hiện đúng trình tự xét hỏi là góp phần phát huy vai trị của từng
chủ thể tham gia xét hỏi, hướng đến mục tiêu làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án. Mỗi chủ thể xét hỏi khi tham gia vào thủ tục xét hỏi có một vai trị nhất định.
Thẩm phán với vai trò điều khiển phiên tòa là trọng tài phân xử giữa hai bên buộc
tội và bên gỡ tội. KSV tham gia thủ tục xét hỏi với vai trò là người buộc tội – đưa ra
các chứng cứ, lập luận để chứng minh tội phạm. Còn NBC tham gia phiên tòa với tư
cách là người gỡ tội – đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào
chữa. Chính vì để bảo đảm mỗi chủ thể tham gia xét hỏi đều có thể làm tốt vai trị
của mình thì trình tự, thủ tục xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm VAHS cần được quy
định khoa học, rõ ràng, việc thực hiện trình tự này phải đúng quy định pháp luật thì
mới đạt được mục đích và hiệu quả cao nhất khi tiến hành xét xử VAHS.
Thứ ba, trình tự xét hỏi có liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho tất cả các chủ thể tham gia TTHS, đặc biệt là các đương sự khi tham
gia tố tụng trong VAHS. Vì TTHS là thủ tục xét xử VAHS, quyết định bị cáo có tội

hay khơng có tội; thủ tục xét hỏi là thủ tục nhằm làm rõ các tình tiết vụ án, kiểm tra
tính đúng đắn của các chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Cịn trình tự xét hỏi là thứ tự từng
chủ thể tham gia xét hỏi thực hiện vai trị của mình đối với đối tượng bị xét hỏi. Vì
vậy, trình tự xét hỏi có khoa học, hợp lý thì họ mới tự bảo vệ được quyền và lợi ích
của mình, quyền tự bào chữa, đồng thời đặt ra câu hỏi nhằm khai thác tình tiết có lợi
cho mình. Ví như: Trong q trình điều tra, Cơ quan điều tra (CQĐT) có bức cung,
nhục hình, hay trong q trình khai tại CQĐT, bị cáo cịn bỏ sót hoặc chưa khai báo
hết các tình tiết của vụ án thì q trình xét hỏi tại phiên tịa chính là cơ hội để bị cáo
có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bởi bị cáo là người biết rõ nhất
về tình tiết vụ án nên bị cáo cịn có quyền chỉ ra mâu thuẫn trong lời khai, tài liệu
của chủ thể khác. Để thực hiện tốt thủ tục xét hỏi thì trình tự xét hỏi khoa học, hợp


15
lý mới phát huy được hiệu quả của thủ tục xét hỏi, bảo đảm quyền và lợi ích của các
chủ thể tham gia tố tụng.
Thứ tư, trình tự xét hỏi được quy định khoa học và rõ ràng góp phần áp dụng
thống nhất pháp luật. Sự thống nhất về quy định của pháp luật không chỉ là thước
đo của kỹ thuật lập pháp, sự tiến bộ của hệ thống pháp luật mà cịn là bảo đảm sự
khách quan và cơng bằng đối với mọi chủ thể tham gia tố tụng. Mặt khác, đây còn
là cơ sở của việc kiểm sát hoạt động xét xử và tuân theo pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng.
1.4. Cơ sở việc quy định trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm
1.4.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và trình tự xét hỏi thì
thủ tục xét hỏi đóng vai trị quan trọng trong việc xét xử VAHS. Vì vậy, để thủ tục
xét hỏi được diễn ra khoa học và thống nhất, bảo đảm sự công bằng cho những
người tham gia tố tụng thì cần quy định chặt chẽ trình tự xét hỏi. Quy định cụ thể
trình tự xét hỏi chính là việc sắp xếp thứ tự xét hỏi: Ai là người điều khiển phiên
tòa, chủ thể nào tham gia việc xét hỏi, chủ thể nào hỏi trước, chủ thể nào hỏi sau thì

khoa học, hợp lý. Việc xác định sai vai trị của chủ thể xét hỏi sẽ dẫn đến sắp xếp
sai thứ tự xét hỏi từ đó hiệu quả của chính thủ tục xét hỏi đối với phiên tòa xét xử
VAHS sẽ khơng cao.
Thứ hai, quy định cụ thể về trình tự xét hỏi trong TTHS là việc thực hiện nghĩa
vụ của quốc gia thành viên các công ước quốc tế về Nhân quyền của Việt Nam.
Năm 1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Liên Hợp quốc. Vì
vậy, Việt Nam có nghĩa vụ tơn trọng và nội luật hóa các quy định của Tun ngơn
quốc tế nhân quyền của Liên Hiệp Quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948; Cơng ước
quốc tế về quyền dân sự và chính trị ra đời năm 1966 và có hiệu lực từ năm 1976 về
việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Xuất phát từ lý do đó, luật TTHS
chính là ngành luật quy định về thủ tục xét xử và đưa ra phán quyết, bản án của Tịa
tun một người có tội hay khơng có tội. Một bản án, quyết định sai sẽ xâm phạm
nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân thậm chí là cả mạng sống của con
người mà khơng có một biện pháp bồi thường nào có thể bù đắp được. Chính vì tầm
quan trọng đó, Luật quốc tế rất quan tâm đến quyền con người, quyền công dân và
với tư cách là nước thành viên thì Việt Nam có nghĩa vụ nội luật hố các quy định
mang tính chuẩn mực này và bảo đảm quyền này được thực thi bằng các quy định
của pháp luật tố tụng.


16
Thứ ba, để thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người,
quyền công dân, pháp luật TTHS quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
VAHS. Quy định này của pháp luật tố tụng là nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt
động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì khi tiến hành các hoạt
động TTHS, các cơ quan tố tụng phải đảm bảo các quyền cơ bản của cơng dân, nếu
có vi phạm, kết quả tồn bộ các hoạt động tố tụng sẽ khơng cịn giá trị. Nếu như nói
Luật hình sự thể hiện xử sự của Nhà nước đối với người phạm tội thì Luật TTHS
thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với cơng dân tự do. Do đó, mọi sửa đổi về
pháp luật TTHS phải xuất phát từ mục tiêu bảo vệ quyền công dân, quyền con

người; những quyền cơ bản của công dân phải được tôn trọng và bảo vệ, phải có cơ
chế đảm bảo thi hành thực sự trong TTHS.
Thứ tư, việc quy định trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ thẩm VAHS đã bảo
đảm tính đồng bộ và tính hệ thống của khung pháp lý hình sự hiện hành như BLHS,
BLTTHS, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự… Đây chính là hành lang pháp lý
vững chắc tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng
đồng thời cũng là cơ sở để bị cáo có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của mình.
1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Pháp luật hình sự nước ta đã trải qua ba lần pháp điển hóa (ra đời BLTTHS
năm 1988, năm 2003 và năm 2015), ở đó nhà lập pháp đã thiết lập thành công một
hệ thống thủ tục TTHS, là cơng cụ sắc bén để phịng, chống tội phạm và tăng cường
pháp chế. Tuy nhiên, mơ hình TTHS nước ta vẫn chưa tiếp thu được nhiều hạt nhân
hợp lý của mơ hình tranh tụng, nhiều quy định của BLTTHS năm 2015 cịn bất cập,
trong đó có quy định về trình tự xét hỏi như: Vai trị tiến hành tố tụng của HĐXX,
KSV, NBC, bất cập trong quy định thứ tự xét hỏi, nên hay không nên quy định
KSV hỏi trước NBC …
Việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm, xác định sự thật vụ án, làm
rõ các chứng cứ xác định có tội và vơ tội, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự buộc HĐXX phải hỏi tất cả các vấn đề xoay quanh vụ án và là chủ
thể hỏi chính. Mặt khác, trình tự xét hỏi đặt HĐXX là chủ thể hỏi đầu tiên một mặt
giúp HĐXX thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình nhưng cũng vơ tình đặt
nhẹ vai trị của các chủ thể khác. Vì KSV thực hiện vai trò buộc tội và NBC thực
hiện vai trò gỡ tội sau khi HĐXX đã hỏi tất cả những vấn đề xung quanh vụ án (bao
gồm cả gỡ tội và buộc tội) nên tính tranh tụng giữa hai chủ thể KSV và NBC bị yếu
đi. Chính vì vậy, quy định trình tự xét hỏi trong phiên tòa sơ thẩm VAHS chưa thực


17
sự hợp lý, chưa phát huy hết vai trò của các chủ thể. Do đó, KSV thường có tâm lý
“ỷ lại” và để cho Hội đồng xét hỏi tất cả các vấn đề của vụ án hoặc HĐXX đã hỏi

tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án, đến lượt KSV hỏi thì đã sáng tỏ mọi vấn đề
nên KSV hỏi qua loa hoặc hỏi cho có nên việc thực hiện chức năng buộc tội còn
chưa thực sự hiệu quả. Cũng gặp thực trạng như KSV, NBC hỏi sau khi HĐXX đã
hỏi toàn bộ vụ án, kể cả các tình tiết gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho bị cáo nên NBC tham dự phiên tịa với tâm lý kết quả đã có sẵn và mang tính
hình thức, “ỷ lại” hồn tồn cho HĐXX nên hiệu quả của hoạt động gỡ tội của
NBC cũng chưa thực sự cao.
Chính vì những bất cập trên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của thủ
tục xét hỏi trong phiên tịa sơ thẩm VAHS. Bởi lẽ đó, nghiên cứu về cơ sở lý luận,
pháp lý và thực tiễn thực hiện trình tự xét hỏi trên thực tế để từ đó đưa ra các giải
pháp nhằm khắc phục thực trạng này trên thực tế.
1.5. Một số nguyên tắc liên quan đến trình tự xét hỏi trong phiên tịa sơ
thẩm vụ án hình sự
1.5.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Đây là một nguyên tắc hiến định, quy định mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội16 - được phát triển và cụ thể trong BLTHS năm 2015 với nguyên tắc đảm bảo
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong TTHS. Các tiêu chí thể hiện
yêu cầu phải tuân thủ nguyên tắc này trong quá trình tiến hành trình tự xét hỏi tại
phiên tịa sơ thẩm VAHS như sau:
Thứ nhất, bình đẳng là mọi người đều như nhau, khơng có sự ưu tiên, ưu đãi
hay phân biệt đối xử nào giữa các chủ thể tham gia thủ tục hỏi, bất kể các yếu tố
dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, địa vị xã hội.
Thứ hai, mỗi chủ thể, nhất là các đương sự có thể được quy định khác nhau về
quyền và nghĩa vụ khi tham gia TTHS nhưng việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của họ là như nhau. Các bên đương sự tham gia xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự để đảm bảo được quyền của mình trong vụ án, không ai được cản trở việc
hỏi, trả lời và thực hiện các hoạt động khác của các chủ thể, đây cũng là một trong
những yêu cầu để đảm bảo cho các bên thực hiện quyền tranh tụng của mình.

16

Điều 16 Hiến pháp năm 2013.


18
Thứ ba, để các bên thật sự có được sự bình đẳng thì trách nhiệm của Tịa án là
rất đáng kể, HĐXX giữa vai trò điều hành để thủ tục diễn ra đúng pháp luật, tạo
điều kiện cho mỗi bên đều thực hiện được quyền tham gia thủ tục hỏi, công tâm,
khách quan, không thiên vị cho bất cứ bên nào.
Chính vì vậy, quy định chặt chẽ, khoa học về trình tự xét hỏi trong phiên tịa
sơ thẩm VAHS sẽ phát huy được vai trò của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó
bảo đảm được quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia phiên tòa sơ thẩm.
1.5.2. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được Hiến pháp năm 2013
quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”; được cụ thể hóa tại
Điều 26 BLTTHS năm 201517. Đây là một sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận
thức và thực tiễn xét xử. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng gồm:
Nguyên tắc tranh tụng có sự phân định rành mạch giữa các loại chủ thể theo
chức năng cơ bản của tranh tụng (chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội, chức năng
xét xử…). Chủ thể buộc tội trong pháp luật tố tụng của hầu hết các nước đều là Cơ
quan công tố là cơ quan đại diện cho nhà nước để thực hiện chức năng buộc tội, tìm
ra những hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội.
Ngoài ra, trong một số giai đoạn bên buộc tội cịn có thể là CQĐT; người bị hại
trọng vụ án, đặc biệt là trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Bên
gỡ tội (bào chữa) có thể là chính bị can, bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa. Trong khi đó Tịa án là cơ quan đóng vai trị trọng tài phân xử, giải quyết
mâu thuẫn giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trên cơ sở các quy định của pháp luật. Vì
vậy, yêu cầu đầu tiên là Tịa án khi xét xử độc lập, khơng bị lệ thuộc vào bất cứ cá
nhân, tổ chức nào. Tòa án phải xét xử trên nguyên tắc độc lập chỉ tuân theo pháp

luật (Khoản 2 Điều 103 Hiến Pháp 2013), dựa vào kết quả tranh luận, chứng cứ của
các bên và lấy đó làm căn cứ cho việc đưa ra phán quyết. “Tịa án có nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật nhưng Tịa án thực hiện nhiệm vụ đó thơng qua chức năng xét xử, Tịa
án khơng phải là người truy tố bị cáo nên Tịa án khơng có nghĩa vụ chứng minh tội
phạm”18. Chính vì vậy, thực hiện ngun tắc tranh tụng thì cần phải có sự bình đẳng
trong việc thực hiện các hoạt động giữa bên buộc tội và bên gỡ trong quá trình tố
tụng, đây là một yêu cầu tiên quyết và bắt buộc. Bởi lẽ nếu khơng có bình đẳng thì
17

Nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” lần đầu được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến
pháp năm 2013, được cụ thể hóa tại Điều 13 Luật tổ chức TAND năm 2014.
18
Nguyễn Trương Tín (2008), “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong Tố tụng hình sự với
chức năng xét xử của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10, tr 78;


19
khơng bao giờ tồn tại “tranh tụng”, chính sự bình đẳng sẽ làm cho hai bên có đủ
khả năng, điều kiện và sự tự tin khi tranh luận, đấu tranh để bảo vệ quan điểm của
mình cũng như phản biện để bác bỏ quan điểm của bên đối lập. Sự bình đẳng ở đây
là sự bình đẳng trong việc thừa nhận quyền của các bên trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, các yêu cầu tranh luận và đối đáp. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong thủ
tục xét hỏi giúp cho Tịa án có cơ sở để đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, bảo đảm cho nền tư pháp của nước nhà
là biểu hiện điển hình của cơng bằng và cơng lý.
Đối với trình tự xét hỏi, ngun tắc tranh tụng sẽ quyết định đặt chủ thể xét
hỏi nào vào đúng vị trí, vai trị và quyền hạn của chủ thể đó để thủ tục xét hỏi thực
sự là quá trình đấu tranh, phủ định lẫn nhau giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong
khuôn khổ của pháp luật, dưới sự phân xử của trọng tài là Tòa án sẽ là phương pháp
tối ưu nhất để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Những người có thẩm quyền

tham gia tố tụng tại phiên tịa, có điều kiện trình bày, chứng minh, phản biện một
cách dân chủ, cơng khai, minh bạch; chủ tọa phiên tịa sẽ có điều kiện đánh giá một
cách khách quan hơn so với tố tụng chỉ thiên về xét hỏi.
1.5.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Đây là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động xét xử, được cụ thể hóa trong
Bộ luật TTHS năm 2015 trên cơ sở nguyên tắc của Hiến pháp năm 201319 và Luật
Tổ chức TAND năm 201420. Để đảm bảo cho bản án được tuyên là khách quan và
đúng pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND) phải tuân thủ nguyên
tắc này trong suốt quá trình giải quyết VAHS, đối với thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm cũng khơng ngoại lệ. Những biểu hiện cụ thể đối với yêu cầu tuân
thủ nguyên tắc “Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” khi
tiến hành thủ tục xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự như sau:
Một là, độc lập giữa thành viên HĐXX với nhau. Trong quá trình tiến hành thủ
tục xét hỏi, Thẩm phán và HTND sẽ tiến hành việc hỏi riêng biệt, mỗi thành viên
theo dõi diễn biến, đánh giá kết quả của thủ tục xét hỏi một cách độc lập. Những
tình tiết, chứng cứ được xem xét, đánh giá qua thủ tục xét hỏi sẽ được HĐXX dùng
làm căn cứ đưa ra ý kiến khi nghị án và ra phán quyết. Sự độc lập của Thẩm phán
và HTND trong quá trình hỏi đảm bảo việc biểu quyết của mỗi thành viên là khách
19
20

Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013;
Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014.


×