Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Chiến lược xuất khẩu quốc gia ngành thủ công mỹ nghệ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.11 KB, 53 trang )

CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU QUỐC GIA
NGÀNH THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
VIỆT NAM.
Báo cáo do VIETRADE/ITC thực hiện
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Mục lục
Page
Lời nói đầu 3
1 Giới thiệu 4
1.1 Cơ sở 4
1.2 Tiếp cận 5
2 Thực trạng về ngành 6
2.1 Nhóm sản phẩm 6
2.2 Chuỗi giá trị hiện tại của ngành 10
2.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ giai đoạn 1999-2004 14
2.4 Hoạt động dựa vào những nhân tố quyết định thành công 18
2.5 Năng lực cạnh tranh quốc tế 22
3 Các điều kiện về khung chính sách 23
3.1 Chính sách của nhà nước đối với ngành 23
3.2 Thể chế 26
3.3 Mạng lưới hỗ trợ thương mại 28
3.4 Các nguồn hỗ trợ tài chính 32
3.5 Dịch vụ xuất khẩu 33
4 Phân tích SWOT đối với ngành 34
5 Tầm nhìn và chuỗi giá trị tương lai của ngành 35
5.1 Tầm nhìn 35
5.2 Chuỗi giá trị tương lai của ngành 37
6 Định hướng 39
6.1 Triển vọng phát triển 39
6.2 Triển vọng về năng lực cạnh 40
7 Đánh giá triển vọng của các bên tham gia 46


8 Huy động nguồn lực 48
8.1 Các ưu tiên cho chiến lược mang tính dài hạn 48
8.2 Kế hoạch hành động ngắn hạn cho Cục Xúc tiến thương mại (VI-
ETRADE)
51
2
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Lời nói đầu
Chiến lược Xuất khẩu ngành thủ công mỹ nghệ, trong khuôn khổ dự án do Cục Xúc tiến
Thương mại và Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) thực hiện, nhằm mục đích cung cấp
những giải pháp thực tế phục vụ công tác phát triển Ngành thủ công của Việt Nam.
Để xây dựng chiến lược này, các tác giả đã sử dụng nhiều những thông tin thứ cấp có sẵn và
đã đưa những tìm tòi và phát hiện thông qua công tác nghiên cứu của mình ra thảo luận và lấy
ý kiến tại các hội thảo cấp tiểu ngành khác nhau. Những cuộc thảo luận cũng được thực hiện
với các nhà nhập khẩu chính từ thị trường Hoa Kỳ và EU.
Chiến lược này không phải là một nghiên cứu tổng thể về toàn bộ ngành thủ công mỹ nghệ mà
tập trung vào đánh giá những yếu tố có tầm quan trọng nhất quyết định sự thành bại của tăng
trưởng xuất khẩu, đề ra những khuyến nghị nhằm khai thác hiệu quả nhất tiềm năng của Việt
Nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm và giảm đói nghèo.
Tuỳ thuộc vào cách định nghiã đối với ngành thủ công mỹ nghệ mà các số liệu về kim ngạch
xuất khẩu trong báo cáo này có sự khác biệt so với một số số liệu thống kê về kim ngạch xuất
khẩu đã được công bố trước đây:
 Theo Hệ thống HS áp dụng cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Tổng cục Thống kê Việt
Nam (GSO) thì tổng giá trị xuất khẩu hàng thủ công của Việt Nam năm 2004 là 533 triệu
đôla Mỹ.
 Theo Hệ thống mã hàng quốc tế xác định sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong tài liệu
“Hướng dẫn phương pháp hoạt động thu thập dữ liệu ngành thủ công” do UNESCO xuất
bản thì một số nhóm mặt hàng được UNESCO liệt kê vào danh mục mặt hàng thủ công
mỹ nghệ lại không nằm trong số liệu thống kê của GSO. Theo cách xác định của UN-
ESCO thì tổng giá trị hàng thủ công và mỹ nghệ của Việt Nam năm 2003 đạt 952 triệu

đôla Mỹ.
Trên cơ sở số liệu thống kê của Tổng Cục Thống kê Việt Nam, chính phủ Việt Nam đã đề ra
mục tiêu cho ngành thủ công Việt Nam là vào năm 2010 ngành sẽ đạt được kim ngạch xuất
khẩu 1,5 tỉ đôla Mỹ. Điều này có nghĩa là Việt Nam cần phải đặt mục tiêu cho tỉ lệ gia tăng
trung bình là 20% một năm. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) cũng đã phê
duyệt kế hoạch phát triển ngành nghề vùng nông thôn đến năm 2010 với mục tiêu tạo ra
300.000 công ăn việc làm mỗi năm ở các khu vực nông thôn và mức tăng trưởng hàng năm
của kim ngạch xuất khẩu đề ra là 20-22%.
Các tác giả xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những bên liên quan đã giúp đỡ chuẩn bị cho chiến
lược xuất khẩu ngành, đặc biệt là Nhóm dự án của Cục Xúc tiến thương mại và ITC ở Hà Nội
và Giơ-ne-vơ.
Tháng 8-2006
3
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
1 Giới thiệu
1.1 Cơ sở
Ngành thủ công và mỹ nghệ của Việt Nam đã có từ rất lâu, tuy nhiên, sự tăng trưởng ấn tượng
của ngành chỉ chỉ thực sự đạt được trong 5 (năm) năm gần đây, chủ yếu là gia tăng trong xuất
khẩu ra thị trường thế giới. Sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ đã đóng góp đáng kể
vào sự phát triển chung về kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngành thủ công mỹ nghệ đã có những tác động to lớn đến tình hình kinh tế và xã hội của đất
nước, đặc biệt đối với tình hình giảm đói nghèo và phát triển các khu vực nông thôn: thu nhập
ở các khu vực nông thôn tăng lên, tạo ra công ăn việc làm cho khoảng 1,35 triệu người ở hơn
2.000 làng nghề trên khắp đất nước, từ đó, thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa thành thị và
nông thôn. Ngành thủ công mỹ nghệ cũng đã góp phần hình thành hàng ngàn các nhà sản xuất,
các thương gia, các nhà xuất khẩu và những công ty dịch vụ ở Việt Nam.
Ngành thủ công mỹ nghệ đã thể hiện năng lực cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế, đặc biệt
đối với các nhóm mặt hàng trang trí nội thất, trang sức và hàng quà tặng. Từ năm 1990 đến
năm 2003/2004, khối lượng xuất khẩu của ngành tăng với tỉ lệ gia tăng hàng năm từ 10-12%
trên tổng giá trị trong khoảng 533 triệu và 952 triệu đôla Mỹ (tuỳ thuộc vào các cách xác định

của các hệ thống HS khác nhau). Đối với thị trường lớn nhất của mình là Liên minh Châu Âu,
Việt Nam là nước cung cấp hàng hoá quan trọng thứ hai về hàng gốm và sản phẩm đan từ
nguyên liệu mây tre. Đối với sản phẩm này, Việt Nam đã có khả năng gia tăng thị phần ở EU
từ 7,5-11% chỉ trong vòng một năm.
Tuy nhiên, ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều trở ngại xuất
phát từ cơ cấu như yếu kém trong sản xuất, hệ thống hỗ trợ ngành chưa hiệu quả, không có
nhiều tiến bộ trong đổi mới sản phẩm hay quy mô sản phẩm còn hạn hẹp.
Do đó, để nâng cao năng lực xuất khẩu và đạt được mục tiêu đề ra là tăng gấp đôi tỉ lệ tăng
trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm của ngành, cần phải có một chiến lược khả thi với
phương hướng cụ thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, đẩy mạnh giá trị xuất
khẩu của ngành và định hướng cho các doanh nghiệp tư nhân về một ngành thủ công mỹ nghệ
vững vàng và trưởng thành của đất nước trong năm năm tới.
Sự cần thiết để hỗ trợ phát triển cho thủ công mỹ nghệ của Việt nam luôn được thảo luận
trong mối liên kết chặt chẽ với hoạt động xoá đói nghèo ở các vùng nông thôn, hoạt động bảo
tồn văn hoá và thúc đẩy xuất khẩu. Nhà nước luôn coi trọng việc phát triển ngành thủ công mỹ
nghệ như một công cụ để phát triển các vùng nông thôn, một phương tiện để kích thích hoạt
động kinh tế đồng thời hỗ trợ công tác xoá đói ở nông thôn trong các cơ chế chính sách được
ban hành
Trước các thực tế đó, cần khẩn trương thực hiện một đánh giá về sự phát triển của ngành thủ
công mỹ nghệ Việt Nam và những tác động nhiều mặt mà hoạt động phát triển này mang lại
4
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
nhằm đạt được mục tiêu tối cao của nhà nước là vì sự đi lên của vùng nông thôn, đặc biệt chú
trọng tới các chiến lược phát triển ngành thủ công kỹ thuật cao, nỗ lực đạt đuợc mục tiêu
ngành về tạo ra công ăn việc làm cho 4,5 triệu người.

1.2 Tiếp cận
Chiến lược xuất khẩu ngành thủ công mỹ nghệ nhằm mục đích phát triển một khuôn khổ trong
đó đáp ứng những mục tiêu về xúc tiến xuất khẩu ngành và thúc đẩy sự phát triển của ngành.
Dựa vào hoạt động đánh giá tổng thể về chuỗi giá trị hiện hành, hoạt động xuất khẩu, năng lực

cạnh tranh trong xuất khẩu, các nhân tố chủ yếu quyết định sự thành bại, các chính sách, chiến
lược liên quan của nhà nước và mạng lưới hỗ trợ ngành, chiến lược xuất khẩu ngành sẽ đề ra
một tầm nhìn dài hạn và đề xuất những hoạt động và biện pháp cần thực hiện trong khoảng
thời gian từ 1-5 năm tới.
Các công cụ chủ yếu được áp dụng là Phân tích chuỗi giá trị trên cơ sở tài liệu phân tích về tác
động của bốn bánh xe động lực của ITC. Một chuỗi giá trị gồm có tất cả các công ty mua và
bán sản phẩm từ một công ty nhằm cung cấp một sản phẩm đặc trưng hoặc một bộ sản phẩm
bao gồm cả những liên kết ngang và liên kết dọc. Trong ngành thủ công mỹ nghệ, chuỗi giá trị
có thể được mô tả như một tập hợp có sự liên kết của những nhà sản xuất nguyên liệu thô,
những nhà thu gom nguyên liệu, thương gia, các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ, nhà sản xuất,
bán buôn, bán lẻ, các nhà xuất khẩu trong nước và các nhà nhập khẩu, các nhà bán buôn, bán
lẻ và người sử dụng quốc tế trong chuỗi giá trị.
Cơ cấu bốn bánh xe động lực được sử dụng để xây dựng một chiến lược xuất khẩu ngành
mang tính tổng thể thông qua việc cân nhắc cẩn trọng hơn đối với bốn hạng mục về phát triển
chuỗi giá trị:
 Trong đường biên giới (Border-In): Phương thức này đề cấp đến những vấn đề liên
quan đến (1) phát triển năng lực liên quan đến nâng cao năng lực sản xuất về năng suất,
khối lượng, chất lượng và giá trị gia tăng; (2) đa dạng hoá năng lực như sản xuất ra các
dòng sản phẩm mới và/hoặc những sản phẩm liên quan; (3) phát triển vốn nhân lực gồm
phát triển nguồn nhân lực và các doanh nghiệp trong ngành.

 Tại đường biên giới (Border): Phương thức này đề cập đến những vấn đề liên quan đến:
(1) cải thiện cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển ngành; (2) thuận lợi hoá thương mại
nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu suất kinh doanh; và (3) giảm chi phí trong hoạt động kinh
doanh để duy trì sức cạnh tranh của ngành.
 Ngoài đường biên giới (Border-Out): Phương thức này đề cập đến những vấn đề liên
quan: (1) tiếp cận thị trường gồm có các hàng rào thuế quan, phi thuế quan và những vấn
đề thâm nhập thị trường liên quan khác; (2) dịch vụ hỗ trợ trên thị trường; và (3) xúc tiến
tầm quốc gia về xây dựng và củng cố hình ảnh của ngành trên các thị trường mục tiêu.
 Phát triển: Phương thức này đề cập đến những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế xã

5
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
hội của đất nước mà ngành đóng góp.
2 Hiện trạng của ngành
2.1 Các nhóm sản phẩm
Ngành thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam có thể được phân loại thành 10 tiểu ngành và các nhóm
cơ bản dưới đây:
(1) Tre/mây/cói/lá
(2) Gốm
(3) Gỗ
(4) Thêu
(5) Dệt
(6) Kim loại
(7) Giấy thủ công
(8) Các loại nguyên liệu khác nhau
(9) Tác phẩm nghệ thuật
(10)Khác.

Theo một báo cáo mới đây của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Cơ quan hợp tác
Quốc tế Nhật Bản (JICA) thì sản xuất hàng thủ công ở tất cả những tiểu ngành này chủ yếu
dựa trên một hệ thống gồm 2.017 làng nghề trên toàn quốc.
Các làng nghề có thể tìm thấy trên khắp đất nước. Các làng nghề thường tập trung lớn ở các
tỉnh phía Bắc.
Tre, mây, cói và lá
Từ nguồn dồi dào nguyên liệu thô ở các địa phương như tre, mây, cói và lá và cũng gồm có
các nguyên liệu thô như guột, bèo tây, chuối hoặc rơm, Việt Nam sản xuất ra những đồ dùng
nhỏ, rổ, nôi, va-li, túi mua hàng, thảm lót (đĩa, cốc), bình phong và nhiều vật dụng khác.
Các sản phẩm được phục vụ cho mục đích sử dụng và trang trí. Sản phẩm rất đa dạng, phục vụ
những thị hiếu khác nhau của khách hàng.
Sản phẩm đan (rổ, giỏ) thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các sản phẩm này được sản

xuất ở nhiều tỉnh thành trên cả nước nhưng hầu hết đến từ Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình, Thanh
Hoá, Khánh Hoà và Tiền Giang.
Trong các năm gần đây, xuất khẩu sản phẩm thủ công từ nguyên liệu bèo tây đã phát triển nở
rộ. Có nhiều làng nghề ở các tỉnh phía Nam như Tiền Giang, Đồng Tháp, Đồng Nai và thành
phố Hồ Chí Minh đặc biệt chuyên về các sản phẩm từ bèo tây.

6
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Hoạt động cung cấp nguyên liệu như tre/mây/cói/lá là một ngành tự thân có tầm quan trọng
đặc biệt đối thu nhập ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, các nguyên liệu thô dồi dào trước kia ngày
càng trở nên khan hiếm. Việt Nam hiện phải nhập khẩu tre từ Trung Quốc và mây từ Lào,
Campuchia và In-đô-nê-xi-a.
Nguyên liệu mây cần phải có sự lưu tâm đặc biệt do nó có truyền thống rất lâu đời. Việt Nam
đã luôn được nhìn nhận là một đất nước của mây (đứng thứ ba chỉ sau In-đô-nê-xi-a và Ma-
lai-xi-a) và người Việt Nam rất giỏi chế tạo các sản phẩm không chỉ từ các giỏ đan làm bằng
mây mà còn cả những đồ dùng bằng mây sử dụng trong nhà và ngoài trời. Ghế, bàn và ngăn
kéo mây sản xuất ở Việt Nam đã trở nên rất phổ biến ở nhiều nước như Đức, Italia và Mỹ với
nhu cầu thậm chí còn đang tăng lên.
Gốm
Nghề gốm của Việt Nam có thể được chia ra làm 04 nhóm chính: Bộ đồ ăn, bình và lọ hoa,
tượng và những vật dụng trang trí khác. Tuỳ thuộc vào công nghệ và nhiệt độ nung mà các sản
phẩm sẽ là gốm, sứ, sành hay đất nung
Nghề gốm đã có ở Việt Nam từ 10.000 năm nay và các cơ sở sản xuất gốm phân bổ trên khắp
cả nước. Tuy nhiên, một số trung tâm sản xuất sản phẩm gốm lớn nằm ở Hà Nội (Bát Tràng),
Đồng Nai và Bình Dương. Gần đây, các sản phẩm nghệ thuật làm từ sành phục vụ nhu cầu
trang trí nhà và vườn đã phát triển mạnh ở các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Long, Hà Nam và Bắc
Ninh và đã thu hút đuợc sự chú ý đặc biệt của các nhà nhập khẩu trên khắp thế giới..
Gỗ
Nhóm sản phẩm có ưu thế lớn của ngành gỗ là đồ dùng trong nhà, chiếm hơn 70% kim ngạch
xuất khẩu. Hầu hết hoạt động sản xuất đồ dùng làm từ gỗ tập trung ở các tỉnh khu vực phía

Bắc của Việt Nam như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Hà Tây, trong khi đó thì
ngành chế biến gỗ công nghiệp lại chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Trung và Nam.
Các nhóm sản phẩm quan trọng tập trung vào sản phẩm bàn và đồ bếp. Ở Việt Nam, những
sản phẩm này chủ yếu được làm từ gỗ nhẹ hơn như gỗ thông và gỗ thích. Cũng có các hoạt
động sản xuất lớn về các phụ kiện như khung tranh, khung ảnh, khung gương.
Một số các sản phẩm thủ công đồ gỗ đòi hỏi sự tinh xảo như tượng, gỗ chạm khảm đang có xu
hướng gia tăng, đặc biệt phục vụ cho các thị trường châu Á như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài
Loan…

Sản phẩm sơn mài
Các sản phẩm sơn mài (như lọ, bát, khay…) là nhóm sản phẩm đặc trưng của xuất khẩu hàng
thủ công Việt Nam. Hầu hết sản phẩm này được làm từ gỗ hoặc tre và đây là một nhóm nhỏ
của các sản phẩm làm từ gỗ hoặc tre/mây/cói/lá.
7
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Thêu và ren
Các sản phẩm thêu ren bằng tay hầu hết là khăn trải bàn, quần áo, váy, túi và những vật dụng
sử dụng thông thường. Những sản phẩm này được tạo ra chủ yếu ở các làng nghề trong các
tỉnh Hà tây, Thái Bình, Ninh Binh và Hà Nam.
Trước kia, những sản phẩm này chủ yếu được xuất khẩu sang các nước đông Âu nhưng ngày
nay, thị trường xuất khẩu đã mở rộng sang nhiều nước, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp
và Italia. Các nhà xuất khẩu sản phẩm này gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thâm nhập thị
trường mới và cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất bằng máy từ các nhà máy của Trung
Quốc.
Dệt

Sản phẩm dệt ở Việt Nam được tạo ra từ 432 làng nghề, trong đó có nhiều sản phẩm từ các
dân tộc thiểu số. Các nguyên liệu sử dụng phổ biến là lụa, cotton, len và sợi lanh. Hầu hết 90%
các làng nghề dệt đan phân bổ ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là khu vực đồng bằng Sông Hồng.
Quy mô sản phẩm dệt nhìn chung không đa dạng và hầu hết thành phẩm có giá trị gia tăng

thấp. Sản phẩm từ lụa và cotton là các nguồn thu nhập chính. Khăn tay làm từ cotton (ở Thái
Bình, Hà Tây, Nam Định…), sản phẩm dùng trong nhà tắm và nhà bếp làm từ các nguyên liệu
dệt khác (Ninh Bình, Hà Tây…) là một số những sản phẩm dệt có tiềm năng xuất khẩu cao
nhất. Tuy nhiên, hầu hết các nguyên liệu cotton thô đều phải nhập khẩu.
Nhóm khác gồm có các dân tộc thiểu số sống ở các khu vực miền núi sử dụng các khung cửi
và một số nguyên liệu đặc biệt và nhuộm màu tự nhiên. Đây là các nhóm sản phẩm có tiềm
năng phát triển rất tốt nếu chúng ta phát triển các thị trường ngách cũng như tập trung vào thị
trường thương mại bình đẳng.
Do những khó khăn về nguồn nguyên liệu thô, các nhà sản xuất đang ngày càng sử dụng các
nguyên liệu thô nhập khẩu giá rẻ, điều này sẽ làm giảm chất lượng các sản phẩm. Đối với các
sản phẩm dệt và các sản phẩm của người thiểu số định hướng để xuất khẩu, điều vô cùng quan
trọng quyết định đến thành công là sự sẵn có của nguyên liệu thô chất lượng cao, cải thiện
chất lượng và phát triển thị trường.
Kim khí mỹ nghệ
Các vật phẩm dùng để trang trí và sản phẩm quà tặng làm từ kim loại như tượng nhỏ, đồ trang
sức, chuông, chiêng và khung tranh. Trong số những sản phẩm này, các vật dụng như đồ mạ
bạc, đồ đồng chế tác và đồ đúc bằng đồng thiếc được xuất khẩu.
Gần đây, sản phẩm chế tác đồng đã tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt do sự kết hợp
giữa sản phẩm đồng chế tác với các nguyên liệu tự nhiên khác như mây, bèo tây và các
8
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
nguyên liệu khác. Trên cơ sở kết hợp nguyên liệu này, có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm đa
dạng trong thời điểm hiện nay.
Giấy thủ công

Hoạt động sản xuất giấy thủ công gần như đã biến mất ở Việt Nam trong các năm gần đây
mặc dù nó có lịch sử phát triển hàng nghìn năm. Nguyên liệu được sử dụng để sản xuất giấy
này rất phổ biến, từ gỗ (Dó, dướng) tới các sợi của chuối, dứa hay rơm, bên cạnh đó, có rất
nhiều các nghệ nhân có tay nghề cao trong sản xuất giấy.
Ngành giấy thủ công phát triển mạnh ở một số nước như Thái Lan, Nê-pan, Nhật Bản và Bờ-

ra-zin và nhu cầu về giấy thủ công (cho các sản phẩm quà tặng) dường như có xu hướng tăng
lên ở nhiều nước. Tiềm năng của tiểu ngành này cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc
không chỉ để bảo tồn một di sản truyền thống mà còn phát triển các loại sản phẩm mới. Gần
đây, Trung tâm Nghiên cứu, Hỗ trợ và Phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam (HRPC) đã
nghiên cứu nhiều kỹ thuật truyền thống, triển khai trên một nhóm gồm 50 nhà sản xuất ở Hoà
Bình và bắt đầu xuất khẩu sang Nhật Bản. Một công ty của Hàn Quốc đã đầu tư vào ngành
này ở Việt Nam dưới dạng công ty 100% vốn nước ngoài nhằm tối ưu hoá sự sẵn có về nguồn
lao động và nguyên liệu thô.
Nghệ thuật chế tác đá, xương, sừng, thuỷ tình hoặc kết hợp
Có 45 làng nghề chạm khảm/tạc đá trong nước. Mặc dù 90% phân bổ ở miền Bắc, nhưng
những làng nghề nổi tiếng nhất cả trong nước và quốc tế lại thuộc khu vực miền Trung (thành
phố Đà Nẵng).
Thiết kế đang thịnh hành về chạm khảm đá cơ bản tập trung vào hình ảnh tôn giáo, tượng
phật, tượng người, động vật và dụng cụ trong nhà. Thẩm mỹ của những thiết kế này cơ bản
thiên về châu Á. Đá rắn chủ yếu được sử dụng đối với các sản phẩm truyền thống như hình
ảnh về phật, hình ảnh động vật truyền thống, các cột kiến trúc trang trí, lồng cầu thang…
Nhiều thiết kế có thể được áp dụng đối với các loại đá mềm.
Đá trắng có thể được nhuộm thành nhiều màu khác nhau, do đó, có thể tương thích với những
thiết kế đa dạng. Những sản phẩm từ đá cho EU, Hoa Kỳ và Ca-na-đa gồm có tượng và các
vật dụng trong vườn. Sử dụng đá mềm đang có xu hướng tăng lên. Các nhà mua hàng nước
ngoài thường thích những thiết kế đơn giản và chưa hoàn thiện trên các sản phẩm đá thủ công.
Bên cạnh đá, sừng trâu và mai/vỏ (ốc, hến…) cũng được sử dụng rộng rãi cho các sản phẩm
như túi xách tay, bát, thìa…
Tác phẩm nghệ thuật
Như đã giải thích trước đó, trong mọi trường hợp, các tác phẩm nghệ thuật đều do một nghệ
nhân/người chủ cơ sở sản xuất. Chu trình sản xuất tổng thể hoàn toàn khép kín độc lập. Những
người sản xuất chuẩn bị nguyên liệu thô và hoàn thành chu trình sản xuất và họ có xu hướng
9
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
tự làm. Hầu hết sản phẩm của họ được bày bán ở những phòng trưng bày các tác phẩm nghệ

thuật và khách hàng của họ thường là khách du lịch nước ngoài. Một số người trong số họ đã
xuất khẩu thông qua những đơn hàng lẻ.
Các tác phẩm nghệ thuật chỉ chiếm chưa đến 1% kim ngạch xuất khẩu liên quan đến ngành và
có xu hướng giảm đi trong các năm gần đây.
Các sản phẩm thủ công khác
Cái gọi là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ “khác” ở đây gồm có nhiều loại vật phẩm từ
nến, sản phẩm dùng cho Giáng sinh, hoa giả, quả khô tới bộ gõ (như trống, kèn xắc-xô-phôn,
chũm choẹ, catanhet), búp bê, đồ chơi…
Sản phẩm trang sức chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm này. Đồ chơi đứng
thứ hai với 20% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu nến chiếm 7 triệu đôla Mỹ vào năm 2003.
Trừ đồ trang sức, hoạt động sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác đều rất kém phát
triển.
2.2 Chuỗi giá trị hiện nay của ngành.
Tất cả các nhóm ngành chính về gỗ, mây/tre/cói, gốm, dệt, thêu và sơn mài thông thường
được sản xuất thông qua các hộ gia đình nhỏ trong làng nghề. Mô hình về chuỗi giá trị của
những tiểu ngành khác nhau đều tương đồng và có thể tóm tắt theo sơ đồ sau đây:
Nguyên liệu thô hoặc là được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu. Các nhóm nguyên liệu
như mây, tre, cói, chạm khắc gỗ, gốm…, thường được các cá nhân hoặc các hộ sản xuất đơn
lẻ trực tiếp khai thác và thu hoạch từ các khu rừng lân cận ở địa phương hoặc ở các tỉnh khác
trong nước. Sau đó, họ bán nguyên liệu này cho những người thu gom với giá rất thấp để kiếm
sống hàng ngày.
Đối với các sản phẩm khác như dệt và thêu, hầu hết nguyên liệu thô gồm có vải hoặc chỉ được
nhập khẩu do nguyên liệu sẵn có trong nước chất lượng thấp. Tơ Việt Nam có chất lượng tốt
nhưng kỹ thuật nhuộm lại không đảm bảo.
10
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Những nhà thu gom nguyên liệu thu thập nguyên liệu thô từ những nhà sản xuất nguyên
liệu, tiến hành phân loại cơ bản xong rồi họ vận chuyển nguyên liệu tới các nhà bán buôn ở
các tỉnh. Nhiều khâu trung gian tham gia vào mạng lưới này làm cho kênh nguyên liệu thô trở
nên phức tạp và làm nâng giá mặt bằng sản xuất.

Những nhà xử lý nguyên liệu thô thu mua nguyên liệu từ những nhà thu gom hay những
người bán buôn ở các tỉnh. Họ hoàn tòan khác những nhà sản xuất nguyên liệu/thu gom
nguyên liệu/nhà bán buôn do họ tham gia vào nhiều hơn khâu xử lý và bán nguyên liệu đã
được chế biến.
Các nhà sản xuất thường là các hộ gia đình tại làng nghề ở các khu vực nông thôn, đây là
lực lượng lao động chính trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Ngành gốm phát triển ở mức
độ cao hơn với sự xuất hiện của nhiều nhà máy tuyển dụng các lao động làm việc dài hạn.
Mặc dù mức thu nhập vẫn còn thấp, nhưng sản xuất hàng thủ công vẫn mang lại cho các hộ
nhỏ kiếm được nguồn thu phi nông nghiệp bền vững bên cạnh việc sản xuất lương thực cơ
bản. Trong nhiều trường hợp, thu nhập từ sản xuất hàng thủ công cao hơn so với sản xuất
nông nghiệp. Chẳng hạn, với công việc đan ghế mây, một người nông dân có thể kiếm được
trung bình 20.000 đồng/ngày (tương đương với 01 euro), số tiền này gấp hai lần so với việc
người đó kiếm được từ sản xuất lúa trên diện tích gieo trồng trung bình là 360 m
2
Mức thu nhập thay đổi từ một nhóm sản phẩm này so với nhóm sản phẩm khác, với những
người sản xuất đồ nội thất, tỉ lệ trung bình là 1,5 đôla Mỹ/ngày (thuộc diện thu nhập cao)
trong khi ở tiểu ngành thêu lại có mức thu nhập ở mức thấp nhất với trung bình khoảng 0,55
đôla Mỹ/ngày.
Sản xuất theo kiển hộ gia đình ở các khu vực nông thôn thực sự rẻ hơn so với sản xuất tại nhà
máy ở các thành phố lớn. Công nhân làm việc trong nhà máy ở Hà Nội sản xuất thành phẩm
kiếm được khoảng 50 đôla Mỹ một tháng, trong khi đó công nhân may trong các nhà máy may
kiếm được từ 70-80 đôla Mỹ một tháng.
Các nhà thu gom sản phẩm là những người sống tại các làng nghề và có vai trò như cầu nối
giữa những thương gia kinh doanh mặt hàng này với các nhà sản xuất. Họ giữ trọng trách đối
với nhiều loại công việc, từ cung cấp nguyên liệu cho người sản xuất (không thường xuyên),
giám sát sản xuất, thu gom hàng và đôi khi họ cũng phụ trách khâu hoàn thiện sản phẩm (xử
lý, nhuộm màu…) và đóng gói.
Các cơ sở kinh doanh hàng thủ công ở nông thôn là những doanh nghiệp sản xuất quy mô
nhỏ đặt tại các làng và có nhiều nhân công, có trang thiết bị căn bản và cũng thực hiện hoạt
động thu gom sản phẩm, giám sát sản xuất và hoạt động hoàn thiện sản phẩm.

Các nhà cung cấp máy móc hiện tại không có vai trò lớn do trang thiết sử dụng trong ngành
thủ công mỹ nghệ rất đơn giản, chỉ bao gồm lò nung gốm, máy sấy, máy tiện, máy nặn, máy
11
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
may nhỏ, máy khoan, thiết bị phun dùng cho sản xuất đồ nội thất hoặc máy may cho sản phẩm
dệt,…
Các nhà xuất khẩu tìm kiếm nguồn hàng từ các nhà sản xuất ở các làng nghề, các nhà thu
gom sản phẩm hoặc các nhà kinh doanh sản phẩm này ở nông thôn. Hầu hết các đơn hàng
thực hiện theo hình thức hợp đồng phụ (subcontract) với các nhà sản xuất. Trong một số
trường hợp, các nhà xuất khẩu cũng cung cấp cho các nhà sản xuất ở các làng nghề nguyên
liệu thô hoặc những cấu phần được làm sẵn.
Một phần của hoạt động sản xuất đang ngày càng có xu hướng được thực hiện tại nhà máy của
các nhà xuất khẩu (sản phẩm cần những kỹ năng hoặc trang thiết bị đặc biệt, khâu hoàn thiện
sản phẩm, sản xuất những cấu phần làm sẵn cho những thợ dệt và thợ gốm đòi hỏi công nghệ
hiện đại) với lực lượng lao động gồm vài trăm, thậm chí hàng ngàn người.
Trước đây, các nhà xuất khẩu hàng thủ công ở một số thành phố chính và các tỉnh khác hầu
như đều là những doanh nghiệp nhà nước. Vài năm trở lại đây, có sự gia tăng nhanh chóng về
số lượng các công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân hoạt động kinh doanh rất thành công và
đang cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp quốc doanh. Các nhà xuất khẩu khu vực tư nhân
có tầm quan trọng ngày càng tăng.
Một cuộc khảo sát gần đây đã có được số liệu về tổng số các nhà xuất khẩu hàng thủ công ở
Việt Nam là 1.120
1
Các nhà nhập khẩu hầu hết là những nhà bán buôn ở Châu Âu, Châu Á hoặc Châu Mỹ, các
cửa hàng lớn ở nước ngoài và những chuỗi bán lẻ mua trực tiếp từ các nhà sản xuất hoặc xuất
khẩu của Việt Nam. Một số khách hàng quốc tế có đại lý hoặc văn phòng đại diện ở Việt Nam
để tìm kiếm các sản phẩm thủ công. Một vài người trong số họ là những doanh nghiệp lớn có
thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Những công ty nước ngoài này có vai trò quan trọng trên
thị trường và họ mua với số lượng lớn.
Toàn bộ khối lượng xuất khẩu hàng thủ công Việt Nam hiện nay phụ thuộc lớn vào một số rất

ít những nhà mua hàng lớn. Một chuỗi bán lẻ ở Châu Âu chiếm khoảng 20% khối lượng xuất
khẩu trên toàn quốc, một số ít hãng khác cũng nắm giữ vị trí quan trọng. Sự có mặt và các
hoạt động mua hàng của những chuỗi như vậy ở Việt Nam mang lại một lợi thế lớn cho đất
nước và cũng là lý do chính làm cho ngành có mức tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, sự
chiếm ưu thế cũng là một mối đe doạ lớn do ngành phải phụ thuộc nhiều vào họ.
Thông thường, các công ty nước ngoài tìm kiếm sản phẩm thông qua các nhà xuất khẩu/công
ty tư nhân và những công ty xuất khẩu của nhà nước. Khách hàng thường lập kế hoạch sản
xuất của họ trước từ 3-6 tháng. Họ cung cấp cho các nhà xuất khẩu catalô, hình ảnh và những
bức vẽ cùng với mã hàng và đặt hàng theo các mã hàng của họ.
Các nhà bán lẻ trong nước, đặc biệt là các cửa hàng ở các thành phố lớn là Hà Nội và thành
1
Danh bạ các nhà xuất khẩu đồ nội thất và thủ công mỹ nghệ, Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam, 2006
12
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
phố Hồ Chí Minh cũng có vai trò quan trọng trong marketing sản phẩm thủ công của Việt
Nam. Các sản phẩm thủ công trưng bày ở những cửa hàng này hầu hết được các chủ cửa hàng
lấy từ các làng nghề hoặc do các nhà thu gom và đôi khi do các công ty tư nhân ở các làng
nghề giới thiệu.
Các cửa hàng tự phân biệt mình bằng chất lượng sản phẩm hàng hoá. Một số các cửa hàng
chuyên về các sản phẩm chất lượng cao. Trong trường hợp này, thu nhập của họ hầu hết là do
xuất khẩu cho các khách hàng nước ngoài và họ cũng đã mang đến khá nhiều thiết kế mới và
thông tin cho các làng nghề. Họ phát triển các sản phẩm mới như một chiến lược cạnh tranh
với các cửa hàng khác. Nhiều cửa hàng cũng nhằm vào đối tượng khách hàng là dân cư trong
nước và khách du lịch.
Các công ty giao nhận và kho vận hoặc là các công ty trong nước hoặc là các công ty nước
ngoài cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, từ tờ khai và thủ tục hải quan tới thuê côngtenơ, thuê
tàu, vận chuyển nội địa… Cạnh tranh giữa các công ty vận chuyển rất khốc liệt. Mỗi công ty
thường có thế mạnh trên một tuyến vận chuyển cụ thể. Giá cước vận chuyển nhìn chung ở
Việt Nam cao hơn ở Trung Quốc.
Giá trị gia tăng từ một khâu trong chuỗi giá trị tới một khâu khác có thể được minh hoạ

thông qua hai sản phẩm cụ thể
2

Giá của các bên liên quan (Việt Nam) & tỉ lệ tăng giá
Nhà sản
xuất
(các) nhà
thu gom
Thương gia
trong nước
Nhà xuất
khẩu
Nhà bán lẻ
nước ngoài
Nệm cói
Ø50 x h4.5 cm
26.000 29.200 36.400 396.250
12% 24% 988%
Giá của các bên liên quan (Việt Nam) & tỉ lệ tăng giá
Nhà sản
xuất
(các) nhà
thu gom
Thương gia
trong nước
Nhà xuất
khẩu
Nhà bán lẻ
nước ngoài
Thảm cói

38 x 55 cm
3.700 5.200 6.100 6.832 33.285
40% 17%(*) 12% 387%
2.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ giai đoạn 1999-2004
Có hai số liệu về xuất khẩu thủ công mỹ nghệ. Những số liệu này dựa trên những mã HS khác
22
Nguồn: Điều tra ở tỉnh Ninh Bình, tháng 01 năm 2006
13
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
nhau và do đó phân biệt đáng kể với khối lượng xuất khẩu chung.
Theo những con số từ Tổng cục Thống kê, xuất khẩu hàng thủ công có tỉ lệ tăng trưởng trung
bình là 10% từ năm 1999-2004 và chiếm tổng lượng xuất khẩu là 533 triệu đôla Mỹ năm
2004.
Bảng 1: Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ từ Việt Nam giai đoạn 1999-2004 (mã HS theo
cách xác định của Tổng cục Thống kê)
3
STT Hạng mục Năm (theo 1.000 đôla Mỹ)
N N 1999 2000 2001 2002 2003 2004
1 Mây, tre, cói, lá 62.200 78.647 93.857 107.921 136.092 171.018
HS 60/120,210,'6504,'940/150,380 H 26% 19% 15% 26% 26%
2 Gốm 83.078 108.393 117.082 123.480 135.860 148.655
HS '6913','6914' H 30% 8% 5% 10% 9%
3 Sơn mài 22.473 36.219 34.043 50.996 59.612 89.673
8 HS '7113','9601','9602' H 61% -6% 50% 17% 50%
4 Thêu 32.591 50.463 54.735 52.673 60.615 65.374
6 HS: '6302','5810' H 55% 8% -4% 15% 8%
5
Hàng thủ công làm từ gỗ ( HS:
44 /1400, 1900, 116.080 80.960 85.402 69.488 58.997 54.901
5 2000, 2010, 2090,2110, 2190) 2 -30% 5% -19% -15% -7%

6 Khác 15.207 13.869 9.192 5.344 5.069 3.477
3 HS:'57' H -9% -34% -42% -5% -31%
- Tổng 331.629 368.551 394.311 409.902 456.245 533.098
11% 7% 4% 11% 17%
Tuy nhiên nếu áp chuẩn HS của UNESCO và dựa vào kết quả thống kê của các HS này do
Tổng cục Thống kê công bố thì kim ngạch xuất khẩu của Việt nam cao hơn rất nhiều và đạt
952 triệu đôla Mỹ vào năm 2003, số liệu này gấp hai lần con số do cơ quan thống kê đưa ra.
Bảng 2: Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ từ Việt Nam giai đoạn 1999-2003 (mã HS theo
cách xác định của UNESCO)
4
Mô tả
Năm (theo 1.000 đôla Mỹ)
1999 2000 2001 2002 2003
Tổng
(5 năm)
1 Hàng thủ công làm từ gỗ 152.152 157.527 213.703 209.711 384.140 1.117.233
2 Dệt 113.460 126.766 141.021 168.970 162.862 713.080
3 Gốm 67.414 108.393 116.715 120.002 132.829 545.353
4 Mây, tre, cói, lá 62.499 78.730 95.878 113.379 142.673 493.158
5 Mỹ nghệ làm từ kim loại 2.723 1.020 4.850 8.836 19.029 36.459
6
Các sản phẩm nghệ thuật từ
đá, xương, sừng, thuỷ tinh 3.901 1.140 2.378 5.893 9.453 22.764
3
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
4
Nguồn: Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu, Hỗ
trợ và Phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam t
14
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam

7 Thêu và ren 1.066 69 824 2.765 974 5.697
8 Gốm và sứ 153 244 776 524 1.692 3.389
9 Tác phẩm nghệ thuật 1.414 619 322 119 176 2.649
10 Giấy thủ công - - 368 26 977 1.371
11 Khác 61.631 77.312 85.364 90.401 97.411 412.120
Tổng 466.413 551.820 662.200 720.625 952.215 3.353.273
Sự khác nhau thể hiện trong hai số liệu chủ yếu là do sự phân loại khác nhau của đồ nội thất,
hàng dệt và thêu. Đối với những sản phẩm này, thường không thể có một sự phân chia rõ ràng
giữa quy trình sản xuất công nghiệp và sản xuất bằng tay:
 Trong khi số liệu của Tổng cục Thống kê không tính đến đồ nội thất và các cấu phần (mã
HS 9403,60 và 9401,69) thì cách xác định của UNESCO lại tính đến những đối tượng này.
Thực tế, một phần các sản xuất đồ gỗ ở Việt Nam được thực hiện bằng tay tại các làng
nghề, do đó, những sản phẩm thuộc loại này cần phải được tính đến như mặt hàng thủ
công khi tiến hành đánh giá về khối lượng xuất khẩu hàng thủ công.
 Sản phẩm dệt cũng không được tính đến trong số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê
trong khi các thành phần cụ thể của sản phẩm dệt (như khăn cotton và khăn tay) được sản
xuất ở những làng nghề lớn và nổi tiếng (trong khi đó, mã của UNESCO cũng lại tính đến
giầy dép với mũ giầy làm từ sản phẩm dệt thuộc nhóm sản phẩm thủ công trong khi sản
phẩm này lại có thể không phải được sản xuất bằng tay).
 Sản phẩm thêu của Việt Nam như ga trải giường, khăn trải bàn, đồ bếp…đôi khi được làm
cả bằng tay và bằng máy. Những sản phẩm này được tính đến trong số liệu thống kê xuất
khẩu của Tổng cục Thống kê nhưng lại không được tính đến trong số liệu thống kê của
UNESCO vì họ cho rằng những sản phẩm này là sản phẩm công nghiệp.
Có thể tạm cân nhắc kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thực tế ở mức tương đối là
trung bình của hai số liệu trên giữa. Do một số nhóm sản phẩm thủ công thực tế tồn tại và phát
triển ở Việt Nam lại không được các số liệu của Tổng cục Thống kê đề cập đến, nên cơ quan
thống kê cấp nhà nước cần phải có sự rà soát lại để có cơ sở định hướng ngành chính xác hơn.
Bên cạnh đó cũng có sự không nhất quán đối với sản phẩm sơn mài, ví dụ: HS7113, HS9601
và HS9602 được Tổng cục thống kê xác định là “sản phẩm sơn mài” nhưng trên thực tế lại
không phải là đồ sơn mài hoàn toàn.

Tỉ lệ tăng trưởng của ngành hàng năm trong cả hai phương thức thống kê đều giống nhau (tỉ lệ
tăng trưởng trung bình hàng năm là 10-12% trong thời kỳ 1999-2003/2004). Có 04 nhóm hàng
có ưu thế và chiếm khoảng 90% kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công gồm:
 Các sản phẩm gỗ
 Mây/tre/cói/lá
 Gốm
 Dệt/thêu.
Nhìn chung, thị trường quốc tế của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã thay đổi nhiều trong
vài thập kỷ gần đây. Trong khi hàng thủ công truyền thống của Việt Nam như hàng dệt lụa
15
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
hay nghề chế tác bạc hầu hết vẫn được xuất khẩu sang các nước láng giềng như Lào, Capuchia
và Thái Lan thì các sản phẩm thủ công hiện thời của Việt Nam hầu hết đang được bán trên thị
trường thế giới.
Năm 2003, hàng thủ công của Việt Nam được xuất khẩu sang 133 nước khác nhau (so với 50
nước năm 1998). Hiện tại, 03 thị trường lớn của xuất khẩu hàng thủ công từ Việt Nam là EU,
các nước Đông Nam Á và Hoa Kỳ).
Thậm chí nếu Nhật Bản có xếp thứ nhất trong số những thị trường xuất khẩu mục tiêu lớn thì
Liên minh châu Âu vẫn là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm 2003, trong số 15 thị
trường xuất khẩu mục tiêu chính của hàng thủ công Việt Nam thì 07 nước của EU chiếm khối
lượng xuất khẩu là 404.702 triệu đô la (43% của tất cả sản phẩm xuất khẩu và gấp 03 lần
lượng xuất khẩu sang Nhật bản hay Hoa Kỳ).
Cần nhấn mạnh rằng, Hoa Kỳ là thị trường đã được xem là có sức tăng trưởng ấn tượng trong
thời kỳ 1999-2003 và thị trường này cũng vẫn còn nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương
lai.
Bảng 3: Thị trường xuất khẩu chính của thủ công mỹ nghệ Việt Nam (mã HS theo cách xác
định của UNESCO)
5
ST
T Nước/vùng lãnh thổ 1999

(Đôla Mỹ)
2000
(Đôla Mỹ)
2001
UĐôla Mỹ)
2002
(Đôla Mỹ)
2003
(Đôla Mỹ)
Tổng
(5 năm)
1 Nhật Bản 109.355 122.850 137.837 133.118 150.945 654.106
2 Pháp 43.089 59.703 71.483 79.773 96.943 350.990
3 Đức 38.081 58.791 67.385 67.512 95.698 327.466
4 Vương quốc Anh 35.586 49.502 62.518 73.339 83.021 303.966
5 Đài Loan 57.470 53.829 65.309 48.998 42.945 268.551
6 Hoa Kỳ 6.507 14.870 24.293 50.444 124.252 220.366
7
Cộng Hoà Triều
tiên 18.535 23.589 25.349 29.999 33.182 130.653
8 Hà Lan 20.316 23.493 22.955 27.238 39.989 133.991
9 Italia 11.695 13.265 16.371 22.789 36.735 100.856
10 Úc 8.018 9.793 13.706 21.965 34.812 88.295
11 Bỉ 9.822 12.607 18.064 16.842 22.412 79.748
12 Tây Ban Nha 6.932 10.016 12.378 13.376 29.904 72.605
13 Xing-ga-po 15.297 7.464 8.845 8.722 6.940 47.268
14 Ca-na-đa 3.875 4.860 6.607 9.567 12.632 37.540
15 Trung Quốc 7.077 5.289 4.334 4.221 3.205 24.125
16 Khác 74.758 81.899 104.766 112.723 138.599 512.745
5

Nguồn: Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu, Hỗ trợ và
Phát triển Làng nghề truyền thống Việt Nam.P
16
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Tổng 466.413 551.820 662.200 720.625 952.215 3.353.273
Đối với Liên minh Châu Âu, Việt Nam là nhà cung cấp có tầm quan trọng thứ hai về đồ gốm
và các sản phẩm bằng nguyên liệu mây tre. Đặc biệt, hoạt động nhập khẩu sản phẩm này gia
tăng nhanh chóng trong một số năm gần đây, tăng thị phần ở Châu Âu từ 7,5 – 11% chỉ trong
01 năm từ 2003 – 2004.
Bảng 4: Các nhà cung cấp hàng đầu về đồ dùng trong nhà và hàng quà tặng sang thị trường EU
6
.
Nhóm sản phẩm
Phần trăm của nhập
khẩu từ các nước
đang phát triển vào
EU năm 2004
Các nhà cung cấp hàng đầu ở các nước đang phát triển vào
EU năm 2004
Nến 30,1% Trung Quốc (27,8%), Thái Lan (0,7%), Ấn độ (0,3%), In-đô-nê-
xi-a
(0,2%), Nam Phi (0,2%)
Đồ gỗ 54,4% Trung Quốc (34,9%), In-đô-nê-xi-a (5,3%), Thái Lan (5.0%),
Ấn Độ
(3.7%), Việt Nam (1,2%), Nam Phi (0,3%), Brazil (0,2%), Ken-
ya (0,2%)
Sản phẩm làm
từ liễu
80,5% Trung Quốc (54,8%), Việt Nam (11,0%), In-đô-nê-xi-a (7,1%),
Phi-lip-pin (2,7%), Madagascar (1,1%), Ma-rốc (0,8%), Myan-

mar (0,6%), Ấn Độ (0,5%), Thái Lan (0,5%), Bangladesh
(0,4%)
Hoa và quả
nhân tạo
70,0% Trung Quốc (67,1%), Thái Lan (1,5%), Phi-lip-pin (0,5%) Ấn
Độ (0,4%), Sri Lanhập khẩua (0,2%), Nam Phi (0,1%)
Gốm 50,7% Trung Quốc (30,6%), Việt Nam (11,0%), Ma-lai-xi-a (2,1%),
Thái Lan (2,1%), Mexico (0,6%), Tunisia (0,5%), Phi-lip-pin
(0,5%), Ấn Độ (0,4%), Ma-rốc (0,3%),
Đồ thuỷ tinh 27,2% Trung Quốc (19,3%), Ấn Độ (1,0%), Brasil (0,7%), Thái Lan
(0,4%), In-đô-nê-xi-a (0,3%), Mexico (0,2%), Ai Cập (0,1%)
Ma-lai-xi-a (0,1%)
Sản phẩm kim
loại
54,4% Trung Quốc (35,3%), Ấn Độ (10,0%), Thái Lan (2,7%), Việt
Nam
(2,6%), In-đô-nê-xi-a (0,6%), Phi-lip-pin (0,6%), Ma-lai-xi-a
(0,3%), Ma-rốc (0,3%), Nam Phi (0,1%),
Sản phẩm làm
từ xương
17,3% Trung Quốc (6,3%), Phi-lip-pin (3,7%), Ấn Độ (3,5%), In-đô-
nê-xi-a (0,8%), Thái Lan (0,3%), Ma-rốc (0,3%), Tunisia
(0,2%), Nam Phi (0,2%)
6
Nguồn: CBI, Eurostat, 2005
17
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
2.4 Những nhân tố có tính chất quyết định đến thành công.
Có nhiều những nhân tố chủ chốt quyết định năng lực cạnh tranh của ngành thủ công mỹ
nghệ Việt nam.

Sự sẵn có của nguồn nguyên liệu phù hợp và đủ điều kiện.
 Việt Nam có nguồn nguyên liệu thô lớn và đa dạng, phục vụ hoạt động sản xuất cho xuất
khẩu hàng thủ công, đặc biệt là mây, tre, lá…
 Mặt khác, nhu cầu ngày càng tăng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam đã dẫn đến tình
trạng một số loại mây và tre đã trở nên khan hiếm. Chẳng hạn như ở tỉnh Thanh Hoá, giá
của nguyên liệu tre đã tăng lên từ 7.000 tới 17.000 đồng một cây chỉ trong vòng 02 năm
gần đây. Giá của nguyên liệu thô cao hơn của Trung Quốc, điều này làm giảm đáng kể khả
năng cạnh tranh. Việt Nam bắt đầu nhập khẩu tre từ Trung Quốc và khoảng 50% mây
đựoc nhập khẩu cả hợp pháp và bất hợp pháp từ Lào, Campuchia và In-đô-nê-xi-a. Trong
trường hợp chưa có động thái thích hợp nào được thực hiện, hy vọng là sự thiếu hụt
nghiêm trọng về nguồn nguyên liệu thô chỉ diễn ra trong khoảng thời gian từ 3-5 năm.
Điều quan trọng cần thực hiện là phải làm sao tổ chức thực sự hiệu quả chuỗi cung ứng
nguyên liệu thô.
 Việc không có sẵn nguyên liệu thô giá rẻ cũng là một vấn đề của các tiểu ngành khác. Vải
có chất lượng dùng cho ngành thêu hầu như phải nhập khẩu hoàn toàn dẫn tới tình trạng
chi phí cho nguyên liệu thô chiếm đến 60-80% chi phí sản xuất. Chi phí nhập khẩu sợi
visco cao tạo ra mối đe doạ cho các ngành dệt khác. Không có sẵn các nguyên liệu đất sét
phù hợp, không thể sản xuất ra những sản phẩm gốm chất lượng cao, phục vụ nhu cầu của
thị trường thế giới.
 Nhìn chung, tình trạng đang ngày càng u ám của nguồn nguyên liệu thô đã trở thành mối
nguy cơ lớn của các nhà sản xuất của Việt Nam.
Lực lượng lao động có kỹ năng
 Việt Nam có lực lượng lao động lành nghề, có kỹ năng tốt trong ngành thủ công, họ có
khả năng tiếp thu những công nghệ mới một cách nhanh chóng và sản xuất ra các loại sản
phẩm đa dạng.
 Kỹ năng điêu luyện của lực lượng lao động tại các làng nghề cho phép họ có thể sản xuất
ra sản phẩm thủ công với sự kết hợp từ rất nhiều loại nguyên liệu.
Quy mô sản phẩm
 Xuất khẩu hàng thủ công của Việt Nam chủ yếu được thực hiện ở 04 tiểu ngành chính: Đồ
gỗ, mây/tre/cói/lá, đồ gốm, dệt/thêu.

 Một số tiểu ngành khác có quy mô sản phẩm còn giới hạn như: Sản phẩm làm từ kim loại,
sản phẩm dùng trong vườn, sản phẩm theo mùa, sản phẩm làm từ giấy…
 Quy mô sản phẩm gồm có những sản phẩm cơ bản và đơn giản như giỏ, lọ hoa, đồ nội
thất....
18
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Chi phí sản xuất
 Việt nam có khả năng cạnh tranh cao và có thể cạnh tranh được với Trung Quốc về chi phí
sản xuất, trong khi chi phí sản xuất của Trung Quốc nhìn chung còn thấp hơn của Phi-lip-
pin hoặc Thái Lan.
 Việt Nam được cho là “Một Trung Quốc mới”, một nước tiếp bước có nền sản xuất với
mức lương thấp. Do chi phí lao động của Trung Quốc tăng lên, các thương gia của Trung
quốc đã tiến hành thiết lập các nhà máy ở Việt Nam.
 Chi phí lao động theo giờ của công nhân Việt Nam từ 0,2 – 0,6 đôla Mỹ/giờ, cho công
nhân của In-đô-nê-xi-a từ 0,3 – 0,4 đôla Mỹ/giờ, cho công nhân Trung Quốc từ 0,5-0,75
đôla Mỹ/giờ, cho Malaixia từ 1,25 – 1,40 đôla Mỹ/giờ, cho công nhân của Thái Lan từ 1,5
đôla trở lên và khoảng 5 đôla ở Đài Loan.
Chất lượng sản phẩm
 Chất lượng của sản phẩm thủ công phụ thuộc vào chất lượng của nguyên liệu thô, kỹ
thuật sản xuất cũng như nỗ lực trong công tác quản lý và cải tiến. Chất lượng không đảm
bảo là do trang thiết bị không phù hợp, đặc biệt là ở các khâu xử lý và hoàn thiện và cũng
do chưa có được các tiêu chí về chất lượng và các cơ quan quy định việc thực hiện các
hoạt động kiểm tra. Theo một ngữ cảnh khác thì “sản phẩm dành cho thị trường cao cấp là
thực sự không phổ biến ở Việt Nam”. Các nhân tố chủ yếu mang lại thành công khi đó
chính là nâng cao chất lượng và sự tiêu chuẩn hoá.
 Nhìn chung, khách hàng của Việt Nam (các nhà nhập khẩu quốc tế) cho rằng có sự tương
quan tốt giữa giá cả/chất lượng của sản phẩm ở cấp trung bình và cấp thấp của Việt Nam.
Những sự phàn nàn xoay quanh vấn đề chất lượng kém, sản phẩm mới ở mức tầm tầm, cả
các nhà nhập khẩu và xuất khẩu đều không đề cập đến những vấn đề lớn hơn.
Khả năng cung ứng số lượng lớn hơn

 Việt Nam đang thúc đẩy khả năng xuất khẩu hàng thủ công để đáp ứng được yêu cầu từ
những chuỗi bán lẻ và các nhà nhập khẩu lớn của thế giới với những số lượng theo yêu
cầu.
 Sự nhanh chóng là một nhân tố quyết định thành công. Trung Quốc vẫn vượt trội hơn về
cách tổ chức và khả năng chuyển giao hàng nhanh chóng.
Độ tin cậy của việc cung cấp
 Các nhà xuất khẩu của Việt Nam đã tạo dựng được danh tiếng với vai trò là những nhà
cung ứng sản phẩm hoàn toàn đáng tin cậy.
Hệ thống phân phối
 Nhiều nhà trung gian hoạt động giữa các làng nghề và các thị trường ở đô thị trong chuỗi
19
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
phân phối sản phẩm. Do thiếu thông tin thị trường nên không thể thực hiện được việc xác
định mức giá phù hợp và cải tiến chất lượng, điều này ảnh hưởng không tốt đến năng lực
cạnh tranh. Do đó, cần phải thiết lập hệ thống phân phối hợp lý trong đó các nhà phân phối
hoạt động như những nhà cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh (BDS).
Đổi mới và thiết kế sản phẩm.
 Ước tính có 90% sản xuất của Việt Nam dựa trên những chi tiết kỹ thuật của khách hàng
cung cấp. Do đó, có ít sự đổi mới và phát triển sản phẩm theo đúng nghĩa là những sáng
kiến của riêng ngành, các nhà xuất khẩu chưa có năng lực thiết kế.
 Sản phẩm thủ công của Việt Nam đều có vẻ bề ngoài khá giống nhau. Việt Nam chưa có
sự hỗ trợ của hoạt động nghiên cứu và phát triển cho sản xuất hàng thủ công.
 Tiềm năng thị trường cho các nước Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản về các nhà cung cấp sản
phẩm với số lượng lớn và giá rẻ sẽ hạn chế hơn khi toàn bộ chuỗi phân phối đạt được mức
chất lượng cao hơn, sản phẩm được thiết kế với mẫu mã đẹp hơn. Hiện tại, các nhà cung
cấp sản phẩm của Việt Nam đang cạnh tranh hoàn toàn dựa vào mức giá thấp nhất của
mình và vẫn đang chịu sự lép vế so với các nhà máy của Trung Quốc. Để có thể cung cấp
sang thị trường cao cấp hơn, các nhà sản xuất cần phải nâng cao năng lực về thiết kế, chất
lượng, hoàn thiện về kỹ thuật và luôn luôn dẫn đầu về các xu thế tiêu dùng và thiết kế hiện
hành. Có tiềm năng xuất khẩu lớn và dài hạn cho các doanh nghiệp quy mô vừa trong việc

cung cấp các sản phẩm cao cấp và thời trang hơn cho các nhà nhập khẩu quốc tế bậc trung.
Tiếp cận với nguồn tài chính
 Mặc dù có nhiều thuận lợi về cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp ở các khu vực nông
thôn và cho người nghèo, nhưng nguồn tài chính lại không dành cho cho các doanh
nghiệp, các nhà sản xuất và xuất khẩu lớn về hàng thủ công mỹ nghệ, do đó dẫn đến hạn
chế các nguồn tài chính của họ. Các nhà xuất khẩu hàng thủ công thường thiếu vốn do việc
làm thủ tục vay vốn ngắn hạn mất quá nhiều thời gian trong khi số tiền vay được lại ít hơn
nhiều so với nhu cầu, hơn nữa, doanh nghiệp rất khó đáp ứng được những điều kiện bảo
đảm thế chấp. Do đó, việc xây dựng các kế hoạch tài chính phù hợp cho các nhà sản xuất
và xuất khẩu hàng thủ công là rất cần thiết.
Xúc tiến Thương mại
 Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam từ các nước châu Á khác đều có các hệ thống xúc
tiến thương mại tiên tiến hơn. Họ có các hội chợ triển lãm quốc tế quan trọng, các hệ
thống thông tin tốt hơn, thu hút được nhiều khách quốc tế hơn, tổ chức tham gia hội trợ
thương mại ở nước ngoài cũng hiệu quả hơn.
 Các khách hàng quốc tế thường thông báo là gặp phải nhiều vấn đề khi tiến hành lựa chọn
ra những nhà cung cấp phù hợp
 Các nhà xuất khẩu cho biết nguồn thông tin thị trường không hiệu quả và họ có ít kiến
thức về cơ cấu thị trường quốc tế.
20
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Kỹ năng kinh doanh
 Khu vực tư nhân của ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam vẫn còn rất non trẻ với nhiều
công ty vừa mới nổi lên chỉ trong vòng 2-5 năm gần đây.
 Kỹ năng kinh doanh, bí quyết trong marketing, kế hoạch tài chính, tổ chức công ty, trình
độ ngoại ngữ… vẫn còn yếu kém. Các nhà quản lý doanh nghiệp thường kiêm quản lý mọi
thứ từ phát triển sản phẩm, marketing và quản lý chất lượng đến quản lý tài chính. Không
có một trật tự rõ ràng trong tổ chức với những chức năng cụ thể ở các doanh nghiệp kinh
doanh hàng thủ công. Do đó, cơ cấu của các doanh nghiệp còn khá yếu do hoạt động kinh
doanh sẽ ngừng trệ khi không có riêng người quản lý về kinh doanh. nghiệp.

Phát triển cụm liên kết (Các ngành phụ trợ)
 Các ngành phụ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho
ngành thủ công ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi các ngành phụ trợ hiện nay của Việt Nam
chưa thực sự phát triển, các nhà xuất khẩu hàng thủ công của Việt Nam thường phải nhập
khẩu rất nhiều loại nguyên liệu và phụ liệu từ nước ngoài, ví dụ như sơn mài PU và chất
nhuộm màu để thực hiện các khâu hoàn thiện bề mặt của sản phẩm.
Cơ sở hạ tầng
 So với Trung Quốc, các nhà xuất khẩu của Việt Nam phải chịu chi phí vận chuyển ra nước
ngoài khá cao đối với cả đường hàng không và đường biển. Những phát hiện gần đây từ
trường Đại học Georgetown, Mỹ về cước vận chuyển đường biển từ Trung Quốc và Việt
Nam sang các nước cho biết “Vận chuyển 50 côngtenơ từ Việt Nam sang các nước với
mức cước vận chuyển đường biển là 322.000 đôla Mỹ và thời gian vận chuyển là từ 17-35
ngày, trong khi đó Trung Quốc với hoạt động tương tự nhưng ở mức 136.000 đôla Mỹ và
trong 11 ngày”
 Các nhà nhập khẩu quốc tế cho rằng có từ 10-30% trợ cấp kín cho các nhà xuất khẩu của
Trung Quốc.
 Cơ sợ hạ tầng về đường xá còn yếu kém.
Tiêu chí về trách nhiệm xã hội
 Khả năng đáp ứng Tiêu chí về Trách nhiệm xã hội (CSR) đang ngày càng trở thành nhân
tố quyết định tới thành công - dưới dạng những vấn đề thuộc về sinh thái.
 Việt Nam đang được kỳ vọng sẽ thành công về khả năng cạnh tranh lớn đối với Trung
Quốc nếu ngành thủ công mỹ nghệ có khả năng sắp xếp hợp lý hệ thống sản xuất.
Trên thị trường quốc tế, các đối thủ cạnh tranh quan trọng nhất của Việt Nam đối với hàng thủ
công là Trung Quốc, Thái Lan, Phi-lip-pin, In-đô-nê-xi-a và Ấn Độ.
2.5 Năng lực cạnh tranh quốc tế.
21
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
Dựa trên những nhân tố quyết định đến thành công, khả
năng cạnh tranh của Việt Nam đối với những nước này
được thể hiện vắn tắt như sau:

 Nhìn chung, Việt Nam có năng lực cạnh tranh cao
do có khả năng cung cấp số lượng lớn, chi phí lao
động của Việt Nam thấp hơn so với Trung Quốc và
nhiều nguồn nguyên liệu thô sẵn có. Sự kết hợp của
năng lực sản xuất cao/chi phí sản xuất thấp/sự sẵn
có của nguyên liệu thô cùng với danh tiếng tốt của
các công ty Việt Nam về cung ứng hàng hoá đáng
tin cậy đã mang lại sự tăng trưởng mạnh mẽ cho
ngành trong vài năm gần đây. Kết quả là, Việt Nam
đã giành được thị phần từ các nước châu Á khác.
 Với Trung Quốc, được lấy ra làm chuẩn mực cho
ngành, năng lực cạnh tranh của Việt Nam có thể
được tóm lược theo lời nhận xét của một khách
hàng quốc tế lớn “Nếu Việt Nam không cạnh tranh
được với Trung Quốc về hàng thủ công thì chúng tôi
đã không mua hàng từ Việt Nam. Trên thực tế, việc chúng tôi mua số lượng lớn từ Việt
Nam chứng tỏ rằng Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn về hàng thủ công”
 Chỉ số thứ hai về năng lực cạnh tranh của Việt Nam chính là việc các công ty của Trung
Quốc trên thực tế đang ngày càng đầu tư vào Việt Nam và thiết lập các trang thiết bị sản
xuất trong nước.
 Do chi phí lao động thấp và hiệu suất sản xuất cao, nhiều hoạt động sản xuất đã chuyển từ
Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin sang Việt Nam và Trung Quốc. Người ta cho rằng,
so với 10 năm trước, các ngành thủ công ở Thái Lan, In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin, hiện
nay chỉ có non nửa các nhà sản xuất.
 Sự xuất hiện và các hoạt động của một số các khách hàng quốc tế lớn ở Việt Nam cũng
chính là những lực lượng có tác động chủ yếu làm cho Việt Nam có vị trí trội hơn các
nước châu Á khác (trừ Trung Quốc).
 Mặt khác, những nguy cơ mà Việt Nam phải đối mặt cũng tăng gấp đôi: Giá nguyên liệu
thô tăng và sự sẵn có của nguyên liệu thô giảm đi ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh
của ngành, trong khi đó quy mô sản phẩm không đa dạng và không có nhiều đổi mới làm

cho Việt Nam rất dễ bị tác động khi có khả năng đứng đầu về xu thế thị trường thế giới.
Những đối thủ cạnh tranh chính đã triển khai một cơ sở sản phẩm đa dạng hơn phục vụ
nhu cầu của khách hàng quốc tế.
 Hiện tại, năng lực cạnh tranh của Việt Nam chủ yếu dựa vào các sản phẩm từ gỗ, mây/tre/
cói/lá và đồ gốm được sản xuất bằng lực lượng lao động rẻ và hiệu quả (sản xuất ở các
làng nghề rẻ hơn so với sản xuất ở nhà máy) và sự sẵn có của nguyên liệu thô.
 Trên thực tế, sản phẩm gỗ, mây/tre/liễu và đồ gốm không những không thể mang lại nhiều
lợi nhuận về thương mại trên thị trường quốc tế mà nó còn có thể tạo ra nguy cơ lớn cho
ngành. Do đó, việc nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm là rất cần thiết.
22
Tông quan về các nhân tố được lựa
chọn, có khả năng quyết định thành
công
 Sự sẵn có của nguồn nguyên liệu
thô +/-
 Lực lượng lao động có kỹ năng +
 Quy mô sản phẩm -
 Chi phí sản xuất ++
 Chất lượng sản phẩm +
 Cam kết số lượng +
 Độ tin cậy +
 Đổi mới/thiết kế sản phẩm --
 Khuôn khổ xúc tiến
thương mại -
 Kỹ năng kinh doanh +/-
 Cơ sở hạ tầng +/-
 Các tiêu chí CRS +
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
3 Các điều kiện về khung chính sách
3.1 Chính sách của nhà nước đối với ngành

Chính phủ Việt Nam hỗ trợ thúc để đẩy ngành thủ công mỹ nghệ như một phương thức thực
hiện xoá đói nghèo, đặc biệt ở các khu vực nông thôn. Các bảng biểu dưới đây liệt kê ra
những chính sách có hiệu lực và được cập nhật, đây là những chính sách trực tiếp đề cập đến
sự phát triển của ngành thủ công từ khâu cung cấp nguyên liệu thô và đất đai đến khuyến
khích đầu tư và xúc tiến thương mại.
Quy định Cơ quan
Quyết định Số 132/2000/QĐ/TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 về các chính sách
khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn.
Thủ Tướng
Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày 07 tháng 9 năm 2001 về Cơ chế tài
chính Thực hiện các Chương trình Phát triển Giao thông nông thôn, cơ sở hạ
tầng cho ngành Thuỷ sản và Cơ sở hạ tầng cho các Làng nghề thủ công.
Thủ Tướng
Thông tư số No.79/2001/TT-BTC ngày 28 tháng 9 năm 2001 hướng dẫn về
Các cơ chế tài chính Thực hiện Chương trình Phát triển Giao thông nông thôn,
cơ sở hạ tầng cho ngành Thuỷ sản và Cơ sở hạ tầng cho các Làng nghề thủ
công.
Bộ Tài chính
Thông tư 84/2002/TT-BTC ngày 26 tháng 9 năm 2002 hướng dẫn về các hình
thức khuyến khích tài chính nhằm kích thích sự phát triển của các ngành thủ
công.
Bộ Tài chính
Công văn số.670/BNN– TCBC ngày 26 tháng 3 năm 2003 hướng dẫn về đào
tạo và phát triển các nghề thủ công nông thôn.
Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn
Quyết định số 124/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2003, phê duyệt về bảo
tồn văn hoá và phát triển các dân tộc thiểu số ở Việt Nam để thúc đẩy các nghề
truyền thống.
Bộ văn Hoá và Thông tin

(MOCI)
Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 về khuyến khích các
ngành ở nông thôn
Chính phủ
Thông tư số65/2004/TTLT/BTC-BLDTBXH ngày 02 tháng 7 năm 2004 hướng
dẫn về hỗ trợ đào tạo nghề thủ công ở các vùng nông thôn
Bộ Tài chính và Bộ Lao
động, Thương binh và Xã
hội
Quyết định số184/2004/QĐ-TTg ngày 22 tháng 10 năm 2004 về sử dụng tín
dụng dành cho phát triển của nhà nước để nâng cấp cơ sở hạ tầng ở các làng
nghề cho giai đoạn 2006-2010
Thủ tướng
Thông tư số 03/2005/TT-BCN ngày 23 tháng 6 năm 2005 hướng dẫn về hoạt
động khuyến khích các ngành thủ công nông thôn
Bộ Công nghiệp
Quyết định số 910 QĐ/BNN-CB ngày 31 tháng 03 năm 2006 về kế hoạch phát
triển nghề thủ công nông thôn đến năm 2010
Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn
Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 về phát triển ngành thủ
công nông thôn.
Chính phủ
Theo những nghị định, quyết định và thông tư ở trên thì:
 Nhà nước sẽ khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và thông qua những chính sách bảo vệ
lợi ích hợp pháp cho hoạt động sản xuất và kinh doanh hàng thủ công nông thôn, đặc biệt
là các hoạt động kinh doanh truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ
trong nước, thu hút nguồn lao động và góp phần tạo công ăn việc làm ở nông thôn, xoá đói
giảm nghèo, bảo tồn và thúc đẩy các giá trị văn hoá của dân tộc.
23

Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
 Khuyến khích việc tự nguyện thành lập các hiệp hội của những nghề khác nhau hay ở
những địa phương khác nhau nhằm có biện pháp hỗ trợ thực tế cho sự phát triển của các
cơ sở kinh doanh hàng thủ công, phản ánh được tâm tư và nguyện vọng của họ, đóng góp
ý kiến cho các cơ quan nhà nước trong việc soạn thảo những cơ chế, chính sách phát triển
ngành nghề ở nông thôn.
 Nhà nước sẽ cung cấp vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng (đường xá, cung cấp điện nước,
đảm bảo về môi trường), kho bãi, nhà xưởng cho các đối tượng dân cư tham gia vào sản
xuất và kinh doanh hàng thủ công ở nông thôn và trợ cấp kinh phí đào tạo xúc tiến thương
mại cho sản xuất hoặc kinh doanh nông thôn và cho các cơ sở kinh doanh hàng thủ công
nhằm duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, hoạt động sản xuất và kinh doanh ở
nông thôn, tạo công ăn việc làm và tăng nguồn thu nhập cho người lao động. Hỗ trợ vốn từ
nhà nước thường giới hạn và không quá 60% tổng đầu tư. Bên cạnh đó, các tỉnh được
phép vay tiền từ Quỹ Hỗ trợ phát triển với lãi suất 0% trong thời gian 04 năm để nâng cấp
cơ sở hạ tầng để phát triển ngành thủ công.
 Việc thiết lập cơ sở cho ngành thủ công nông thôn sử dụng các phần đất không có tranh
chấp và và ổn định sẽ liên quan đến vấn đề quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân các cấp
có thẩm quyền xác nhận.
 Các cơ sở của ngành thủ công nông thôn sẽ được thuê đất đai ở mức thấp nhất và họ sẽ
được miễn không phải trả phí thuê đất trong 03 năm nếu họ di dời các nhà máy của mình
khỏi khu vực dân cư.
 Các tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương sẽ bố trí cơ cấu của chính họ theo những
yêu cầu phát triển thương mại của vùng nông thôn, nhằm quy hoạch và lập kế hoạch phát
triển vùng nguyên liệu thô từ nông nghiệp và lâm nghiệp để đảm bảo các nguồn phong
phú cho những ngành nghề sản xuất ở nông thôn. Bất kỳ cơ sở kinh hàng doanh thủ công
nào ở nông thôn muốn khai thác nguyên liệu thô là các nguồn khoáng sản sẽ được ưu tiên
cấp phép sử dụng và khai thác theo các quy định của pháp luật. Họ cũng sẽ hưởng sự miễn
hoặc giảm thuế dành cho các nguồn tài nguyên theo quy định của nhà nước.
 Các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp sẽ tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh hàng
thủ công nông thôn tiếp cận kịp thời thông tin về thị trường, giá cả, chi tiết kỹ thuật và tiêu

chuẩn của sản phẩm theo các yêu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài.
 Cơ sở kinh doanh hàng thủ công nông thôn được giảm 50% hoặc hơn thế về phí thuê mặt
bằng khi tham gia trưng bày tại hội trợ và triển lãm sản phẩm trong nước.
 Cơ sở kinh doanh hàng thủ công nông thôn có thể liên doanh và hợp tác với các tổ chức và
cá nhân trong và ngoài nước về hoạt động sản xuất và bán sản phẩm.
 Bộ Thương mại sẽ trực tiếp điều hành các thương vụ ở nước ngoài khai thác thị trường
của nước chủ nhà, giới thiệu họ với các cơ sở kinh doanh hàng thủ công trong nước
 Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ tổ chức, hướng dẫn và cung cấp những nguồn
quỹ cần thiết trong kế hoạch hàng năm dành cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nâng
cao kỹ năng thiết kế và sử dụng các nguồn nguyên liệu thô trong nước, chỉ dẫn áp dụng
các công nghệ thích hợp nhằm nâng cao năng suất lao động; giảm chi phí, đa dạng sản
phẩm, tăng giá trị thẩm mỹ và sự tinh xảo của sản phẩm do các làng nghề sản xuất; nghiên
cứu và chuyển giao công nghệ xử lý rác thải, chấm dứt tình trạng ô nhiễm môi trường do
các ngành nghề ở nông thôn gây ra.
 Đối với lao động, sẽ có sự ưu tiên dành cho đào tạo và sử dụng người lao động là thành
24
Chiến lược Xuất khẩu Quốc gia ngành Thủ công Mỹ nghệ Việt Nam
viên của những hộ gia đình có đất đai thuộc diện quy hoạch của nhà nước phục vụ cho
công tác phát triển ngành nghề nông thôn và người lao động địa phương.
 Đố với đào tạo, bản thân người thợ thủ công có thể tổ chức truyền nghề của mình và thu
phí từ những học viên theo nguyên tắc hai bên cùng thoả thuận và hoạt động này được
miễn thuế; thợ thủ công, hợp tác xã, tổ chức và các hiệp hội sẽ được khuyến khích thực
hiện việc truyền nghề và các khoá đào tạo cho người lao động; các trường đào tạo nghề
của nhà nước sẽ ưu tiên cho hoạt động đào tạo nghề của các cơ sở kinh doanh hàng thủ
công nông nông; mỗi huyện có thể thiết lập một trung tâm đào tạo nghề, đặc biệt là nghề
truyền thống ở địa phương. Chính phủ sẽ hỗ trợ 200.000 đ/học viên/tháng trong suốt thời
gian đào tạo.
Không chỉ được hưởng lợi ích từ những chính sách trên, các cơ sở kinh doanh hàng thủ công
nông thôn cũng sẽ được hưởng những ưu đãi về đầu tư theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP
ngày 08 tháng 7 năm 1999 quy định về việc thực hiện Luật Xúc tiến Đầu tư trong nước số

03/1998/ QH10 ngày 20 tháng 5 năm 1998. Bên cạnh đó, các nhà xuất khẩu hàng thủ công
cũng có các hoạt động theo những chương trình hỗ trợ. Bảng biểu dưới đây thể hiện những
chính sách trực tiếp đề cập đến những hình thức khuyến khích và xúc tiến thương mại:
Lĩnh vực Quy định Cơ quan
Xúc tiến
Đầu tư
Quyết định số 3/1998/QH10 ngày 20 tháng 05 năm 1998, Luật Xúc tiến
Đầu tư trong nước (sửa đổi)
Quốc hội
Nghị định số 68/1998/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 1998 hướng dẫn thực
hiện Sắc lệnh về thuế đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Chính phủ
Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 về Thực hiện
Luật số 03/1998/QH10 về Xúc tiến Đầu tư trong nước (sửa đổi)
Bộ Kế hoạch và
Đầu tư
Thông tư số 02/1999/TT-BKH ngày 24 tháng 9 năm 1999 Hướng dẫn thủ
tục về khuyến khích đầu tư phù hợp với Nghị định số 51/1999/NĐ-CP
Bộ Kế hoạch và
Đầu tư
Thông tư số 22/2001/TT-BTC ngày 03 tháng 04 năm 2001 Hướng dẫn
thực hiện việc miễn và giảm thuế đối với những đối tượng thuộc diện
khuyến khích đầu tư phù hợp với Nghị định số 51/1999/ND-CP ngày
8/7/1999 của Chính phủ.
Bộ Tài chính
Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2003 về miễn và
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chính phủ
Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng 04 năm 2004 về tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.

Chính phủ
Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg ngày 5 tháng 04 năm 2005 về cơ chế
quản lý và thực hiện vốn vay từ Quỹ trong nước dành cho việc tạo công
ăn việc làm
Thủ Tướng
Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg về thiết lập Ngân hàng Phát triển Việt
nam
Thủ Tướng
Xúc tiến
Xuất khẩu
Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 1999 về Thiết lập
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Thủ Tướng
Quyết định số 02/2001/QĐ-TTg ngày 02 tháng 01 năm 2001 về những
Chính sách hỗ trợ đầu tư từ Quỹ Hỗ trợ phát triển cho các dự án chế biến
xuất khẩu.
Bộ Kế hoạch và
Đầu tư
Quyết định số 133/2001 ngày 10 tháng 9 năm 2001về thúc đẩy Quy chế
đối với tín dụng hỗ trợ xuất khẩu.
Thủ tướng
Thông tư số 76/2001/TT-BTC ngày 25 tháng 9 năm 2001 Hướng dẫn về
Quy chế đối với tín dụng xuất khẩu.
Bộ Tài chính
Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2005 Ban hành
Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình Xúc tiến Thương mại
Quốc gia giai đoạn 2006-2010
Thủ tướng
25

×