Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

CƠ sở lý LUẬN của VIỆC QUẢN lý bồi DƯỠNG NĂNG lực dạy học CHO GIÁO VIÊN các TRƯỜNG TIỂU học THEO ĐỊNH HƯỚNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục PHỔ THÔNG mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.66 KB, 39 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO GIÁO VIÊN CÁC
TRƯỜNG TIỂU HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG CHƯƠNG
TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THƠNG MỚI
Vài nét về nghiên cứu vấn đề
Những nghiên cứu ở ngoài nước
Trên thế giới đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
năng lực chuyên môn, năng lực dạy học và các vấn đề phát
triển chuyên môn cho giáo viên cũng như các biện pháp
quản lí mà lãnh đạo trường học đã tiến hành để phát triển
năng lực chuyên môn, năng lực dạy học cho giáo viên.
Viết về năng lực chuyên môn, dạy học của giáo viên tác
giả Liakopoulou (2011) đã đưa ra khái niệm năng lực chuyên
môn và phân loại “năng lực chuyên môn của giáo viên” bao
gồm các thành tố sau đây: 1. Tính cách, thái độ và niềm tin;
2. Kỹ năng sư phạm và kiến thức sư phạm (kiến thức môn
học, kiến thức và hiểu biết về người học, phương pháp giảng
dạy, kiến thức về chương trình giảng dạy); 3. Hiểu biết về
bối cảnh xã hội; 4. Hiểu biết về bản thân về khoa học nói
chung.


Viện Giáo dục Quốc gia, Singapore, (2009), cũng xác
định các năng lực chủ yếu của giáo viên như: có các kiến
thức và phương pháp ni dạy trẻ em, có các năng lực tư
duy, sáng tạo trong dạy học... có các kĩ năng sư phạm, quản
lý con người, tự quản lý, kĩ năng công nghệ, tự đổi mới và
kinh doanh, sự hiểu biết về xã hội và xúc cảm; có các kiến
thức, hiểu biết về bản thân, học sinh, xã hội, nội dung mơn
học, sư phạm, nền tảng và chính sách giáo dục, chương trình
giảng dạy, hiểu biết đa văn hóa, nhận thức tồn cầu, nhận


thức về mơi trường..
Ủy ban châu Âu (2007) nhận ra rằng: "giáo viên có một
vai trị quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh có chỗ
đứng trong xã hội và nơi làm việc”, vì thế Ủy ban Châu Âu
đề xuất rằng “Tại mỗi thời điểm trong sự nghiệp của mình,
giáo viên cần phải có, và được u cầu có đầy đủ các kiến
thức mơn học, thái độ và kỹ năng sư phạm để giúp đỡ thế hệ
trẻ phát huy tối đa tiềm năng của họ”.
Phát triển chuyên môn cho giáo viên là trách nhiệm
hàng đầu của hiệu trưởng ở một trường học nơi đặt chất
lượng giáo dục lên vị trí hàng đầu. Hiệu trưởng là người xây
dựng các kế hoạch triển khai những nội dung mới về dạy
học, giáo dục, đưa ra các bước thực hiện các hoạt động bồi


dưỡng, phát triển tiềm năng lãnh đạo chuyên môn của giáo
viên... Hiệu trưởng đưa ra các chỉ dẫn dạy học, kiểm tra,
đánh giá, đôn đốc, động viên giáo viên và người học để họ
học tập tốt và dạy học tốt. Ngày nay những chỉ dẫn này được
tiến hành thông qua các phương tiện kĩ thuật số, qua trao đổi
trực tiếp và qua hệ thống thư điện tử hay các diễn đàn dạy
học. Nhờ các phần mềm, giáo viên có thể đưa các bài học,
các tư liệu lên mạng và thay đổi hay bổ sung bài học cho
nhau qua cấu trúc wiki hay các blogs (Senge, 2/1996)
Tóm lại, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phát triển
chuyên môn, nâng cao năng lực giáo viên là một trong
những vấn đề trọng tâm được chú ý để tạo sự thay đổi và
nâng cao chất lượng cho nhà trường. Người hiệu trưởng
đóng vai trị quan trọng trong việc lãnh đạo và quản lí hoạt
động bồi dưỡng chuyên môn trong nhà trường.

Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về lý
luận dạy học, lý luận quản lý giáo dục nói chung và quản lý
hoạt động dạy học nói riêng ở các cơ sở GD&ĐT. Đó là các
cơng trình nghiên cứu, các bài viết của các tác giả hàng đầu
Việt Nam xung quanh vấn đề này như các tác giả: Đặng
Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Đức Chính, Trần


Khánh Đức, Đặng Xuân Hải, Nguyễn Trọng Hậu, Đặng Bá
Lam, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Phạm Quang Sáng, Bùi Đức
Thiệp, Phạm Viết Vượng... Một số hội thảo trong thời gian
qua cũng đề cập đến vấn đề nêu trên, điển hình là hội thảo
của Khoa Sư Phạm (tiền thân ĐHGD) với tiêu đề “Chất
lượng giáo dục và vấn đề đào tạo giáo viên”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học (10/2004) hay trong các bài viết của các tác
giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Đức Chính, “Chuẩn và
chuẩn hố trong giáo dục - Những vấn đề lí luận và thực
tiễn”, Tham luận Hội thảo “Chuẩn và Chuẩn hoá trong giáo
dục - Những vấn đề lí luận và thực tiễn” - Hà Nội 27/1/2005
hoặc như bài viết của Hồ Viết Lương (2005), “Chuẩn quốc
gia về giáo dục phổ thơng - thách thức lớn trong lí luận
chương trình dạy học của giáo dục hiện đại”, Kỷ yếu Hội
thảo “chuẩn và chuẩn hoá trong giáo dục - Những vấn đề lí
luận và thực tiễn”, Viện Chiến lược và Chương trình giáo
dục... Bàn về vai trị của hiệu trưởng đối với việc nâng cao
trình độ chun mơn của giáo viên, tổng hợp các nghiên cứu
của nhiều nghiên cứu trên thế giới, tác giả Trần Thị Bích
Liễu (2005), chỉ ra tầm quan trọng của hiệu trưởng trong
việc chia sẻ trách nhiệm và bồi dưỡng giáo viên thành những

nhà lãnh đạo chun mơn vì hai lí do sau đây:
Hiệu trưởng khơng thể có đủ thời gian để lãnh đạo tồn


bộ các hoạt động dạy học và họ không thể hiểu rõ nhu cầu
của lớp học như là giáo viên;
Giáo viên là người am hiểu chuyên môn của môn học
mà họ dạy và họ hiểu rõ hơn bất kì ai học sinh và lớp học
của mình.
Vai trị lãnh đạo của giáo viên được các nhà nghiên
cứu xem xét từ ba góc độ:
giáo viên là những người quản lí, lãnh đạo trung gian ở
các vị trí tổ trưởng chun mơn, chủ nhiệm khoa hay chủ
tịch, tổ trưởng cơng đồn...
Là chun gia môn học, con chim đầu đàn để kèm cặp
các giáo viên khác;
Là người xây dựng và duy trì văn hóa chia sẻ, cộng tác
và học tập suốt đời để thực hiện tốt q trình dạy học trong
nhà trường.
Họ chính là người thực hiện viễn cảnh của nhà trường,
biến viễn cảnh thành hiện thực. Vì vậy, con đường thành cơng
nhất để phát triển chuyên môn cho giáo viên trong nhà trường
là bồi dưỡng vai trị lãnh đạo chun mơn cho họ.
Trong các luận văn thạc sỹ những năm gần đây cũng đã


có những nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như luận văn
của tác giả Bùi Thanh Bình (2008) với “Biện pháp quản lý
hoạt động dạy của Hiệu trưởng ở trường Trung học phổ
thơng Hải An - Hải Phịng trong giai đoạn hiện nay”; hay đề

tài “Biện pháp quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học của giáo
viên trường Trung học phổ thơng Hải An thành phố Hải
Phịng đáp ứng chuẩn nghề nghiệp” của Vũ Văn Huy
(2011); đề tài: “Một số giải pháp nâng cao năng lực dạy học
của đội ngũ giáo viên trường THCS Khánh Bình đến năm
2015” của tác giả Nguyễn Long Giao. Nghiên cứu về đội
ngũ giáo viên tiểu học và QL đội ngũ này, đã có một số cơng
trình nghiên cứu như: đề tài: “Phát triển đội ngũ giáo viên
tiểu học huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đáp ứng yêu cầu
Chuẩn nghề nghiệp GVTH”của tác giả Nguyễn Mạnh Tuân,
hay đề tài: “Biện pháp quản lý bồi dưỡng GVTH thành phố
Nam Định đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp” của tác giả Dương
Thị Minh Hiền.
Các đề tài trên đã đưa ra các biện pháp quản lý phát
triển năng lực cho giáo viên thông qua các chức năng của
quản lý. Các tác giả đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý
bồi dưỡng GV theo hướng chuẩn hóa ở các nhà trường.
Một số khái niệm cơ bản


Quản lý và quản lý giáo dục
Quản lý
Theo Harold Koolz: “Quản lý là một hoạt động thiết
yếu, đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt
được các mục đích của nhóm”. “Mục tiêu của mọi nhà quản
lý là nhằm hình thành một mơi trường mà trong đó con
người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian,
tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [11, tr.23].
“Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người
khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hồn thành cơng

việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [11, tr.34]. Theo các nhà
Tâm lý học thì: “Quản lý là hoạt động đặc biệt của con
người trong xã hội, một hoạt động rất phức tạp và đa dạng.
Đó là sự tác động tồn diện vào một nhóm người, một tập
thể người, điều khiển họ hoạt động nhằm đạt tới mục đích
nhất định đã được đề ra từ trước” [29, tr.24].
“Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một
nhóm xã hội; quản lý gồm những công việc chỉ huy và tạo
điều kiện cho những người khác thực hiện công việc và đạt
được mục đích của nhóm”.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý là một công


việc vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật”.
Ông viết “Quản lý một hệ thống xã hội là khoa học và nghệ
thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con
người nhằm đạt được hiệu quả tối ưu đã đề ra” [30, tr.12].
Như vậy theo em hiểu: Quản lý là một ngành, một
khoa học, và là một nghệ thuật đồng thời quản lý còn được
coi là một nghề (nghề quản lý). Muốn điều hành tốt các
hoạt động của một tổ chức để có kết quả một cách chắc
chắn thì trước tiên các nhà quản lý phải được đào tạo”nghề
nghiệp (kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm) một cách chu đáo
để từ đó phát hiện, nhận thức một cách chuẩn xác, sát thực
và đầy đủ các quy luật mang tính khách quan xuất hiện
trong q trình hoạt động. Đồng thời phải có phương pháp,
nghệ thuật thích hợp nhằm tuân thủ đúng các đòi hỏi của
các quy luật”đó.
Từ những phân tích trên có thể hiểu:“Quản lý là sự tác
động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối

tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong
điều kiện”biến động của môi trường.
Khái niệm quản lý giáo dục


“Quản lý giáo dục có thể được xác định là những tác
động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của
mọi chủ thể quản lý ở những cấp khác nhau đến tất cả các
khâu trong một hệ thống (từ Bộ cho đến trường), nhằm mục
đích bảo đảm việc giáo dục và hình thành nhân cách cho thế
hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng đầy đủ những quy
luật chung của xã hội cũng như các quy luật riêng của quá
trình giáo dục, của sự phát triển về thể lực và tâm sinh lý
học”sinh.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, khái niệm quản lý giáo
dục cũng là khái niệm quản lý trường học: “Quản lý nhà
trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm
vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với
từng học sinh” [30, tr.36].
Theo Trần Kiểm, “Việc quản lý nhà trường phổ thông
là quản lý hoạt động dạy - học tức là làm sao đưa hoạt động
đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục
tiêu giáo dục” [34].
Vậy, “Quản lý giáo dục nói chung (và quản lý trường


học nói riêng) là hệ thống tác động có mục đích, có kế

hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ thống giáo dục)
nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên
lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm là hội tụ
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo
dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”
[30, tr.89].
Như vậy có thể hiểu:“Quản lý giáo dục là một chuỗi tác
động hợp lý của các chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và
học sinh trong các cơ sở giáo dục, đến từng lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng
tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của cơ sở giáo
dục đó. Đó là hoạt động có tính mục đích, được tổ chức một
cách khoa học của chủ thể quản lý nhằm tổ chức - chỉ đạo
một cách khoa học các hoạt động giáo dục và đào tạo”trong
nhà trường, hướng tới những mục tiêu đã định.
Năng lực và năng lực dạy học
Năng lực
Năng lực là khái niệm biểu đạt khả năng và mức độ
hoàn thành một hoạt động hoặc một nhóm hoạt động có mục


đích của một cá nhân hoặc một tổ chức với thời gian nhất
định trong một mơi trường biến đổi. Nói đến năng lực là nói
đến khả năng thực hiện và mức độ hiệu quả của một hoạt
động do một cá nhân hoặc một tổ chức thực thi nhiệm vụ và
quyền hạn được giao phó trong một mơi trường.
Khi đánh giá một người nào đó có năng lực, tức là đã
thừa nhận người đó thường xuyên đạt được kết quả cao
trong lĩnh vực hoạt động đã được xác định. Có thể nói:

Năng lực là những nét độc đáo, nét riêng biệt của từng
người, nó khác nhau giữa người này và người khác ở mức
độ và các lĩnh vực khác của hoạt động.
Năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá
nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả
tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy [33, tr.12]
Năng lực là những thuộc tính tâm lý mà nhờ chúng,
con người tiếp thu tương đối dễ dàng những kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo và tiến hành một hoạt động nào đó một cách có
hiệu quả [53, tr.76].
Như vậy, năng lực là khả năng hồn thành có kết quả
một cơng việc nào đó. Về thực chất, đó là sự phù hợp một


bên là yêu cầu công việc và một bên khác là những phẩm
chất tâm lý của cá nhân.
Năng lực dạy học
Theo Hồ Văn Liên: Năng lực dạy học được biểu hiện ở
việc “nắm vững, lựa chọn và tổ chức sắp xếp các tri thức;
nắm vững đối tượng giảng dạy; khả năng sử dụng ngôn ngữ
và khả năng diễn đạt ý tưởng, linh hoạt sử dụng các phương
tiện dạy học; tổ chức quản lý, điều khiển HS trong giờ học;
lôi cuốn, thuyết phục HS trong các hoạt động học tập; biết
ứng xử nhanh các tình huống có vấn đề trong lớp học, trong
giờ học; biết cách hướng dẫn có hiệu quả việc dạy các đối
tượng cá biệt” [37, tr.25]
Như vậy, NLDH là nhóm các năng lực thuộc năng lực
sư phạm trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên.
Cấu trúc năng lực dạy học

Có quan điểm cho rằng: Thành phần tạo nên năng lực
là tri thức, khả năng, kĩ xảo và thái độ. Theo cấu trúc chung,
năng lực dạy học là tổ hợp của nhiều năng lực cụ thể như
năng lực hiểu HS qua quá trình dạy học; tri thức và tầm hiểu
biết của người GV năng lực xử lí tài liệu học tập và năng lực
nắm vững kĩ thuật dạy học. NLDH là khả năng thực hiện các


hoạt động dạy học đạt kết quả và chất lượng cao của người
giáo viên bao gồm:
Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên
Đây là một yếu tố cơ bản của năng lực dạy học, một
trong những năng lực cốt lõi của nghề dạy học. GV phải là
người nắm vững kiến thức chun mơn, trước hết, đó là sự
am hiểu kiến thức chun mơn mình dạy; có năng lực nghiên
cứu, tự học, tự bồi dưỡng. Cùng với kiến thức về chun
mơn, GV cần phải có kiến thức về các môn học khác và am
hiểu về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Năng lực hiểu HS trong quá trình dạy học
Đây là năng lực cơ bản của giáo viên trong q trình
dạy học, nó được xem là chỉ số cơ bản của năng lực sư
phạm. Đó là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của
HS sự hiểu biết tường tận nhân cách của chúng, cũng như
năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lí của học sinh
trong quá trình dạy học [48, tr.83]. Ph.N.Gonobolin cho
rằng: “GV giỏi là người hiểu trình độ tri thức hơn là bản thân
các em tự hiểu về mình”. Biểu hiện trước hết của năng lực
hiểu HS là ở chỗ, GV biết xác định được khối lượng kiến
thức đã có ở mức độ, phạm vi lĩnh hội của nó và từ đó xác



định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày trong
cơng tác dạy học.
Năng lực xử lí tài liệu học tập
Căn cứ vào trình độ nhận thức của HS, muốn giúp HS
nắm được tài liệu học tập đòi hỏi người thầy giáo phải biết
đánh giá đúng đắn tài liệu dùng để dạy cho HS. Để đạt được
yêu cầu đó, trước hết địi hỏi người GV cần biết lựa chọn và
đánh giá đúng tài liệu học tập, xác lập được mối quan hệ
giữa kiến thức chung của môn học và trình độ nhận thức của
HS, nhằm đảm bảo yêu cầu của những kiến thức đó phù hợp
với đặc điểm cá nhân, trình độ kinh nghiệm của HS làm cho
tài liệu đó trở nên dễ dàng tiếp thu đối với HS.
Trong công tác dạy học, người GV không phải làm việc
chuyển tài liệu từ sách giáo khoa đến người học, mà chủ yếu
truyền được sức sống của kiến thức làm cho kiến thức đó trở
nên có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống của họ. Vì vậy,
người GV ngồi việc nắm được logic phát triển của tri thức;
hiểu thấu đáo, chính xác tài liệu, cịn phải biết chế biến, nhào
nặn, biết bổ sung tài liệu đó bằng những điều lấy từ sách vở
và những điều quan sát được trong cuộc sống để trình bày
theo cách hiểu của mình, nhờ đó HS dễ hiểu, dễ nhớ. Muốn
làm được điều đó, trước hết, người GV phải có khả năng


phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức; hai là người GV
phải có óc sáng tạo [30, tr. 106].
Năng lực nắm vững kĩ thuật dạy học
Nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững cách tổ chức
và điều khiển hoạt động nhận thức của HS qua bài giảng

được thể hiện ở các mặt như: tạo được cho HS ở vị trí người
phát hiện kiến thức trong q trình học tập; truyền đạt tài
liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với HS,
biết gây được hứng thú và kích thích HS suy nghĩ tích cực,
độc lập; ln tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập
bằng sự động viên, khêu gợi được sự chú ý HS; có khả năng
sử dụng ngơn ngữ và khả năng diễn đạt ý tưởng đồng thời
biết ứng xử nhanh các tình huống có vấn đề trong lớp học,
trong giờ học.
Bồi dưỡng năng lực dạy học
Bồi dưỡng thực chất là bổ sung, “bồi đắp” những thiếu
hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng”
những cái cũ cịn phù hợp để mở mang có hệ thống những tri
thức kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao
hiệu quả lao động.
Theo UNESCO: “Bồi dưỡng với ý nghĩa là nâng cao


nghề nghiệp. Quá trình này diễn ra khi cá nhân và tổ chức
có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kĩ năng chuyên môn
nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động
nghề nghiệp”.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Bồi dưỡng là làm tăng
thêm năng lực hoặc phẩm chất” [43, tr.36].
Qua các quan niệm trên ta thấy:
Bồi dưỡng thực chất là quá trình bổ sung kiến thức, kĩ
năng để nâng cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chun
mơn nào đó qua hình thức đào tạo nào đó.
Mục đích của q trình bồi dưỡng là nhằm củng cố,
nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn nghiệp vụ sẵn

có như tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả công việc đang làm.
Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên
Trong quá trình QL nhà trường của HT, việc QL hoạt
động bồi dưỡng NLDH cho ĐNGV là nội dung quan trọng
không thể thiếu, và chủ yếu ở hai nội dung sau:
Quản lý bồi dưỡng NLDH cho GV là một quá trình từ
xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và thực hiện theo kế


hoạch cho đến theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện các nội
dung kế hoạch bồi dưỡng gắn trách nhiệm của từng tổ chức
và cá nhân trong hoạt động bồi dưỡng.
Một số nguyên tắc các cán bộ quản lý giáo dục cần
tuân thủ khi tiến hành chỉ đạo, tổ chức các hoạt động bồi
dưỡng cho GV đó là:
Tất cả GV của nhà trường đều được học tập, bồi
dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng với yêu
cầu ngày càng cao của giáo dục trong thời đại mới.
Đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho
GV là việc làm thường xuyên, liên tục. Kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo và bồi dưỡng theo yêu cầu của Chuẩn nghề
nghiệp.
Nâng cao nhận thức cho cán bộ, GV về hoạt động bồi
dưỡng, xác định rõ tham gia các hoạt động bồi dưỡng và tự
bồi dưỡng để nâng cao trình độ mọi mặt là trách nhiệm và
quyền lợi của mỗi cá nhân.
Việc sử dụng tiềm năng trong mỗi GV phải đi đôi với
công tác bồi dưỡng thường xuyên về chất lượng của ĐNGV
trong nhà trường. Bao gồm việc bồi dưỡng thường xuyên

theo chương trình của Bộ GD&ĐT, bồi dưỡng thường xuyên


trong hè, tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ nhằm
chuẩn hóa ĐNGV, bồi dưỡng nâng chuẩn.
Những vấn đề chung về giáo viên tiểu học và yêu
cầu bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên tiểu học
theo định hướng chương trình giáo dục phổ thơng mới
Vị trí, vai trị, nhiệm vụ giáo viên tiểu học
Vị trí, vai trò giáo viên tiểu học
Theo điều 31 của Điều lệ trường tiểu học thì “GVTH là
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục HS trong nhà
trường tiểu học và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương
trình giáo dục tiểu học” [8, tr.2].
Giáo dục ngày nay đưa lên vị trí hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong giáo
dục, giáo viên giữ vị trí quan trọng nhất. Khơng có thầy giáo,
khơng có giáo dục. Giáo viên tiểu học có vị trí đặc biệt, cùng
với giáo viên các cấp học đặt nền tảng cho sự phát triển giáo
dục.
Nền giáo dục của quốc gia nào cũng vậy, giáo viên giữ
vai trò to lớn trong sự phát triển của giáo dục: “Giáo viên giữ
vai trò quyết định trong quá trình nhận biết học- dạy và đặc


trưng trong việc định hướng lại giáo dục. Người ta luôn nhận
thấy rằng thành công của các cuộc cải cách giáo dục phụ
thuộc dứt khốt vào ý chí muốn thay đổi cũng như chất
lượng giáo viên.” [28, tr. 58].
Điều 15 - Luật Giáo dục 2005 – sửa đổi năm 2009:

“Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất
lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn
luyện, nêu gương tốt cho người học. Nhà nước tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi ngộ,
đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để
nhà giáo thực hiện vai trị và trách nhiệm của mình; giữ gìn
và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề
dạy học” [49, tr.3].
Riêng đối với giáo viên tiểu học có vai trò quyết định
đến chất lượng dạy và học. Tất cả mọi hành vi, cử chỉ, lời
nói, việc làm... của họ đều ảnh huởng đến sự phát triển nhân
cách học sinh.
Nhiệm vụ giáo viên tiểu học:
Được quy định trong Điều 34 chương IV Điều lệ
trường tiểu học:


“Giảng dạy, giáo dục đảm bảo chất lượng theo chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học; soạn bài, lên lớp,
kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh; quản lí học sinh trong
các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia
các hoạt động chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất
lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục”.
-“Trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ
gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu
trước học sinh, thương yêu, đối xử công bằng và tôn trọng
nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của học sinh; đồn kết, giúp đỡ đồng”nghiệp.
-“Học tập, rèn luyện để nâng cao sức khỏe, trình độ
chính trị, chun mơn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp
giảng”dạy.

Tham gia công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa
phương.
-“Thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp
luật và của ngành, các quyết định của hiệu trưởng; nhận
nhiệm vụ do hiệu trưởng phân công, chịu sự kiểm tra, đánh
giá của hiệu trưởng và các cấp quản lí giáo”dục.


-“Phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh, gia đình học sinh và các tổ chức xã hội liên quan để tổ
chức hoạt động giáo dục”[8, tr.3].
Nhiệm vụ của giáo viên tiểu học còn được quy định bổ
sung trong Điều 19 Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT như
sau:
Giáo viên chủ nhiệm:
a)“Chịu trách nhiệm chính trong việc đánh giá học
sinh, chất lượng giáo dục học sinh trong lớp; hoàn thành hồ
sơ đánh giá học sinh theo quy định; thực hiện nghiệm thu,
bàn giao chất lượng giáo dục học”sinh;
b)“Lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch bồi dưỡng, giúp
đỡ học sinh học tập, rèn luyện hàng”tháng;
c)“Cuối học kì I, cuối năm học hoặc khi được u cầu,
có trách nhiệm thơng báo đánh giá quá trình học tập, rèn
luyện và kết quả học tập của học sinh cho cha mẹ học sinh.
Không thông báo trước lớp và trong cuộc họp cha mẹ học
sinh những điểm chưa tốt của học sinh. Duy trì mối liên hệ
với cha mẹ học sinh để phối hợp giáo dục”học sinh.
Giáo viên không làm công tác chủ nhiệm:



a)“Chịu trách nhiệm đánh giá quá trình học tập, rèn
luyện và kết quả học tập của học sinh đối với môn học, hoạt
động giáo dục theo quy”định;
b)“Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên cùng
lớp, cha mẹ học sinh lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch bồi
dưỡng, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện đối với môn”học,
hoạt động giáo dục;
c)“Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp đánh giá quá
trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh;
hoàn thành hồ sơ đánh giá học sinh; nghiệm thu, bàn giao
chất lượng giáo dục”học sinh.
Yêu cầu giáo viên tiểu học
Giáo viên tiểu học là người làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục trong trường tiểu học; được đào tạo theo
trình độ chuẩn quy định; có đủ các tiêu chuẩn:
Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn,
nghiệp vụ;
Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
Lý lịch bản thân rõ ràng.


Ngoài những tiêu chuẩn trên, nhà giáo phải đạt được
những tiêu chuẩn người cán bộ trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước đã được nêu trong Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương khố VII, đó là:
-“Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của”Nhà nước.

-“Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Khơng tham
nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức
tổ chức kỷ luật. Trung thực, khơng cơ hội, gắn bó mật thiết
với nhân dân, được nhân dân”tín nhiệm.
-“Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
có trình độ văn hố, chun mơn, đủ năng lực và sức khoẻ
để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
được”giao.
Tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ đổi mới đất nước đều
coi trọng cả đức và tài, các tiêu chuẩn có quan hệ mật thiết
với nhau, vừa là điều kiện cần vừa là điều kiện đủ của một


người cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước
trong thời kỳ mới.
GV có những quyền được qui định trong Luật Giáo dục
và được Nhà nước đảm bảo các chế độ, chính sách, được
pháp luật bảo vệ.
Đội ngũ GV là lực lượng nòng cốt đưa mục tiêu giáo
dục thành hiện thực, giữ vai trò quyết định chất lượng và
hiệu quả giáo dục của nhà trường, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đổi mới giáo dục.
Một số định hướng đổi mới giáo dụctiểu học
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã
khẳng định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt
Nam theo hướng chuẩn hố, hiện đại hố, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế" và “Giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng

nền văn hóa và con người Việt Nam" [24, tr.36].
Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 đã định
hướng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược"
[9, tr.2].


Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục
và đào tạo đã nêu rõ:"Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phịng và hội nhập
quốc tế”.“Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng
cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu
học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng
lực”sư phạm. “Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ
thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về
nghiệp vụ quản lý” [23, tr.3].
“Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp
đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập,
rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng,
trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề”nghiệp.
“Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ. Có chính sách hỗ
trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa



×