Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Pháp luật về chế tài thương mại theo quy định của luật thương mại năm 2005 Thực trạng và giải pháp (Đề tài NCKH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.5 KB, 54 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI
------------o0o------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Pháp luật về chế tài thƣơng mại theo quy định của luật
thƣơng mại năm 2005 - Thực trạng và giải pháp

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Kim Thanh

Hà Nội, năm 2017


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………………
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY
ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005…………………………..
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI………………………………………………
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI………………………………………………………………….
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước………………………………………..
1.2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài……………………………………….
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI……
1.4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI……………………………………..
1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI………………………………………
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI………………………………
1.7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI……………………………………………………….
CHƯƠNG II: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
THƯƠNG MẠI…………………………………………………………………….
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA



3
4
4
6
6
8
9
10
10
11
11
12
12

LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005…………………………………………..
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại……………………...
2.1.2. Chế tài thương mại theo quy định của Công ước Viên năm 1980 và Luật
thương mại năm 2005 – một vài điểm tương đồng và khác biệt
2.2. VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
2.3. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY
ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005……………………………..
2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng…..
2.3.2. Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm……………………..
2.3.3. Quy định của pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại………...
2.3.4. Quy định của pháp luật về chế tài ngừng thực hiện hợp đồng………..
2.3.5. Quy định của pháp luật về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng……...
2.3.6. Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng ………………….
2.3.7. Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại..
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI

THƯƠNG MẠI…………………………………………………………
3.1. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC
THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG………………………………………….
3.2. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
1

12
14
15
17
18
20
22
23
24
24
26
31
31


PHẠT VI PHẠM………………………………………………………………
3.3. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
BUỘC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI …………………………………………
3.4. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI TẠM
NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG……………………………………
3.5. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI HỦY
BỎ HỢP ĐỒNG…………………………………………………………….
3.6. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN
HỆ CỦA CÁC LOẠI CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI………………………………...

3.7. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI……………………
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ
TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 2005…
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG
MẠI…………………………………………………………………………………..
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI
THƯƠNG MẠI……………………………………………………………………...
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng………………………………………………………………………
4.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm…..
4.2.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài buộc bồi thường
thiệt hại ……………………………………………………………………………...
4.2.4. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài tạm ngừng thực
hiện hợp đồng……………………………………………………………………….
4.2.5. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng.
4.2.6. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về mối quan hệ giữa các
chế tài thương mại ………………………………………………………………….
KẾT LUẬN………………………………………………………………………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………….

2

32
34
36
37
39
40
42

42
44
44
45
47
48
48
48
51
52


LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của nền kinh tế theo sự phát triển của hoạt động thương mại
cùng với sự gia tăng của các loại hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương
mại được giao kết và có hiệu lực pháp luật đòi hỏi các bên chủ thể phải tuân thủ
đúng như những cam kết mà mình đã thỏa thuận. Việc thực hiện quyền và nghĩa
cụ của các bên trong hợp đồng tạo ra tính chất tuân thủ của các chủ thể trên cơ
sở các quy định của pháp luật hiện hành. Hợp đồng thương mại được thực hiện
dưới nhiều mục đích khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là tạo ra mục đích sinh
lời cho các bên. Do vậy việc thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung đã được
các bên thỏa thuận trước đó là một điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên trên thực
tế, không phải hợp đồng thương mại nào được giao kết cũng được các bên chủ
thể nghiêm chỉnh tuân thủ. Các bên có thể viện dẫn nhiều lý do khác nhau hoặc
cũng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà hợp đồng thương
mại không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Nếu việc thực hiện hợp
đồng thương mại rơi vào các trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp
được miễn trách nhiệm thì các bên được loại trừ trách nhiệm. Cịn nếu hợp đồng
thương mại được xác định khơng thực hiện xuất phát từ hành vi vi phạm hợp
đồng từ 1 bên chủ thể thì việc áp dụng một trong các chế tài thương mại chắc

chắn sẽ được đặt ra. Trong trường hợp này, để áp dụng 1 biện pháp chế tài cụ
thể phải dựa trên cơ sở các căn cứ cơ bản. Một chủ thể có thể bị áp dụng một
chế tài thương mại và cũng có thể bị áp dụng nhiều chế tài thương mại.
Chế tài thương mại trong hoạt động thương mại có vai trị vơ cùng quan
trọng, có tính răn đe, giáo dục cao góp phần đảm bảo cho hợp đồng thương mại
được thực hiện trên thực tế ngay cả khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương
mại phát sinh. Vì vậy việc nghiên cứu và hoàn thiện chế tài thương mại theo quy
định của Luật thương mại năm 2005 là hết sức quan trọng, hướng đến bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể thứ 3 khác đảm bảo cho hoạt động thương mại được mở rộng hơn
nữa và được phát triển toàn diện.

3


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hoạt động thương mại trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng phát
triển. Các chủ thể có thể thiết lập với nhau vô số những hoạt động thương mại
như mua bán hàng hóa; xúc tiến thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; ủy
thác bán hàng hóa; đại lý thương mại …Trên thực tế việc thực hiện các hoạt
động thương mại nói trên được các chủ thể xác lập trên cơ sở các loại hợp đồng
thương mại tương ứng. Các hợp đồng thương mại này được thiết lập trước hết là
phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành mà trước hết là các quy định
của hợp đồng nói chung trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số quy định
khác của Luật thương mại năm 2005. Yêu cầu trước hết được đặt ra với các bên
tham gia hợp đồng thương mại là phải thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm
chỉnh và đầy đủ, trừ trường hợp một trong các bên rơi vào các trường hợp bất
khả kháng. Đôi khi việc thực hiện hợp đồng thương mại giữa các bên lại không

đáp ứng được mong muốn của các chủ thể làm cho hợp đồng thương mại không
được thực hiện hoặc được thực hiện nhưng khơng dầy đủ. Điều này có thể xuất
phát từ những nguyên nhân khác nhau, có thể là từ nguyên nhân khách quan
nhưng cũng có thể từ những nguyên nhân chủ quan. Thông thường việc không
thực hiện hợp đồng thương mại xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan, chủ
thể các bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng với
những gì mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại thì chủ thể này
sẽ bị áp dụng một trong các chế tài thương mại do Luật thương mại năm 2005 đã
quy định. Tùy từng trường hợp cụ thể mà chủ thế đó có thể bị áp dụng một trong
các biện pháp sau: Buộc phải thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi
thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng;
hủy bỏ hợp đồng hoặc bị áp dụng các biện pháp khác mà các bên thỏa thuận
nhưng không trái với quy định của pháp luật Việt Nam. Nếu vì nguyên nhân
khách quan mà hợp đồng thương mại khơng thực hiện được thì các bên có thể tự
thỏa thuận với nhau để giải quyết thỏa đáng và bản thân pháp luật cũng có
những quy định để miễn thực hiện trách nhiệm cho các bên như trong trường
hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết. Cịn khi hợp đồng thương mại không
thể thực hiện do một bên chủ thể thể hiện thái độ cố ý không thực hiện, thì dù
4


chủ thể phía bên kia có cố gắng thỏa thuận thì cũng khơng đạt được mục đích.
Do đó, việc áp dụng chế tài thương mại trong trường hợp này được đánh giá là
hết sức cần thiết, không những đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực
hiện trên thực tế mà cịn làm cho hoạt động thương mại được thơng suốt.
Chế tài thương mại không phải là một vấn đề mới được quy định trong Luật
thương mại năm 2005, nó ra đời gắn liền với hoạt động thương mại, đảm bảo
cho hoạt động thương mại phát triển. Trong thực tế đời sống xã hội, các hoạt
động thương mại diễn ra thường xuyên và để đảm bảo sự xuyên suốt cho các
hoạt động này sẽ có lúc phải cần đến chế tài thương mại. Vì vậy chế tài thương

mại được xác định là một vấn đề gắn liền với hoạt động thương mại. Ngoài ra
việc áp dụng chế tài thương mại cịn có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc
đảm bảo được quyền và lợi ích của các các bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ
hợp đồng thương mại, đặc biệt là khi chủ thể phía bên kia của hợp đồng cố ý
không tuân thủ theo đúng những gì mà họ đã thỏa thuận trước đó. Ngồi ra chế
tài thương mại trong một chừng mực nào đó có tính răn đe, trừng phạt cao đối
với các bên chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Điều
này cũng góp phần đảm bảo cho quy định của pháp luật hiện hành về các biện
pháp chế tài trong hoạt động thương mại được thực hiện một cách nghiêm túc.
Hơn nữa, thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại trong thời
gian qua còn tồn tại nhiều vấn đề gây tranh cãi, gây khó khăn cho các cơ quan
giải quyết tranh chấp và các bên trong việc xác định hình thức xử lý đối với các
bên có vi phạm hợp đồng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được xác định có
thể xuất phát từ những bất cập của quy định của pháp luật hiện hành về chế tài
trong thương mại. Vì vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các biện pháp chế
tài thương mại là một điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Cho đến
nay các cơng trình nghiên cứu khoa học về tất cả các biện pháp chế tài thương
mại lại chưa nhiều, hầu hết tập trung vào việc nghiên cứu các hoạt động thương
mại nói chung hoặc hợp đồng thương mại….hoặc có một số cơng trình nghiên
cứu về chế tài thương mại nhưng lại bị bó hẹp trong phạm vi nhỏ (chỉ nghiên
cứu một hoặc một vài biện pháp chế tài thương mại điển hình). Trong khi đó chế
tài thương mại được quy định trong Luật Thương mại năm 2005 lại có rất nhiều
các biện pháp khác nhau được quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể
thì chưa được nghiên cứu tổng quát. Với những lý do cơ bản trên, tác giả đã lựa
5


chọn đề tài “Pháp luật chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại
năm 2005 – Thực trạng và giải pháp”. Mục tiêu mà đề tài hướng đến là nghiên
cứu một cách tổng quát toàn bộ các biện pháp chế tài trong hoạt động thương

mại, đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài này trên thực tế, trong
q trình nghiên cứu và có tiếp thu từ các học giả khác, tác giả mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các biện pháp này cho phù hợp với sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện này và trong thời gian tới.
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước:
Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của hoạt động thương mại và để
đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động thương mại này, các bên chủ thể
thường thiết lập với nhau một hợp đồng thương mại tương ứng. Các hợp đồng
thương mại được hình thành một phần trên cơ sở sự tự thỏa thuận giữa các chủ
thể, một phần cũng phải được hình thành trên cơ sở các quy định của pháp luật
thương mại. Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các bên khi những thỏa
thuận này thuộc giới hạn cho phép của pháp luật. Sự tôn trọng này của pháp luật
là xuyên suốt từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp
đồng… cho đến thời điểm các bên chủ thể thực hiện hợp đồng. Thơng thường
khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, các bên sẽ tự mình thực hiện
những cam kết đã được thỏa thuận. Song có những trường hợp vì lý do nào đó
một trong các bên tham gia hợp đồng khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng thì lúc đó cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật. Chế tài tài thương
mại được coi là các biện pháp khá hữu hiệu nhằm đảm bảo cho hợp đồng thương
mại được thực thi trên thực tế, từ đó các hoạt động thương mại vì thế cũng được
thơng suốt. Thông qua các biện pháp chế tài, dù muốn hay không các chủ thể
cũng phải tôn trọng hợp đồng thương mại do các bên thiết lập, đồng thời tôn
trọng pháp luật hiện hành trong các hoạt động thương mại nói chung. Tuy nhiên,
bên cạnh những giá trị tích cực mà các biện pháp chế tài thương mại đem lại cho
hoạt động thương mại, thì các biện pháp này cũng có những hạn chế nhất định
cần được phân tích và hồn thiện. Chính vì vậy đến nay, mặc dù khơng phải là
một vấn đề mới nhưng chế tài thương mại đã được rất nhiều các tác giả quan
tâm nghiên cứu. Sự nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề lớn, đó là nó được

6


áp dụng cho những trường hợp nào và hiệu quả đã đạt được như các nhà lập
pháp mong muốn hay khơng, từ đó đưa ra quan điểm hồn thiện, sự đánh giá
bản thân cá nhân về các biện pháp này.
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, về cơ bản có 6 biện pháp
chế tài thương mại, trong đó chỉ có một số ít cơng trình nghiên cứu khoa học
nghiên cứu toàn diện về cả 6 biện pháp này. Cịn lại phần lớn các cơng trình
nghiên cứu về chế tài thương mại dưới trong một phạm vi nhỏ hẹp (thông
thường các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vào một biện pháp chế tài nào đó
hoặc hai biện pháp chế tài thương mại). Dù các cơng trình khoa học nghiên cứu
toàn diện hay chỉ một hoặc một số chế tài thương mại thì đều thể hiện được tính
khoa học trong nội dung bài viết của mình. Nhìn chung trên cơ sở lý luận cơ
bản, các tác giả đều đánh giá được thực trạng thực hiện của các biện pháp chế tài
thương mại, từ đó đưa ra quan điểm của cá nhân trong việc hoàn thiện các biện
pháp chế tài thương mại cho phù hợp với thực tiễn xã hội. Quan điểm cá nhân
được các tác giả đưa ra tương đối đa dạng, mặc dù họ cùng nghiên cứu về các
biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại. Điều này giúp cho các quy định
của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại được đánh giá, được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau. Việc hồn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành về chế tài thương mại trong thời gian cũng cần được xem xét cho phù hợp
với sự phát triển của kinh tế xã hội và hoạt động thương mại trong thời gian tới.
Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu về chế tài thương
mại trong thời gian qua như :
1) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của
pháp luật Việt Nam, tác giả Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ
2) Bình luận về biện pháp phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng thương mại,
tác giả Dương Anh Sơn
3) Chế tài trong thương mại – Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện,

tác giả Đồng Thái Quang.
4) Mâu thuẫn giữa chế tài dân sự và chế tài thương mại – tác giả Nguyễn
Tấn, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh
5) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của
pháp luật Việt nam, tác giả Mai Phương
6) Chế tài cho việc không thực hiện đúng hợp đồng, TS. Đỗ Văn Đại
7


7) Vấn đề thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt
Nam, tác giả Nguyễn Phương, năm 2014
8) Khóa luận tốt nghiệp «Tìm hiểu các chế tài thương mại theo quy định của
Luật thương mại năm 2005 » năm 2013
9) Khóa luận tốt nghiệp «Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong
thương mại», năm 2013
10) Tiểu luận « Phân tích các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài
sản và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của
Luật thương mại », năm 2013.
11) Khóa luận tốt nghiệp «Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực
thương mại tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương Mai, năm 2013
12) Luận văn thạc sĩ « So sánh các chế tài vi phạm hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam và theo Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế »,
Phạm Thị Ngọc Ánh, năm 2014
13) Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật
Việt Nam, tác giả Đỗ Văn Đại
14) Bàn về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, TS. Phan Thị Thanh Thủy
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Khơng chỉ ở Việt Nam mà ở một số quốc gia khác trên thế giới như Anh,
Pháp, Mỹ… hoạt động thương mại được đánh giá ngày một phát triển và các

hoạt động thương mại này đều được pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản
pháp luật thương mại. Những hoạt động thương mại này được thiết lập thông
qua hợp đồng thương mại và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Trong trường
hợp hợp đồng thương mại được thiết lập mà các bên không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng thì pháp luật ở các quốc gia này sẽ có những biện pháp chế tài
phù hợp nhằm đảm bảo tính thực thi của hợp đồng thương mại. Như vậy, cũng
có nét tương đồng với pháp luật thương mại Việt Nam, chế tài thương mại ở một
số quốc gia trên thế giới cũng được đặc biệt quan tâm. Chế tài thương mại được
quy định trong pháp luật thương mại ở các quốc gia này bao gồm các biện pháp
buộc thực hiện hợp đồng; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng và
biện pháp hủy hợp đồng. Các biện pháp chế tài này về cơ bản giống với quy
định của pháp luật thương mại Việt Nam. Tuy nhiên tùy theo sự phát triển kinh
8


tế - xã hội của mỗi quốc gia mà các biện pháp này được quy định cho phù hợp
nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thương mại nói chung.
Đến nay với các quy định của pháp luật về vấn đề chế tài trong hoạt
động thương mại, nhiều tác giả khác nhau trên thế giới cũng đã có những nghiên
cứu nhất định. Sự nghiên cứu này có thể tập trung vào tất cả các biện pháp chế
tài thương mại nói trên, nhưng cũng có những cơng trình của một số tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu một hoặc một vài biện pháp chế tài thương mại. Nhìn
chung các cơng trình nghiên cứu đều thể hiện được quan điểm, cũng như sự
đánh giá của các tác giả về các quy định của pháp luật hiện hành về các biện
pháp chế tài. Thông thường định hướng mà các tác giả nghiên cứu là hướng tới
dự đoán việc áp dụng các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại. Sau đó
đưa ra quan điểm của mình xem những biện pháp này thực chất đã phù hợp hay
chưa thật sự phù hợp. Trong trường hợp tác giả xác định nó chưa phù hợp thì
nguyên nhân nào sẽ được xác định là nguyên nhân chủ yếu. Từ đó tác giả sẽ đưa
ra giải pháp hoàn thiện dựa trên việc xác định các nguyên nhân chủ yếu này.

Trong các cơng trình nghiên cứu của mình họ tập trung nghiên cứu về điều kiện
áp dụng các biện pháp chế tài và bình luận có hay không sự phù hợp của chế tài
thương mại trong hoạt động thương mại. Cuối cùng là đưa ra các giải pháp hoàn
thiện cụ thể cho quy định của pháp luật về các biện pháp chế tài thương mại. Có
thể thấy rằng việc nghiên cứu của các tác giả này có sự khác biệt so với các tác
giả ở Việt Nam. Các tác giả Việt Nam sau khi nghiên cứu các quy định pháp
luật hiện hành sẽ tập trung vào đánh giá thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp phù
hợp. Cịn các tác giả nước ngồi khi nghiên cứu về các biện pháp chế tài thì lại
đưa ra quan điểm mang tính chất dự đốn (hồn tồn mang tính chủ quan) của
con người. Đối với một số quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ (Common
Law) thì cơng trình nghiên cứu của các tác giả nói trên có một vai trị đặc biệt
quan trọng, có thể là một cơ sở pháp lý quan trọng, một tập quán pháp lý quan
trọng để áp dụng các biện pháp chế tài thương mại trong hoạt động thương mại
nói chung. Các quy định về chế tài thương mại ở các quốc gia này thường mang
tính khái qt cao, vì vậy các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này cũng được
thể hiện, nhìn nhận và đánh giá một cách tổng quát. Có thể kể đến một số bài
viết, cơng trình nghiên cứu điển hình như:
1) E.A Vaxilep, Luật dân sự, thương mại ở các nước tư bản 1999
9


2)

3)
4)

5)

6)


7)

Albert H. Kritzer. CISG: table of Contracting States, accessed date
14/6/2014
Avery W. Kats, Remedies for breach of contract under the CISG.
Alexander von Ziegler, The right of suspension and stoppage in transit,
Journal of Law and Commerce
Urich Magnus, The Remedy of Avoidance of Contract Under CISG –
General Remarks and Special Cases.
John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG,
Hart Publishing, 2008
UNCITRAL Digest of case law on the United Nations Convention on the
International Sales of Goods, accessed date 2/6/2014

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:
- Những vấn đề lý luận cơ bản trong quy định của pháp luật về chế tài
thương mại, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các quy định trong Luật
thương mại năm 2005
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa các chế tài thương mại trong hoạt động
thương mại.
- Nghiên cứu và so sánh vấn đề chế tài thương mại theo quy định của Luật
thương mại với quy định về chế tài thương mại của một số quốc gia khác và
Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa
- Trên cơ sở lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng trong quy định
của pháp luật về chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm
2005
- Tử việc tìm ra những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật về chế
tài thương mại, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này theo quy định của Luật thương mại năm 2005

1.4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Chế tài thương mại là một trong những quy định quan trọng trong nội
dung điều chỉnh của Luật thương mại. Nó có tác động trực tiếp đến hoạt động
thương mại nói chung mà cụ thể là hợp đồng thương mại giữa các chủ chể. Do
vậy, để nghiên cứu một cách tổng qt, tồn diện hơn thì đề tài tập trung vào 2
hướng mục tiêu cơ bản như sau:
10


+ So sánh được các quy định của Luật thương mại với quy định pháp luật
về chế tài thương mại của một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung
Quốc, Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa... để tìm ra điểm tương
đồng và khác biệt giữa chúng. Ngồi ra cịn nghiên cứu quy định của pháp luật
về chế tài thương mại được quy định trong Luật thương mại với quy định của
pháp luật hiện hành về chế tài nói chung mà cụ thể là trong quy định của pháp
luật Dân sự Việt Nam trong thời gian qua. Đây chính là các mục tiêu đầu tiên
mà tác giả đặt ra trước khi nghiên cứu các nội dung cụ thể trong quy định của
pháp luật thương mại về chế tài thương mại. Từ đó có sự đánh giá và đưa ra cái
nhìn chung nhất liên quan đến việc điều chỉnh của pháp luật về chế tài thương
mại ở Việt Nam
+ Trên cơ sở các mục tiêu nghiên cứu đã được đề ra và trên cơ sở nghiên
cứu pháp luật hiện hành về chế tài thương mại, đề tài hướng đến mục tiêu cụ thể
là có thể đánh giá một cách toàn diện nhất về vấn đề này, tìm ra những điểm bất
cập, hạn chế để từ đó đưa ra một số giải pháp nhất định nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật về chế tài thương mại trong thời gian tới, đảm bảo cho
việc áp dụng các quy định của pháp luật về chế tài thật sự được phù hợp với
thực tiễn hoạt động thương mại
1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp chế tài trên cơ
sở những quy định của Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi

hành. Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu chế tài thương mại trên cơ sở có sự so
sánh với quy định pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia khác trên
thế giới đặc biệt là giữa công ước Viên năm 1980 với Luật Thương mại năm
2005.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về chế tài thương mại từ năm 2005 đến nay.
1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp thu thập tài liệu: Phương pháp này được sử dụng xuyên
suốt trong quá trình nghiên cứu và đóng vai trị quan trọng khi nghiên cứu các
vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật liên quan đến chế tài thương mại. Việc thu
thập tài liệu bao gồm cả tài liệu trong nước và tài liệu nước ngoài về vấn đề này.
11


Đây là cơ sở quan trọng để có thể đánh giá được những bất cập, hạn chế trong
quy định của pháp luật về chế tài thương mại, dẫn chiếu các quy định của pháp
luật nước ngoài, gợi mở hướng kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam, đồng thời
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chế tài thương mại
+ Phương pháp so sánh: Ngoài các quy định của pháp luật hiện hành liên
quan đến chế tài thương mại, đề tài còn tập trung nghiên cứu pháp luật về chế tài
thương mại của một số quốc gia khác như Trung quốc, Pháp, Công ước Viên
năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế... từ đó tìm ra điểm tương đồng và điểm
khác biệt với quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó rút ra bài
học cho pháp luật Việt Nam khi quy định về chế tài thương mại mà các quốc gia
khác đã có quy định tiến bộ về vấn đề này. Tuy nhiên, việc rút ra bài học cho
pháp luật Việt Nam về vấn đề này phải phù hợp với điều kiện kinh tế ở Việt
Nam
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ
bản, cần đánh giá tổng quát lại những vấn đề cần được nghiên cứu liên quan đến

các quy định của pháp luật về chế tài thương mại. Từ đó đưa ra những đánh giá
chung nhất, cũng như đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật về vấn đề này
1.7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Những lý luận cơ bản của pháp luật về chế tài thương mại
- Chương 2: Thực trạng trong quy định của pháp luật về chế tài thương
mại
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài
thương mại

12


CHƯƠNG II: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY
ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại
2.1.1.1. Khái niệm chế tài thương mại
Để hiểu rõ khái niệm chế tài thương mại thì cần thiết phải làm rõ khái
niệm chế tài nói chung. Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên
những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể nhất
định để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật. Các biện pháp tác động được nêu
trong bộ phận chế tài sẽ được áp dụng với các chủ thể bị coi là vi phạm pháp
luật không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã được đưa ra trong phần
quy định của quy phạm pháp luật khi rơi vào điều kiện, hoàn cảnh được quy
định trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Các hình thức chế tài đa dạng
bao gồm chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài kỷ luật.
Mỗi một loại chế tài nói trên đều được pháp luật quy định cụ thể từ việc áp với

chủ thể nào, ai là người có thẩm quyền áp dụng, bao gồm những biện pháp cụ
thể là gì….
Chế tài thương mại là một dạng chế tài dân sự theo nghĩa rộng, nên về cơ
bản nó sẽ có những nét tương đồng của chế tài nói chung và chế tài dân sự nói
riêng. Tuy nhiên, khi áp dụng trong hoạt động thương mại thì chế tài thương
mại sẽ có đặc thù riêng có của nó, Luật thương mại năm 2005 khơng đưa ra khái
niệm cụ thể về chế tài thương mại mà chỉ liệt kê các loại chế tài có thể được áp
dụng khi có vi phạm hợp đồng thương mại đó là buộc thực hiện đúng hợp đồng;
phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực
hiện hợp đồng; hủy bỏ thực hiện hợp đồng và các biện pháp khác do các bên tự
thỏa thuận không trái với nguyên tắc của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên. Chế tài thương mại là một loại chế tài phát sinh
trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại hay nói một cách chính xác hơn
chế tài thương mại được áp dụng khi một trong hai bên chủ thể vi phạm hợp
đồng thương mại. Vi phạm hợp đồng thương mại được Luật thương mại năm
2005 quy định rõ “là việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
hoặc không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên” (Khoản 12 Điều 3).
13


Như vậy có thể thấy được Luật thương mại năm 2005 tiếp cận khái niệm chế tài
thương mại là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị
vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng thương mại.
Theo đó, chế tài thương mại được áp dụng với chủ thể không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng thương mại và
bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu một hậu quả pháp
lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Việc áp dụng chế tài thương mại
nào được coi là phù hợp thì nó phải tương ứng với mỗi hành vi vi phạm và tính
chất của mỗi hành vi vi phạm của các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp
đồng thương mại.

2.1.1.2. Đặc điểm chế tài thương mại
Chế tài thương mại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng
thương mại và mỗi loại chế tài thương mại được áp dụng trong những điều kiện
hoàn cảnh riêng biệt. Tuy nhiên trên cơ sở chung nhất, các loại chế tài đều có
những đặc trưng cơ bản như sau:
- Thứ nhất là, về căn cứ áp dụng (phát sinh): Chế tài thương mại sẽ phát
sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong khi các chế tài pháp lý
khác được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật nói chung thì chế tài
thương mại sẽ phát sinh đối với những hành vi vi phạm các điều khoản trong
hợp đồng thương mại do các bên đã thỏa thuận. Sở dĩ có đặc trưng này cũng
chính do xuất phát từ tính chất của hợp đồng thương mại là do các bên thỏa
thuận thiết lập. Vậy nên khi hợp đồng thương mại có hiệu lực phát luật mà các
bên khơng tơn trọng những gì đã thỏa thuận thì việc bị áp dụng một trong các
loại chế tài thương mại là điều tất yếu sẽ xảy ra.
- Thứ hai là tính chất tài sản của chế tài thương mại: Yếu tố tài sản xuất
hiện khi chế tài thương mại được áp dụng thể hiện rằng, bên vi phạm phải dùng
tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình để thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ
này phát sinh có thể do sự thỏa thuận của hai bên hoặc do pháp luật quy định.
Ngồi ra tính chất tài sản của chế tài thương mại cịn được thể hiện thơng qua
việc, bên vi phạm cịn phải chịu chi phí hợp lý cho việc khắc phục những hậu
quả phát sinh từ hành vi vi phạm của mình
- Thứ ba là chủ thể bị xâm phạm quyền và lợi ích có quyền lựa chọn một
trong các biện pháp chế tài thương mại do Luật thương mại năm 2005 quy định.
14


Tuy nhiên việc áp dụng các biện pháp chế tài nào là hợp lý cần phải dựa trên
quy định của pháp luật. Do vậy các bên chủ thể đặc biệt là bên bị xâm phạm
quyền và lợi ích trong hợp đồng thương mại cần có sự vận dụng đúng đắn quy
định của pháp luật để áp dụng các chế tài thương mại cho phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh. Chẳng hạn, chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng nếu các
bên có sự thỏa thuận với nhau. Do đó, vấn đề đặt ra là nếu khi một bên vi phạm
một hoặc nhiều điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng thương mại chỉ
có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng khi trước đó cả hai bên đã có thỏa
thuận về việc áp dụng biện pháp chế tài này.
- Thứ tư là các chế tài thương mại được áp dụng trực tiếp đối với bên có
hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Bằng tài sản, bằng hành vi và thái độ của
mình bên vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng phải tự mình thực hiện nhằm
khắc phục những hậu quả đã xảy ra trong quan hệ hợp đồng thương mại với bên
có quyền và lợi ích bị xâm hại. Đặc trưng này xuất phát từ tính chất của hợp
đồng thương mại, do chính hai bên chủ thể thỏa thuận, giao kết hình thành nên
hợp đồng nên nghĩa vụ này nếu khơng có sự thỏa thuận khác thì lẽ tất nhiên sẽ
được đặt ra cho chính bản thân chủ thể vi phạm hợp đồng thương mại.
- Thứ năm là mục đích của chế tài thương mại là nhằm hướng đến bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng thương mại và cũng nhờ có các
biện pháp chế tài thương mại này mà hoạt động thương mại được phát triển
trong đời sống xã hội1
2.1.2. Chế tài thương mại theo quy định của Công ước Viên năm 1980 (CISG)
và Luật thương mại năm 2005 - một vài điểm tương đồng và khác biệt
Chế tài thương mại là một nội dung quan trọng có trong pháp luật thương
mại của bất kỳ một quốc gia nào bởi chế tài thương mại đảm bảo cho hoạt động
thương mại được thực hiện nghiêm túc đặc biệt khi xảy ra tranh chấp giữa các
bên chủ thể, khi phát sinh hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu các quy định của
Công ước Viên năm 1980 về chế tài thương mại. Lý do mà tác giả nghiên cứu
Công ước Viên về chế tài thương mại là bởi Cơng ước Viên năm 1980 có rất
nhiều các thành viên là các quốc gia khác nhau thỏa thuận hoặc thừa nhận giá trị
pháp lý của Công ước về hoạt động thương mại nói chung. Vì vậy trên cơ sở
1




15


nghiên cứu Công ước Viên năm 1980 về vấn đề này, tác giả cũng thấy được tinh
thần trong quy định pháp luật của các quốc gia đó về chế tài thương mại. Từ đó
có sự so sánh, đối chiếu để thấy được nét tương đồng và khác biệt giữa pháp luật
Việt Nam về chế tài thương mại với các quốc gia khác.
Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa Luật thương mại và Công ước Viên năm
1980 về mua bán hàng hóa là khơng có quy định về chế tài phạt vi phạm hợp
đồng. Sự khác biệt này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, xuất phát từ đặc
điểm kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, do tính chất của hoạt động thương mại ở
Việt Nam có đặc thù riêng so với các quốc gia khác… Tuy vậy khơng có nghĩa
là các chế tài khác được quy định trong Luật thương mại và Công ước Viên năm
1980 có sự giống nhau hồn tồn. Thực tế cho thấy, giữa chúng có đơi chút khác
biệt:
- Thứ nhất về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 đều cho phép
chủ thể vi phạm được thực hiện một trong hai biện pháp là sửa chữa hoặc thay
thế hàng hóa. Thế nhưng Luật thương mại Việt Nam lại chưa chỉ ra được sẽ áp
dụng sửa chữa và thay thế hàng hóa như thế nào, trong khi Công ước Viên năm
1980 lại quy định rõ việc áp dụng biện pháp sửa chữa khi hành vi của một bên
cấu thành vi phạm cơ bản, còn các trường hợp vi phạm khác sẽ áp dụng biện
pháp sửa chữa hàng hóa. Do đó vấn đề đặt ra là phải xác định được vi phạm cơ
bản và vi phạm thơng thường. Có thể hiểu vi phạm cơ bản là vi phạm gây ra
thiệt hại nghiêm trọng cho bên vi phạm, làm cho bên này không đạt được mục
đích khi giao kết hợp đồng
`- Thứ hai về chế tài bồi thường thiệt hại:
Luật thương mại năm 2005 và Công ước Viên năm 1980 đều quy định các

thiệt hại được bồi thường khi một bên chủ thể vi phạm hợp đồng bao gồm tổn
thất và khoản lợi bị bỏ lỡ. Tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này cụ thể lại có sự
khác biệt một chút liên quan đến tính chất của thiệt hại. Cơng ước Viên năm
1980 cho phép áp dụng khi xuất hiện tính có thể dự đốn trước của thiệt hại đối
với bên vi phạm, cịn Luật thương mại năm 2005 thì dựa vào tính trực tiếp và
tính thực tế “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực
tiếp mà bên vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà

16


bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm” (Khoản 2 Điều
302)
- Thứ ba là về chế tài hủy hợp đồng
Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 đều quy định chế
tài hủy hợp đồng chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Khoản 3
Điều 13 Luật thương mại năm 2005 quy định “Sự vi phạm cơ bản là sự vi phạm
hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng
đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Điều 25 của Công ước Viên
năm 1980 quy định “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ
bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong
chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ
phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh
mẫn cũng sẽ khơng tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hồn cảnh tương tự”. Sự
khác biệt trong hai quy định trên được thể hiện ở chỗ, Cơng ước Viên năm 1980
cịn xác định rõ các trường hợp bất khả kháng không được coi là vi phạm hợp
đồng khi bên vi phạm khơng tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí
minh mẫn cũng sẽ khơng tiên liệu được khị người đó rơi vào điều kiện, hồn
cảnh tương tự. Quy định này trong Công ước Viên năm 1980 thể hiện sự cụ thể
hóa hơn so với Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam. Vì vậy việc vận dụng

quy định này cho hoạt động thương mại theo Công ước Viên năm 1980 được rõ
ràng, chính xác hơn.
Nhìn chung giữa Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005
đều có điểm tương đồng và sự khác biệt. Tuy nhiên mức độ tương đồng cũng có
sự khác nhau, Cơng ước Viên năm 1980 quy định cụ thể và chi tiết hơn. Luật
thương mại năm 2005 không đưa ra dẫn chiếu cụ thể và tỉ mỉ như các quy định
của Công ước nhưng trên cơ sở các quy định của pháp luật, các bên vẫn có thể
áp dụng được một cách đúng đắn theo đúng tinh thần của pháp luật. Ngồi nét
tương đồng thì sự khác biệt cũng là điểm dễ nhận thấy trong quy định của hai
văn bản pháp luật. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, sự khác biệt giữa Công ước
Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 không tạo nên sự mâu thuẫn đối
kháng trong quá trình thực thi chúng trên thực tế. Bên cạnh đó, Công ước Viên
năm 1980 hỗ trợ cho việc áp dụng chế tài thương mại theo quy định của Luật
thương mại năm 2005 được rõ ràng và cụ thể hơn
17


2.2. VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI
Có thể nói rằng chế tài thương mại gắn liền với hoạt động thương mại nói
chung và với hợp đồng thương mại nói riêng. Vì vậy vai trị to lớn của chế tài
thương mại là không thể phủ nhận bởi:
- Chế tài thương mại góp phần đảm bảo cho hợp đồng thương mại được
thực hiện trên thực tế. Thơng thường khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp
luật, các bên phải tuân thủ theo những gì mà các bên đã thỏa thuận, nhưng trên
thực tế có khơng ít các trường hợp một trong hai bên không thực hiện nghiêm
túc các điều khoản đã được thỏa thuận, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác, làm cho hợp đồng thương mại bị gián đoạn và đương
nhiên hoạt động thương mại bị đình chệ. Vì vậy chế tài thương mại trong trường
hợp này được coi là một trong những yếu tố đảm bảo cho hợp đồng thương mại

được thực hiện nghiêm túc.
- Chế tài thương mại có vai trị to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên trong hợp đồng thương mại. Chế tài thương mại được pháp luật quy
định trước hết là để ngăn ngừa và hạn chế hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
hoặc khi đã xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng thương mại thì chế tài thương mại
yêu cầu các bên phải thực hiện các hoạt động như khơi phục tình trạng ban đầu,
hay bồi hồn lại những tổn thất đã phát sinh. Vì vậy suy cho cùng là cũng nhờ
có các biện pháp chế tài thương mại mà quyền và lợi ích của các bên được đảm
bảo.
- Chế tài thương mại có vai trị tăng cường ý thức tuân thủ hợp đồng
thương mại giữa các bên. Tính chất răn đe của chế tài thương mại có tác động
đến ý thức của các bên chủ thể, vì vậy các chủ thể trong hợp đồng thương mại sẽ
nhận thức được trước hết là những nghĩa vụ của mình phải thực hiện trước phía
chủ thể bên kia. Do đó, nếu chủ thể bên này khơng thực hiện sẽ phải gánh chịu
những yếu tố bất lợi và hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình đã gây ra
cho chủ thể phía bên kia. Trên cơ sở đó các bên tự nhận thức để có thể đưa ra
những hành vi phù hợp với những điều khoản đã được thỏa thuận xây dựng nên
trong hợp đồng thương mại.
- Chế tài thương mại có vai trị phịng ngừa vi phạm phạm luật trong hợp
đồng thương mại. Vai trò phòng ngừa của chế tài thương mại được đặt ra khi các
18


bên chưa có vi phạm hợp đồng thương mại. Luật thương mại năm 2005 cho
phép các bên áp dụng một trong các chế tài thương mại khi các bên có thỏa
thuận (ví dụ như chế tài phạt vi phạm hợp đồng) hoặc ngay cả khi các bên khơng
có sự thỏa thuận thì vẫn có thể áp dụng biện pháp chế tài khác (ví dụ như bồi
thường thiệt hại). Quy định này có tác động mạnh mẽ vào ý thức của các bên
nhằm nâng cao tinh thần hợp tác thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng qua đó
ngăn ngừa vi phạm xảy ra.

- Chế tài thương mại là một trong những nội dung được quy định trong
Luật thương mại năm 2005 góp phần đảm bảo quyền tự do thỏa thuận của các
bên trong hoạt động thương mại. Ngoài các chế tài được Luật thương mại quy
định như buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng thì pháp luật
cịn cho phép các bên được thỏa thuận các biện pháp khác mà không trái với quy
định của pháp luật. Chính điều này đã góp phần làm tăng thêm sự tự do thỏa
thuận của các chủ thể giúp hoạt động thương mại ngày càng phát triển.
2.3. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
Chế tài thương mại là một nội dung được quy định cụ thể trong Luật
thương mại năm 2005 với nhiều vai trò quan trọng, có tác động trực tiếp đến q
trình thực hiện hợp đồng thương mại giữa các bên chủ thể, từ đó tạo sự phát
triển ổn định cho nền kinh tế của đất nước. Điều 292 quy định sáu chế tài
thương mại cụ thể có thể được áp dụng khi một bên chủ thể vi phạm hợp đồng
thương mại bao gồm, buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi
thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng và
hủy bỏ hợp đồng. Ngồi các chế tài thương mại này, các bên có thể thỏa thuận
“các biện pháp khác mà không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và
tập quán thương mại quốc tế”.
Căn cứ chung để áp dụng các chế tài thương mại nói trên là:
- Một là, một trong hai bên chủ thể có hành vi vi phạm: Căn cứ này cần
phải được xác định trên thực tế và phải đưa ra được trong việc áp dụng với tất cả
chế tài thương mại. Nếu các bên không thể chứng minh được hành vi vi phạm
của các bên thì cũng có nghĩa là khơng có chuyện áp dụng một trong các chế tài
19


thương mại nói chung. Do vậy vấn đề quan trọng là phải minh chứng được một

bên chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại.
- Hai là, một trong hai bên chủ thể có lỗi đối với hành vi vi phạm của
mình. Yếu tố lỗi phản ánh thái độ chủ quan của chủ thể đối với hành vi vi phạm
của mình và đối với hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra. Một trong
những yếu tố để xác định một chủ thể bị coi là vi phạm pháp luật khi chủ thể đó
có lỗi. Do đó để khẳng định chủ thể nào đó là vi phạm pháp luật hợp đồng
thương mại thì phải chứng minh được chủ thể đó là có lỗi.
- Ba là, xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và
thiệt hại thực tế. Trong căn cứ này nếu một bên chứng minh được thì phía bên vi
phạm có thể bị áp dụng thêm một hoặc nhiều chế tài thương mại kèm theo,
nhanh chóng khắc phục hậu quả đã xảy ra và bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích
hợp pháp giữa các bên2. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
thực tế thể hiện thiệt hại xảy ra là kết quả trực tiếp từ hành vi vi phạm đó của
chủ thể mà không phải là kết quả của hành vi vi phạm nào khác.
Tuy nhiên tùy từng trường hợp cụ thể và tùy tính chất mức độ vi phạm mà
cách thức áp dụng các chế tài thương mại là khác nhau. Việc áp dụng các chế tài
thương mại phù hợp phải căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về chế tài
thương mại. Từ đó thể hiện sự đúng đắn trong việc áp dụng quy định của pháp
luật vào thực tiễn đời sống xã hội.
2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Đây là một trong các biện pháp chế tài thương mại được sử dụng khá phổ
biến trong đời sống xã hội. Nếu các bên thực hiện hợp đồng thương mại một
cách tự nguyện thì lẽ dĩ nhiên sẽ khơng có việc áp dụng chế tài thương mại. Còn
khi các bên vi phạm thì mục đích chính mà các bên hướng tới trong việc thiết
lập quan hệ hợp đồng là không đạt được. Do vậy tất yếu phải áp dụng một trong
các biện pháp chế tài cụ thể và buộc thực hiện đúng hợp đồng cũng chính là chế
tài thương mại được các bên lựa chọn áp dụng để đạt được mục đích chính được
đặt ra trước đó. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được hiểu là bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp
khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.

Chế tài này có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo cho việc thực hiện hợp
2

http:// luatsuphamtuananh.com/trao-doi-nghiep-vu/che-tai-trong-hoat-dong-thuong-mai

20


đồng thương mại theo đúng thỏa thuận và mục đích đã được đặt ra ban đầu giữa
các bên và được áp dụng đối với bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng thương mại
nào. Trong nhiều trường hợp các chế tài khác (như bồi thường thiệt hại hay phạt
vi phạm) khơng thể thay thế lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng. Do đó khi tham
gia quan hệ hợp đồng, mục đích mà các các bên hướng đến là đạt được đến mục
tiêu chung mà các bên đã thỏa thuận mà khơng phải là đạt được lợi ích từ việc
nộp phạt hay bồi thường thiệt hại, bởi trong kinh doanh thời cơ và uy tín là điều
quan trọng nhất3
Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trước tiên được
áp dụng dựa trên căn cứ chung áp dụng các biện pháp chế tài thương mại. Do đó
để buộc một chủ thể phải gánh chịu chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trước
tiên phải xác định được chủ thể đó phải có hành vi vi phạm và bên vi phạm được
coi là có lỗi. Điều này cũng có nghĩa là khi việc khơng thực hiện hợp đồng
thương mại rơi vào các trường hợp bất khả kháng như thiên tai dịch bệnh…thì
chủ thể này khơng bị coi là có lỗi nên bên bị vi phạm khơng có quyền buộc bên
bị vi phạm phải thực hiện đúng hợp đồng. Vì vậy thay vào đó là họ có thể được
kéo dài thêm thời gian thực hiện hợp đồng. Theo đó, cơ sở để phát sinh chế tài
này là một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng cam kết đã
được thỏa thuận trong hợp đồng như khơng giao hàng hóa, giao thiếu hàng hóa,
hàng hóa giao nhận không đúng số lượng, chất lượng…. Bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng.
Nội dung cụ thể của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được thể hiện

ở chỗ bên bị vi phạm phải thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng hoặc thực
hiện các biện pháp khác để tự sửa chữa, khắc phục những thiếu sót… và phải
chịu mọi chi phí phát sinh từ những sai sót đó. Khi áp dụng chế tài này bên bị vi
phạm có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp
dụng các chế tài khác. Nếu bên vi phạm khơng thực hiện, thì bên vi phạm mới
có quyền tiếp tục áp dụng các chế tài khác. Dưới đây là một tình huống thể hiện
rõ tinh thần trên của pháp luật hiện hành: Công ty sản xuất vật liệu Kim Thành
ký hợp đồng số 03/HĐ để bán cho cơng ty TNHH hóa chất Tân Hồng Minh
(Nam Định) một số chủng loại xây dựng như thép xây dựng, gạch chống nóng
theo tiêu chuẩn TCVN4710-89 với tổng giá trị hợp đồng là 1,5 tỷ VNĐ với thời
3



21


hạn giao hàng là đến hết ngày 31/07/2007. Ngày 15/08/2007 cơng ty Tân Hồng
Minh đã đến nhận lơ hàng thuộc chủng thép xây dựng tại kho của bên bán và đã
thanh tốn ½ giá trị hợp đồng như đã thỏa thuận. Đến này 20/08/2007 do không
thấy công ty này đến nhận nốt số hàng hóa đã ký kết trong hợp đồng nên công ty
Kim Thành đã gửi công văn yêu cầu cơng ty Tân Hồng Minh tiếp tục nhận
hàng và thanh tốn nốt tiền hàng. Cơng ty Tân Hoang Minh đã từ chối thực hiện
hợp đồng khi đưa ra yêu cầu giảm giá lô hàng sau mà công ty Kim Thành không
chấp nhận. Ngày 15/09/2009, công ty Kim Thành khởi kiện cơng ty Tân Hồng
Minh tại Tịa án Kinh tế Tỉnh Nam Định với yêu cầu buộc thực hiện đúng hợp
đồng đối với cơng ty Tân Hồng Minh4
. Chế tài thương mại mà công ty
Kim Thành mong muốn được áp dụng với cơng ty Tâm Hồng Minh là chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng. Ngoài chế tài thương mại này, công ty Kim

Thành không yêu cầu áp dụng chế tài thương mại khác. Điều này cho thấy, khi
thiết lập hợp đồng thương mại, điều quan trọng nhất mà các bên mong muốn đạt
được là phía chủ thể bên kia thực hiện đúng hợp đồng, đúng với những gì đã
cam kết và thỏa thuận. Vì vậy chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một
trong các biện pháp chế tài thương mại được các bên ưu tiên lựa chọn để giải
quyết các vấn đề liên quan đến vi phạm hợp đồng thương mại.
2.3.2. Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm
Hiện nay phạt vi phạm là một loại chế tài thương mại được nhìn nhận
dưới nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng phạt vi phạm là một
biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng hay nhằm khắc phục những thiệt hại do
hành vi vi phạm gây ra hoặc phạt vi phạm là một biện pháp nhằm “khống chế”
các bên để các bên không dám vi phạm hợp đồng thương mại5. Nhưng theo quan
điểm cá nhân, tác giả cho rằng phạt vi phạm nên hiểu là một biện pháp ngăn
ngừa hành vi vi phạm và việc quy định cụ thể biện pháp này trong Luật thương
mại năm 2005 đã trở thành một trong những quy định quan trọng trong việc bảo
vệ các bên trong hoạt động thương mại, cụ thể là trong hợp đồng thương mại.
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 “phạt vi phạm là việc bên
bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng
nếu trong hợp đồng có thỏa thuận”. Như vậy theo quy định này thì phạt vi phạm
4
5

Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, luận văn
Chế tài phạt vi phạm hợp đồng – ThS Nguyễn Việt Khoa – Giảng viên Khoa Luật kinh tế, Đại học TPHCM

22


chỉ có thể áp dụng trong trường hợp các bên đã có sự thỏa thuận cụ thể trong
hợp đồng. Nghĩa là một bên không thể yêu cầu bên kia phải chịu phạt vi phạm

nếu các bên khơng có thỏa thuận trong hợp đồng về vấn đề này. Căn cứ để áp
dụng chế tài phạt vi phạm bao gồm:
- Phải có hành vi vi phạm hợp đồng do chủ thể không thực hiện đầy đủ
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Quan điểm của một số luật gia
thì phạt vi phạm hợp đồng chỉ có thể áp dụng khi đó là những vi phạm cơ bản
(khi một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng)6. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh là việc vi
phạm hợp đồng cho dù đã hoặc chưa gây ra thiệt hại cho thực tế thì bên bị vi
phạm vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm hợp đồng gánh chịu chế tài phạt vi
phạm
- Chủ thể vi phạm phải có lỗi
- Phải tồn tại thỏa thuận về việc phạt vi phạm giữa các bên
Về mức phạt, Luật thương mại năm 2005 quy định cũng rất cụ thể “đối
với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do
các bên thỏa thuận nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm”. Nếu các bên thỏa thuận mức phạt thấp hơn mức này thì sẽ áp dụng mức
phạt do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên chỉ quy định trong hợp đồng về
việc phạt vi phạm mà không nêu rõ mức phạt cụ thể hoặc mức phạt vượt quá
mức phạt này do pháp luật quy định thì khi xảy ra tranh chấp, mức phạt 8% giá
trị của phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ được áp dụng. Việc quy định mức
phạt này của Luật thương mại hiện nay còn gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên cũng
cần phải nhận thấy sự hợp lý trong quy định của pháp luật về vấn đề này vì bản
chất của hợp đồng là sự tự do ý chí của các bên , các bên hoàn toàn chấp nhận sẽ
chịu phạt nếu vi phạm hợp đồng. Trên thực tế nếu để các bên tự thỏa thuận một
cái giá “trên trời dưới bể” thì phải nói rằng rất khó để các bên có thể thực hiện
được nghĩa vu của mình khi phát sinh vi phạm. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm là vô tác dụng khơng phát
huy được hiệu quả trên thực tế. Ví dụ về việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong
hoạt động thương mại, Công ty TNHH Sông Đào (Nam Định) ký kết hợp đồng
6


Chế tài phạt vi phạm hợp đồng - ThS Nguyễn Việt Khoa – Khoa Luật kinh tế, Đại học TPHCM

23


mua bán hàng hóa là 50 máy bơm cơng nghiệp (mới 100%) cho cơng ty cổ phần
Thanh Mai (Ninh Bình). Tổng giá trị hợp đồng là 1 tỷ VNĐ. Các bên thỏa thuận
giao hàng nhiều đợt và bên nào vi phạm sẽ bị phạt 8% trên giá trị vi phạm nghĩa
vụ. Đợt giao hàng thứ nhất, công ty Sông Đào giao 20 máy bơm cơng nghiệp có
giá trị là 400 triệu VNĐ. Tuy nhiên công ty Sông Đào khi giao hàng đợt này đã
không giao hàng đúng chất lượng (không có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
từ Italia như đã cam kết) mà là hàng đã qua sử dụng. Công ty CP Thanh Mai từ
chối nhận hàng. Hai bên xảy ra tranh chấp, công ty Thanh Mai kiện công ty
Sơng Đào ra Tịa với u cầu phạt cơng ty Sông Đào 8% giá trị nghĩa vụ như đã
thỏa thuận7. Tới đây tác giả tạm thời khơng bình luận về việc u cầu của cơng
ty Thanh Mai có phù hợp với quy định của pháp luật hay không mà chỉ khẳng
định rằng, việc công ty Thanh Mai khởi kiện ra Tịa và u cầu cơng ty Sơng
Đào phải gánh chịu chế tài phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng thương mại là
hoàn toàn hợp lý bởi giữa các bên đã có thỏa thuận rõ ràng về phạt vi phạm
trong hợp đồng nói trên.
So với các chế tài thương mại khác thì việc áp dụng chế tài phạt vi phạm
có những ưu điểm như, cho phép thiệt hại được bù đắp một cách nhanh chóng.
Chỉ cần có sự vi phạm hợp đồng thương mại mà không rơi vào một trong các
trường hợp bất khả kháng và được các bên thỏa thuận thì người bị thiệt hại có
quyền u cầu bên vi phạm trả số tiền mà hai bên đã thỏa thuận. Ngồi ra cịn
tránh được các chi phí phát sinh trong quá trình chứng minh thiệt hại, mức độ
thiệt hại bởi rõ ràng để chứng minh được thiệt hại xảy ra trên thực tế là điều
không hề đơn giản.
2.3.3. Quy định của pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại

Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 thì “bồi thường thiệt hại là
việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
cho bên bị vi phạm” và “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm tổn thất thực tế,
trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
Do vậy, việc áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại trong thương mại khi
phát sinh các yếu tố như có hành vi vi phạm hợp đồng, có lỗi của chủ thể vi
phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại thực tế và yếu tố quan
7

Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Khóa luận tốt nghiệp, Đào Thị Ngọc Ánh, 2009

24


×