Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.15 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ NGUYỆT MINH

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ
THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ NGUYỆT MINH

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ
THẨM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Nguyệt Minh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ..... 7
1.1.


Khái niệm, đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ............................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm tranh tụng trong TTHS ....................................................... 7
1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ......... 12
1.1.3. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ................................................................................................ 17
1.2.

Khái niệm, nội dung của bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................... 19

1.2.1. Khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ................................................................................................ 19
1.2.2. Nội dung của bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ........................................................................................... 21
1.3.

Các điều kiện bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ........................................................................... 29

1.3.1. Khái niệm các điều kiện bảo đảm ...................................................... 29
1.3.2. Các điều kiện cụ thể bảo đảm tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ............................................................................. 29
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 33


Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .....34

2.1.

Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................... 34

2.1.1. Quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng ......................................... 34
2.1.2. Quy định của pháp luật về chủ thể ..................................................... 41
2.1.3. Quy định của pháp luật về cơ sở vật chất .......................................... 54
2.2.

Thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự tại thành phố Hải Phòng ............................................... 59

2.2.1. Tổng quan kết quả bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hải Phòng ..................................... 59
2.2.2. Một số liên hệ về việc không bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hải Phòng ........................... 68
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 79
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ .................................................................................... 81
3.1.

Các yêu cầu cần bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ........................................................................... 81

3.1.1. Yêu cầu cải cách tƣ pháp.................................................................... 81
3.1.2. Yêu cầu của các nguyên tắc TTHS .................................................... 83
3.1.3. Yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời ....................................................... 84
3.1.4. Yêu cầu của phòng, chống tội phạm .................................................. 86

3.2.

Các giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ........................................................................... 86

3.2.1. Giải pháp hƣớng dẫn thi hành và tập huấn nghiệp vụ ........................ 86
3.2.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật .............................................. 88
3.2.3. Giải pháp nâng cao năng lực của những ngƣời THTT ...................... 89


3.2.4. Giải pháp nâng cao năng lực của luật sƣ và những ngƣời bào
chữa khác ............................................................................................ 91
3.2.5. Giải pháp phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật
cho quần chúng nhân dân ................................................................... 93
3.2.6. Giải pháp bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử và chế độ
đãi ngộ phù hợp với những ngƣời có thẩm quyền THTT .................. 94
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 102


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra


CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV

: Điều tra viên

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND

: Hội thẩm nhân dân

KSV

: Kiểm sát viên

NNPQ

: Nhà nƣớc pháp quyền

NXB

: Nhà xuất bản

TA


: Toà án

TAND

: Toà án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện Kiểm sát

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Bảng số liệu thống kê tổng số các vụ án hình sự sơ thẩm
đã thụ lý và giải quyết trên địa bàn thành phố Hải Phòng
từ năm 2011 đến năm 2017

60

Tổng hợp số liệu những vụ án hình sự sơ thẩm xét xử
của Toà án hai cấp thành phố Hải Phòng có Luật sƣ
tham gia từ năm 2011 đến năm 2017

67

Phòng xử án hình sự sơ thẩm

57

Bảng 2.2

Sơ đồ 2.1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động tố tụng nói chung và TTHS nói riêng, Tòa án giữ vai
trò là trung tâm, trong đó hoạt động xét xử tại phiên tòa đƣợc xem là hoạt
động quan trọng nhất. Thông qua phiên tòa, các chức năng cơ bản của tố tụng
đƣợc bảo đảm thực hiện một cách rõ nét, công khai, dân chủ và bình đẳng.
Hoạt động xét xử cũng chính là việc kiểm tra công khai tính đúng đắn của các
hoạt động tố tụng trƣớc đó của CQĐT, VKS. Tại phiên tòa, mọi tài liệu chứng
cứ của vụ án do CQĐT, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều đƣợc xem
xét một cách công khai, những ngƣời THTT và ngƣời tham gia tố tụng đƣợc
nghe trực tiếp lời khai của nhau, đƣợc tranh luận chất vấn những điều mà tại
CQĐT họ không có điều kiện thực hiện.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, kỹ năng điều khiển phần tranh tụng là hết
sức quan trọng, đòi hỏi HĐXX mà đặc biệt là Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đƣa ra,
không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục nhƣng đồng thời
lại phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Tại Việt Nam, yêu cầu cải cách tƣ pháp, hoàn thiện thủ tục TTHS nói
chung, tranh tụng trong xét xử nói riêng đã đƣợc đề ra trong nhiều Nghị quyết
của Đảng về cải cách tƣ pháp. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01
năm 2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng nhấn mạnh:
“Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa” [1]. Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng
định một lần nữa yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt
động đột phá của các cơ quan tư pháp…” [3].
1


Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành một nguyên tắc, cụ

thể là: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm” (khoản 5 Điều 103
Hiến pháp năm 2013).
Nhằm thể chế hóa các chủ trƣơng của Đảng và cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về tranh tụng tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nguyên
tắc “Tranh tụng trong xét xử đƣợc bảo đảm” và cụ thể hóa nguyên tắc này với
những nội dung phù hợp với thực tiễn tố tụng và điều kiện cụ thể của Việt
Nam, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con ngƣời, bảo đảm quá trình giải
quyết vụ án đƣợc khách quan, toàn diện, triệt để, vô tƣ; bảo đảm việc đấu
tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả và việc giải quyết vụ án đƣợc đúng
ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.
Trƣớc yêu cầu của thực tế, nhằm thực hiện tốt công cuộc cải cách tƣ
pháp đang đƣợc triển khai sâu rộng trên cả nƣớc, đảm bảo sự dân chủ, bình
đẳng trong hoạt động TTHS, tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan ngƣời vô tội,
mang lại niềm tin của ngƣời dân vào Tòa án và nền công lý XHCN; đồng thời
góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, thực tiễn trong việc bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, hƣớng tới việc tăng cƣờng và nâng cao chất
lƣợng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa ở thành phố Hải Phòng, học viên
đã chọn đề tài: “Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo Luật
TTHS Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải
Phòng)” để thực hiện luận văn thạc sĩ Luật học của mình với mong muốn
góp phần thực hiện các mục tiêu đã nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về tranh tụng hình sự đã đƣợc nhiều tác giả trong và ngoài
nƣớc đề cập ở một số sách, báo, công trình nghiên cứu. Ở ngoài nƣớc: Tác giả
Philip L. Reichel viết cuốn: "Tư pháp hình sự so sánh" đƣợc Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý Bộ Tƣ pháp dịch giới thiệu năm 1999, tác giả Xtrogo Vích.

2



MC đã đề cập khái niệm tranh tụng hình sự trong: Giáo trình TTHS Xô Viết.
NXB Matxcơva 1968. Trong vấn đề kết hợp tố tụng tranh tụng với tố tụng
thẩm vấn ở Pháp và một số lƣu ý khi Việt Nam muốn cải cách theo hƣớng tố
tụng tranh tụng đƣợc nêu trong bài phát biểu Tố tụng tranh tụng và tố tụng xét
hỏi - Trích trình bày của bà Elisabeth Pelsez, Thẩm phán Tòa phúc thẩm
Rouen và ông Christian Rayseguier, Viện trƣởng Viện công tố tại Rouen
trong Hội thảo ngày 18 tháng 01 năm 2002 do Viện khoa học xét xử và Nhà
pháp luật Việt Pháp phối hợp tổ chức.
Tình hình nghiên cứu trong nƣớc: Các công trình, bài viết có liên quan
đến vấn đề tranh tụng trong TTHS do các tác giả trong nƣớc thể hiện, nổi bật
là: Luận án Tiến sỹ luật học của TS. Nguyễn Đức Mai về “Vấn đề tranh tụng
trong TTHS” (năm 2004). Luận văn thạc sỹ luật học “Thực hiện pháp luật
đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam
hiện nay” năm 2005 của Nguyễn Tiến Long, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sỹ luật học “Chất lượng tranh tụng tại
phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của KSV VKSND tỉnh Thanh Hoá”
năm 2008 của Mai Thị Nam, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh. Đề tài “Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” (năm 2003) của Học viện Tƣ pháp do PGS. TS Nguyễn Văn Huyên làm
chủ nhiệm; Đề tài “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa của KSV” (năm 2003) do TS. Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm đã đề cập đến
nhiều nội dung của tranh tụng. Công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
“Hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến tranh tụng
tại phiên toà sơ thẩm - Cơ sở lý luận và thực tiễn”, TANDTC, Tiến sỹ
Nguyễn Đức Mai - Chủ nhiệm đề tài, năm 2011.
Ngoài ra, còn có một số bài báo và tạp chí có đề cập đến nội dung
nghiên cứu trên nhƣng ở những góc độ khác nhau nhƣ: GS.TSKH. Lê Cảm,

3



Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS
(Tạp chí luật học số 6/2003); TS. Nguyễn Đức Mai, Hoàn thiện một số quy định
của BLTTHS hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm (Tạp chí luật học số 7/2008), Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và
phương hướng hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam (Tạp chí TAND số
24/2009); Ths. Hoàng Mạnh Hùng, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động xét xử các vụ án hình sự hiện nay (Tạp chí TAND số 03/2010); tác giả
Nguyễn Hà Trang, Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam (Tạp chí dân chủ và
pháp luật Số chuyên đề sửa đổi bổ sung BLTTHS); tác giả Nguyễn Trọng Tỵ,
Nâng cao chất lượng của đội ngũ Luật sư nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập (Dân
chủ pháp luật - Chuyên đề về tổ chức và hoạt động của Luật sƣ),v.v...
Các công trình khoa học nói trên đã gợi mở cho tác giả luận văn nhiều
ý tƣởng khoa học, là những tài liệu rất quý giá đƣợc sử dụng trong quá trình
nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu ở góc độ lý luận và thực
tiễn về việc bảo đảm tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm chƣa có tác giả
nào đề cập một cách toàn diện. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm tranh
tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm kiến nghị những giải pháp nâng cao chất
lƣợng tranh tụng tại phiên tòa, góp phần đảm bảo xét xử đúng ngƣời, đúng
tội, đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng NNPQ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu các quan điểm, những vấn đề lý luận
về bảo đảm tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm; quy định của pháp luật
về vấn đề này và đánh giá thực trạng bảo đảm tranh tụng tại phiên toà hình sự
sơ thẩm ở thành phố Hải Phòng; từ đó luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm
tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm, đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng


4


và hoàn thiện NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và quá
trình cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành Việt Nam. Đánh
giá thực trạng bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở thành phố
Hải Phòng trong 5 năm gần đây (từ năm 2013 đến năm 2017), chỉ ra nguyên
nhân của những vƣớng mắc trong thực tế.
- Làm rõ các yêu cầu bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,
từ đó đƣa ra các giải pháp về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả phiên tòa hình sự trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận quy định của pháp luật TTHS
và thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm ở thành phố Hải
Phòng những năm gần đây, những đảm bảo để nâng cao chất lƣợng tranh tụng
tại phiên toà hình sự sơ thẩm nói chung và ở thành phố Hải Phòng nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh bảo đảm
tranh tụng tại phiên tòa theo Luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu
đánh giá tình hình bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa trong thực tiễn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án hai cấp thành phố Hải Phòng, từ đó tìm ra
những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp
nâng cao hiệu quả bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong thực tiễn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

5


Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật và những quan điểm,
đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nƣớc ta về đấu
tranh phòng chống tội phạm và cải cách tƣ pháp trong tình hình mới. Những
thành tựu của khoa học pháp lý thế giới và Việt Nam, học thuyết của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc.
Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của
triết học Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Với các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích tổng hợp, so sánh,
thống kê... kết hợp với phƣơng pháp khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực tiễn về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Luận văn chỉ ra đƣợc những kết quả, hạn chế của thực trạng bảo đảm
tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất những giải pháp để bảo đảm tranh tụng tại phiên toà hình sự
sơ thẩm nói chung và ở thành phố Hải Phòng nói riêng trong tình hình mới.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, hoàn thiện
pháp luật TTHS và những ai quan tâm đến đề tài nghiên cứu của luận văn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn tại thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp về bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm tranh tụng trong TTHS
Sự xuất hiện thuật ngữ “tranh tụng” trong tố tụng gắn liền với lịch sử
hình thành, tồn tại và phát triển các tƣ tƣởng dân chủ, tiến bộ trong xã hội loài
ngƣời. Tƣ tƣởng về tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại và đƣợc coi là một
trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Tuy vậy, trong lịch sử TTHS Việt
Nam, khái niệm tranh tụng rất ít đƣợc đề cập. Trƣớc đây chúng ta quan niệm
“tranh tụng” là đặc trƣng của TTHS tƣ sản nên vấn đề này ít đƣợc đề cập
trong khoa học pháp lý nƣớc nhà. Trong thời gian gần đây, nhất là từ khi có
Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW thì vấn đề “tranh
tụng” đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn đề cập trong các
diễn đàn khoa học pháp lý và các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.
Hiện nay, trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác
nhau về tranh tụng. Theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện cáo
lẫn nhau. Theo từ điển Hán - Việt thì “tranh tụng” có nghĩa là “cãi lẽ, cãi
nhau để tranh lấy phải”. Trong tiếng Anh, tranh tụng là “Adversarial”, có
nghĩa là đối kháng, đƣơng đầu. Theo Từ điển Luật học năm 2006 - Viện Khoa
học pháp lý - Bộ Tƣ pháp thì tranh tụng đƣợc hiểu nhƣ sau:
Tranh tụng là hoạt động tố tụng đƣợc thực hiện bởi các bên

tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình
đẳng với nhau trong việc thu thập, đƣa ra chứng cứ để bảo vệ các
quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi
ích của phía bên đối lập [52, tr.807].

7


Tranh tụng diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ tranh tụng trong tố
tụng dân sự, tranh tụng trong tố tụng hành chính, kinh doanh thƣơng mại, lao
động... Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến tranh tụng trong TTHS.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, đến nay tranh tụng trong
TTHS còn có nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Tuy nhiên, trong khoa học
pháp lý nói chung khái niệm tranh tụng trong TTHS có sự thống nhất trên cơ
sở tiếp cận với hai nghĩa là: Nguyên tắc tranh tụng và quá trình tranh tụng.
- Một là, theo nghĩa là quá trình tranh tụng
Quá trình tranh tụng trong TTHS bắt đầu khi xuất hiện sự buộc tội của
cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đối với một cá nhân cụ thể hoặc một số
ngƣời xác định (thể hiện bằng việc ra quyết định khởi tố bị can, quyết định áp
dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ). Kể từ thời điểm này ở phía ngƣời bị
buộc tội (bị can, ngƣời bị tạm giữ) xuất hiện sự bào chữa để chống lại sự buộc
tội đó, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hay nói một cách
khác, tranh tụng chỉ có thể bắt đầu khi xuất hiện hai đối trọng là bên buộc tội
và bên bào chữa với hai chức năng tƣơng ứng là chức năng buộc tội và chức
năng bào chữa.
Quá trình tranh tụng đƣợc xem là kết thúc khi bản án hay quyết định
của Toà án về vụ án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm của các chủ thể có các quyền đó.
TTHS là một quá trình gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, giai đoạn
trƣớc tạo tiền đề cho giai đoạn sau, các giai đoạn của TTHS lần lƣợt trải qua

đó là khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nhƣ vậy mỗi giai đoạn này đều diễn ra
quá trình tranh luận trao đổi giữa các bên giữ chức năng buộc tội và bào chữa.
Song do đặc điểm của mỗi giai đoạn tố tụng này là khác nhau, do đó quá trình
tranh luận trao đổi ở mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng và kết quả riêng đặc
trƣng cho nó.

8


Giai đoạn khởi tố, điều tra và giai đoạn truy tố vụ án hình sự, có đặc
điểm chung là tranh tụng tại đây mới chỉ xuất hiện hai chức năng: Chức năng
buộc tội và chức năng bào chữa mà chƣa có sự tham gia của chức năng xét
xử, bản thân các chủ thể bào chữa và buộc tội cũng chƣa hiện diện công khai
thực hiện quyền năng của mình. Quá trình tranh tụng thể hiện bằng các quyền
đƣa ra lập luận yêu cầu bác bỏ lập luận ý kiến của bên kia mới chỉ ở giai đoạn
giả thiết về từng vấn đề mà giai đoạn này chứng minh. Sự đối lập của hai
chức năng chƣa đến đƣợc đỉnh điểm. Sự bất lợi thƣờng đƣợc đẩy sang phía
bào chữa bởi các quyết định đơn phƣơng của bên buộc tội.
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự có thể nói là sự
thể hiện tập trung nhất của tranh tụng hình sự. Đặc điểm của tranh tụng giai
đoạn này là sự xuất hiện của ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và xét xử. Các
quyền của các bên đƣa ra lập luận bác bỏ ý kiến của đối phƣơng đã mang tính
công bằng, công khai, giới hạn tranh tụng đƣợc chỉ rõ bởi phạm vi của buộc
tội và phạm vi của bào chữa. Nó khẳng định sự đối lập của hai chức năng
buộc tội và bào chữa lên đến đỉnh điểm. Sự xuất hiện của Toà án trở nên bức
thiết để phán quyết chân lý sẽ thuộc về phía nào. Tuy nhiên vị trí của quá
trình tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm lại có đặc điểm khác hơn tranh
tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Nếu nhƣ ở giai đoạn xét xử sơ thẩm có
đầy đủ các chủ thể của chức năng buộc tội và bào chữa tham gia thì ở giai đoạn
xét xử phúc thẩm, chủ thể tham gia bị hạn chế vì liên quan đến kháng cáo, kháng

nghị. Nội dung của tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm có phạm vi cụ thể là xoay
quanh các vấn đề của cáo trạng và các yêu cầu khác của chủ thể buộc tội nêu ra
đề nghị HĐXX giải quyết thì nội dung của tranh tụng tại phiên toà phúc thẩm có
phạm vi hẹp hơn là xoay quanh các vấn đề có kháng cáo, kháng nghị mà thôi.
TTHS có mục đích là xác định sự thật khách quan của vụ án, song
không chỉ để xác định sự thật khách quan của vụ án mà còn phải là quá trình

9


tìm ra chân lý để áp dụng pháp luật nhƣ: Định tội danh, quyết định hình phạt,
quyết định biện pháp tƣ pháp cho chính xác. Việc định tội danh cũng nhƣ áp
dụng pháp luật chính xác là một đòi hỏi của mục đích TTHS.
Nhƣ vậy, có thể đi đến kết luận: Tranh tụng trong TTHS là một quá
trình xác định sự thật khách quan của vụ án, chỉ ra căn cứ áp dụng pháp
luật. Quá trình này được xác định bằng việc chủ thể giữ chức năng buộc tội
và chủ thể giữ chức năng bào chữa, tranh luận, trao đổi với nhau về những
tình tiết, nội dung của vụ án đang giải quyết trong suốt tiến trình tố tụng để
thông qua đó chủ thể giữ chức năng xét xử thực hiện quyền phán quyết của
mình với vụ án.
- Hai là, theo nghĩa là nguyên tắc tranh tụng:
Tranh tụng trong TTHS là một quá trình tranh luận cọ sát nhau giữa các
quan điểm khác nhau của các chủ thể khác nhau tham gia tố tụng nhằm xác
định sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, quá trình tranh tụng trong TTHS
là một quy luật khách quan và đây chính là nguyên tắc cơ bản của TTHS.
Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS nhƣ đã nêu là một sự tồn tại khách
quan xuất phát từ bản chất của tố tụng. Khi đánh giá về nội dung của nguyên
tắc này có thể nói trong khoa học luật TTHS gần nhƣ có sự nhất trí cao về
những nội dung sau đây:
Nội dung thứ nhất: Trong nguyên tắc tranh tụng hình sự có sự tách

bạch giữa ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và xét xử. Buộc tội đƣợc hiểu là
tổng thể các hoạt động tố tụng của chủ thể buộc tội theo quy định của pháp
luật nhằm nêu ra các giả thiết một ngƣời (chủ thể) nào đó có hành vi mà Luật
Hình sự coi là tội phạm, để đƣa vào vòng TTHS nhằm kết tội chủ thể này phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đang bị giả thiết. Buộc tội còn đƣợc
hiểu là hoạt động tố tụng của các chủ thể buộc tội buộc những chủ thể khác có
liên quan đến hành vi phạm tội cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm

10


tội đang bị cáo buộc. Bào chữa là tổng thể các hoạt động tố tụng nhằm bác bỏ
sự buộc tội, khẳng định sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
hoặc chứng minh tính không liên quan của mình với hành vi phạm tội đang bị
xem xét của chủ thể khác bị buộc tội. Xét xử là hoạt động của HĐXX trên cơ
sở thủ tục nhất định, căn cứ vào kết quả tranh tụng của chủ thể buộc tội và
bào chữa tranh tụng với nhau, tiến hành đánh giá chứng cứ theo những
nguyên tắc của pháp luật, ra phán quyết giải quyết vụ án. Trong đó chức năng
xét xử không thể bao gồm cả việc buộc tội hoặc bào chữa.
Nội dung thứ hai của nguyên tắc tranh tụng là các bên buộc tội và bào
chữa phải tích cực thu thập, trình bày chứng cứ một cách có hiệu quả nhất,
thuyết phục nhất trƣớc Toà án. Lúc này, Toà án sẽ giữ vai trò là trọng tài, là
cán cân công lý để đƣa ra những phán quyết theo "sự thật" và "lẽ phải" của
bên có cơ sở thuyết phục.
Nội dung thứ ba của nguyên tắc tranh tụng là các bên buộc tội và bào
chữa bình đẳng trong quá trình tiến trình tranh tụng. Đó là sự thừa nhận khả năng
nhƣ nhau của các bên trong hoạt động chứng minh, trong việc đƣa ra những yêu
cầu và giải quyết những yêu cầu đó trƣớc Toà. Bình đẳng trong TTHS còn bao
hàm việc bình đẳng trong việc sử dụng các phƣơng tiện mà pháp luật giành cho
mỗi chủ thể ở mỗi giai đoạn của TTHS, các phƣơng tiện của các bên không phải

là giống nhau mà đòi hỏi phải tƣơng xứng với nhau, phải phù hợp với chức năng
của mỗi bên. Các phƣơng tiện đó chính là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
buộc tội và bào chữa ở mỗi giai đoạn tố tụng cụ thể. Xác định đƣợc đúng các
phƣơng tiện chính là xác định chính xác, đầy đủ và cụ thể giới hạn, nội dung của
các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, đồng thời pháp luật phải xác định cho đƣợc
cơ chế bảo đảm thực tế cho các quyền đó đƣợc thực hiện.
Từ những nhận định ở trên cho phép đi đến kết luận rằng: Tranh tụng
trong TTHS là một nguyên tắc cơ bản, nó chi phối và quyết định các hoạt

11


động tố tụng, hành vi tố tụng của các chủ thể giữ chức năng buộc tội, bào
chữa, xét xử. Khẳng định nguyên lý khi nào có sự buộc tội thì khi đó có sự
bào chữa. Buộc tội và bào chữa phải được thể hiện trong tất cả các giai đoạn
của TTHS từ khởi tố, điều tra vụ án, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án.
Khẳng định nguyên lý Toà án phải là trọng tài khi thực hiện chức năng xét
xử, phán quyết của Toà án có cơ sở duy nhất dựa vào chứng cứ đã được các
bên tranh luận công khai tại Toà.
Thông qua cách tiếp cận tranh tụng qua hai nghĩa nhƣ trên cho thấy:
Cách tiếp cận tranh tụng dƣới góc độ là nguyên tắc cho ta thấy đƣợc nội
dung tranh tụng hình sự, còn cách tiếp cận dƣới góc độ là quá trình của
TTHS cho ta thấy đƣợc hình thức của tranh tụng hình sự. Từ sự phân tích ở
trên có thể rút ra khái niệm chung về tranh tụng trong TTHS nhƣ sau: Tranh
tụng trong TTHS là một quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án,
chỉ ra căn cứ áp dụng pháp luật dựa trên nguyên lý khi nào có sự buộc tội,
khi đó có sự bào chữa. Buộc tội và bào chữa phải có ở mọi giai đoạn của
TTHS từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự, khẳng định nguyên lý Toà án phải là trọng tài khi thực hiện chức
năng xét xử, phán quyết của Toà án phải dựa vào chứng cứ đã được các bên

tranh luận công khai tại toà.
1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Quá trình thực hiện tranh tụng trong TTHS bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố bị can. Các hoạt động tranh tụng trƣớc khi đƣa ra xét xử tại phiên tòa
có thể đƣợc các chủ thể thực hiện “ngấm ngầm” hoặc “công khai” bằng nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chỉ tại phiên tòa hình sự thì việc thực hiện
tranh tụng mới thể hiện một cách toàn diện và đầy đủ nhất, là tổng hợp kết
quả của các hoạt động tranh tụng đã đƣợc diễn ra trƣớc đó.
Phiên tòa hình sự có sự tham gia của các chủ thể thuộc bên buộc tội,

12


bên gỡ tội cùng các chủ thể khác dƣới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa và
sự giám sát của HĐXX. Tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung và phạm vi tranh
tụng không bị bất kỳ giới hạn nào. Trong khi đó, ở phiên tòa phúc thẩm thành
phần tham gia cũng hạn chế hơn ở chỗ: Chỉ yêu cầu ngƣời kháng cáo hoặc bị
kháng cáo, kháng nghị là bắt buộc phải có mặt; còn các chủ thể khác nhƣ bị
cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị, ngƣời bị hại,
ngƣời làm chứng... thì tùy thuộc vào sự xem xét của Toà án có cần thiết hay
không mới triệu tập. Ngoài ra, nội dung và phạm vi tranh tụng tại phiên tòa
phúc thẩm cũng bị thu hẹp phụ thuộc vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị
và ý chí chủ quan của HĐXX. Tranh tụng không tồn tại trong thủ tục giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thực chất đây không phải là cấp xét xử mà chỉ là thủ
tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong một số
trƣờng hợp đặc biệt. Tại phiên xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm không có sự
hiện diện của các bên (nhất là bên gỡ tội), do vậy không thể có tranh tụng.
Thực chất việc xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có thể
dẫn đến sự khởi đầu mới của một quá trình tố tụng mới (nếu phán quyết của
Toà án dẫn đến việc điều tra, xét xử lại vụ việc). Trong trƣờng hợp này, tranh

tụng lại xuất hiện và kết thúc giống nhƣ sự khởi đầu và kết thúc của bất cứ vụ
án bình thƣờng nào khác.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm hội tụ đầy đủ ba chức năng cơ
bản của TTHS, đó là chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử. Các chức năng
này có mối liên hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Mỗi chức năng tồn tại và vận
động trong chừng mực tồn tại và vận động của chức năng kia. Hai chức năng
buộc tội và bào chữa đồng thời đƣợc thực hiện công khai, cạnh tranh quyết liệt
hƣớng tới việc thuyết phục HĐXX chấp nhận lập luận, chứng cứ chứng minh
và các đề xuất của mình, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án.
Tại phiên tòa hình sự, chức năng buộc tội trực tiếp do KSV, ngƣời bị

13


hại và nguyên đơn dân sự (nếu có) thực hiện. KSV buộc tội thông qua bản
Cáo trạng, qua việc xét hỏi và đƣa ra các lý lẽ để tranh luận với bên bào chữa
nhằm bảo vệ ý kiến của mình về vụ án. Ngƣời bị hại và nguyên đơn dân sự
đƣợc quyền trình bày sự việc, đƣa ra các chứng cứ và các lý lẽ bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình.
Chức năng bào chữa tại phiên tòa do bị cáo, ngƣời bào chữa; bị đơn
dân sự, ngƣời đại diện hợp pháp và ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ thực hiện.
Ngƣời bào chữa tại phiên tòa bao gồm: Luật sƣ, ngƣời đại diện hợp pháp của
bị cáo và bào chữa viên nhân dân.
- Tại phiên tòa, HĐXX giữ vai trò trọng tài sẽ xem xét, đánh giá các tài
liệu, chứng cứ của vụ án và kết quả cuộc tranh tụng công khai của hai bên buộc
tội và bào chữa để đƣa ra những nhận định đúng đắn về nội dung vụ án, tìm ra sự
thật khách quan của vụ án. Từ đó, đƣa ra phán quyết về tội danh và hình phạt đối
với ngƣời phạm tội cũng nhƣ giải quyết những vấn đề có liên quan khác.
Ngoài bản án của Toà án, không có văn bản buộc tội của chủ thể nào
giữ chức năng buộc tội đƣợc coi là sự buộc tội chính thức, xác định một chủ

thể nào đó có hành vi phạm tội mà Luật Hình sự quy định. Một số văn bản
nhƣ quyết định bắt giữ, khởi tố, tạm giam, cáo trạng... không đƣợc xem là sự
buộc tội chính thức mà chỉ là các giả thiết của các chủ thể giữ chức năng buộc
tội đƣợc Nhà nƣớc trao quyền điều tra, thu thập, tiến hành các thủ tục tố tụng
khác làm tiền đề cho giai đoạn xét xử mà tập trung nhất là tại phiên tòa hình
sự. Một ngƣời chỉ bị coi là có tội khi có quyết định hoặc bản án kết tội của
Tòa án có hiệu lực pháp luật, do đó, các quyết định đó về nguyên tắc chƣa
đƣợc coi là sự buộc tội chính thức. Bản án (có hiệu lực pháp luật và không bị
kháng cáo, kháng nghị) chấm dứt cuộc tranh luận của hai bên buộc tội và bào
chữa, xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Về hình thức, tranh tụng tại phiên tòa chính là cách thức tổ chức phiên

14


tòa qua các thủ tục khác nhau nhƣ: Bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận và
quá trình tranh tụng đƣợc coi là kết thúc khi phần tranh luận kết thúc.
- Về nội dung, việc tranh tụng tại phiên tòa thể hiện ngay ở phần thủ
tục bắt đầu phiên tòa bằng việc các bên có thể đƣa ra yêu cầu triệu tập thêm
ngƣời làm chứng hoặc đƣa ra vật chứng, tài liệu mới để HĐXX xem xét.
Những yêu cầu này chính là những đảm bảo cho việc xét hỏi và tranh luận ở
phần tiếp theo của phiên tòa.
Sau phần thủ tục là phần xét hỏi. Phần này có vai trò: Thông qua việc
xét hỏi các bên kiểm tra xem xét các chứng cứ, tài liệu, vật chứng đã thu thập
trong quá trình điều tra để xác định sự kiện này hay sự kiện kia là có thật hay
không có thật để từ đó có cơ sở nhận định, đánh giá kết luận cho các quan
điểm của mình sẽ nêu ở phần tranh luận. Phần tranh luận thể hiện đậm nét
nhất nội dung của tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự cũng nhƣ toàn bộ
quá trình tranh tụng của TTHS. Tại đây các chủ thể buộc tội và bào chữa nêu
quan điểm của mình dựa vào kết quả thẩm vấn để chỉ ra sự tồn tại hay không

tồn tại mối liên hệ logic giữa các sự kiện, các tình tiết ở giai đoạn điều tra kết
luận và đã đƣợc làm rõ tại phần xét hỏi, từ đó viện dẫn căn cứ pháp luật, lập
luận đƣa ra kết luận khẳng định hoặc bác bỏ nội dung buộc tội của chủ thể
buộc tội hoặc nội dung bào chữa của chủ thể bào chữa, đề nghị với HĐXX về
tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt cụ thể cũng nhƣ các yêu cầu
khác... Nhƣ vậy thông qua tranh luận kết quả xét hỏi đƣợc kiểm tra đánh giá
về tính hợp pháp và tính logic của các chứng cứ, sự kiện của vụ án. Hai giai
đoạn xét hỏi và tranh luận có mối liên hệ logic chặt chẽ với nhau, xét hỏi là
tiền đề cho tranh luận. Tranh luận để làm sáng tỏ xét hỏi, luận tội của chủ thể
buộc tội hoặc bào chữa của chủ thể bào chữa không dựa vào kết quả thẩm vấn
công khai tại Toà sẽ là những quan điểm chủ quan áp đặt thiếu căn cứ, trái
pháp luật và không mang tính thuyết phục.

15


Ở phiên toà xét xử sơ thẩm của giai đoạn xét xử sơ thẩm và tại phiên
toà xét xử phúc thẩm của giai đoạn xét xử phúc thẩm của vụ án hình sự thì
tranh tụng với tƣ cách là nguyên tắc của TTHS, đƣợc thể hiện ở những mức
độ và tính chất khác nhau. Phiên toà xét xử sơ thẩm hiện diện đầy đủ cả ba
loại chủ thể, giữ ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và xét xử. Các chủ thể này
về nguyên tắc có sự hiện diện đông đủ nhất và công khai nhất, các chủ thể này
có những quyền năng đƣợc xác định cụ thể với những đảm bảo chặt chẽ. Quá
trình tranh tụng (trao đổi tranh luận, cọ sát các quan điểm với nhau) về nội
dung vụ án mà phạm vi của nó đã đƣợc giới hạn trong nội dung buộc tội của
chủ thể buộc tội với bị cáo, hoặc yêu cầu với ngƣời khác. Nói một cách khác
quá trình tranh tụng tại phiên toà chính là quá trình chứng minh hay bác bỏ
tính có căn cứ và hợp pháp của nội dung cáo trạng và các yêu cầu khác của
chủ thể buộc tội - đó chính là cơ sở pháp lý tồn tại của giai đoạn xét xử sơ
thẩm. Sự phán quyết của HĐXX với tƣ cách nhân danh Nhà nƣớc lần đầu tiên

đƣa ra quan điểm chính thức với vụ án, nội dung của phán quyết nêu những
yêu cầu nào, của chủ thể nào đƣợc chấp nhận. Những yêu cầu nào, của chủ
thể nào là không có căn cứ pháp luật. Những phán quyết đó đƣợc dựa trên các
tài liệu nào? cơ sở nào? Còn ở phiên toà xét xử phúc thẩm chủ thể của bên
buộc tội và bào chữa hạn chế hơn, phạm vi tranh tụng cũng hẹp hơn vì nó phụ
thuộc vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Bản chất của tranh tụng không
phải bác bỏ tính có căn cứ hợp pháp của nội dung cáo trạng và các yêu cầu
khác của chủ thể buộc tội nữa mà nó nhằm vào những vấn đề mà bản án sơ
thẩm đã tuyên có ý kiến không chấp nhận.
Nhƣ vậy, có thể kết luận: Tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự là
một quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án, tại giai đoạn xét xử sơ
thẩm bằng việc chủ thể giữ chức năng buộc tội và chủ thể giữ chức năng bào
chữa thông qua việc xét hỏi vụ án tranh luận, trao đổi với nhau về những tình

16


tiết, nội dung của vụ án đang giải quyết. Để khẳng định sự kiện nào, tình tiết
nào là đúng đắn, sự kiện nào, tình tiết nào cần bác bỏ. Thông qua đó, chủ thể
giữ chức năng xét xử thực hiện quyền phán quyết của mình với vụ án.
1.1.3. Đặc điểm của tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Trong TTHS, giai đoạn xét xử đƣợc coi là giai đoạn trọng tâm và trong
các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm lại có vai trò quan trọng nhất. Bởi lẽ, toàn bộ
vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án đƣợc xem xét lần đầu và quyết định
ngay tại giai đoạn này. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá
trình TTHS. Trong đó, Toà án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ
án, lần đầu tiên đƣa vụ án ra xét xử bằng phiên toà nhằm xác định có hay
không có tội phạm xảy ra, một ngƣời có phải là ngƣời phạm tội để từ đó đƣa
ra phán quyết bằng bản án, quyết định [9, tr. 310].

Việc xét xử vụ án hình sự có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau (xét
xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm…).
Tuy nhiên, đây không phải là các giai đoạn mà mọi vụ án hình sự đều phải trải
qua một cách đầy đủ và đúng trình tự. Duy nhất chỉ có giai đoạn xét xử sơ
thẩm là giai đoạn bắt buộc đối với quá trình giải quyết bất kỳ vụ án hình sự nào.
Tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, có thể có sự tham gia
đầy đủ nhất của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa cũng nhƣ
các chủ thể khác tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên xử này các chức
năng tố tụng cơ bản đƣợc phân định rạch ròi: Buộc tội, gỡ tội và xét xử, trong
đó chức năng buộc tội thuộc về bên công tố, chức năng gỡ tội thuộc bên luật
sƣ biện hộ và chức năng xét xử thuộc về Toà án. Cũng chỉ tại phiên toà xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự, vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa đƣợc xác
định là các bên có quyền ngang nhau trong việc sử dụng các phƣơng tiện mà
pháp luật cho phép để thực hiện chức năng của mình khi tranh tụng trƣớc Toà

17


×