Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch môn Chủ nghĩa xã hội khoa học: Làm rõ luận điểm của Đảng ta về con đường đi lên của cách mạng Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.62 KB, 12 trang )

1

Phần 1: Mở đầu
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân
tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán của Đảng ta. Trong suốt q
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã khơng ngừng phát triển nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tại Đại hội IX của Đảng, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15
năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN),
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy,
có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện
nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này
là quá độ gián tiếp.
Hiện nay, vấn đề nhận thức về sự lựa chọn con đường phát triển
XHCN, bỏ qua chế độ TBCN, kiên trì phấn đấu theo lý tưởng và mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân ngày càng đầy đủ. Trong sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay, việc nhận thức về
tính tất yếu con đường quá độ tiến lên CNXH ở nước ta mang tính cấp thiết,
có ý nghĩa định hướng, xây dựng một nước Việt Nam XHCN “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì vậy, tơi đã chọn đề tài
“Làm rõ luận điểm của Đảng ta về con đường đi lên của cách mạng Việt
Nam: Tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” làm bài thu
hoạch kết thúc mơn của mình.


2



Phần 2: Nội dung

1. Khái niệm về chủ nghĩa xã hội
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng xã hội nhằm thay thế chế độ tư
bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ XHCN khi những điều kiện vật chất và
tinh thần cho sự thay thế đó đã ở mức độ nhất định và khi đã hình thành tình
thế cách mạng.
Cách mạng XHCN là một quá trình cải biến cách mạng tồn diện, triệt
để, lâu dài của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản nhằm lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, thiết lập
chính quyền mới, sử dụng chính quyền mới để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.
2. Tính tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH” [3,
tr. 69]. Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên
CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”.
Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và
thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, khơng phải


3


HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời.
Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng
có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so
với các chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu
dài, đầy khó khăn, thử thách. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội TBCN và cộng sản chủ nghĩa
là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...” [1, tr. 47].
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, lồi người với tính
cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm
lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách
quan và chủ quan, bên ngồi và bên trong chi phối, khơng phải quốc gia nào
cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ
đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong
tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của
từng nước. Điều đó hồn tồn phù hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại
ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó
được lý giải bởi:
- Đây là sự lựa chọn mang tính xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nơng nghiệp lạc hậu, mang nặng tính
chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là:
chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa
nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện


4


đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN,
trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy
luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền
do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải
tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại
rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực hiện được mục
tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi theo con
đường TBCN vì thời đại ngày nay khơng phải là thời đại của CNTB, mặc dù
CNTB đang là động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn
dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...” điều
chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB
vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về
bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB
khơng thể khơng bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp
với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; dựa vào khối liên minh cơng - nơng - trí thức để tổ chức và huy
động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành cơng nghiệp hóa
(CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này
hoàn toàn mới mẻ và khơng ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho
nhân dân lao động.
- Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở


5


đầu giai đoạn mới của q trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng
trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn,
cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ
sở vật chất - kỹ thuật, xã hội lồi người địi hỏi phát triển lên một xã hội mới
của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó,
quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau
CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự
lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự
lựa chọn đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ
lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở
thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá
trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh
thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì
thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là
trong lịch sử nước ta khơng có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm
chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế
quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH


6


bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại” [2, tr.21]. Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa
là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển
tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế
quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng
cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút
ngắn” q trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có
nghĩa là đẩy nhanh tương đối q trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những
khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần
thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến
đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy
luật của q trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của
nước ta chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều
phong trào đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất,
song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về
đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai
cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối
theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo
nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh
chóng gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách
mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên.


7


Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả
nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến
hành 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm
hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa
Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng,
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước q độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã
phạm sai lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng
với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm, khuyết điểm
do thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy
luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm
điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường
quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế,
Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII
của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử” [4, tr.66]. Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ
phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập
niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây
dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN là một tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại,
với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng



8

của nhân dân ta.
3. Phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu
ra 8 phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
gồm:
Một là, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.


9

Cùng với những thành tựu đạt được trên thì việc thực hiện các phương
hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn

những hạn chế:
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế chưa cao. Kinh tế tri thức chưa được quan tâm phát triển. Bảo vệ môi
trường, đa dạng sinh học cịn nhiều bất cập. Văn hóa, xã hội cịn có những
mặt bất cập; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ chưa thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam tồn
diện, cịn có mặt, nhất là đạo đức, nhân cách chưa đáp ứng yêu cầu. Xây dựng
Đảng về đạo đức chưa đạt mong muốn. Bộ máy hành chính cịn cồng kềnh,
cải cách hành chính cịn chậm. Tình trạng suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng. Niềm tin của nhân dân
vào Đảng, vào chế độ được nâng lên nhưng chưa bền vững.
Trên cơ sở đó, cần bổ sung nhận thức về phương hướng cơ bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mơ hình tăng trưởng
bao trùm - mơ hình phát triển bao gồm cả kinh tế, tài chính, văn hóa - xã hội,
trong đó con người phải là trung tâm. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; từng
bước phát triển kinh tế tri thức; phát triển các ngành kinh tế biển phù hợp điều
kiện cụ thể. Tạo đột phá trong năng xuất, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hai là, tạo bước đột phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển
khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là
nguồn nhân lực lãnh đạo, quản trị đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp


10

4.0. Tăng cường xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh phát triển đất nước.
Ba là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ, chú trọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; bảo vệ nhân

dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Giữ vững an ninh, an toàn trật tự xã hội cho
phát triển đất nước. Chủ động ứng phó với những vấn đề an ninh phi truyền
thống. Quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, xuyên xuốt
cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là nhiệm vụ sống còn của đất nước và
dân tộc, trong đó mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn biển, đảo và giữ vững an ninh chính trị là nhiệm vụ trọng tâm trong
giai đoạn hiện nay.
Bốn là, chủ động thực hiện các cam kết quốc tế, các hiệp định thương
mại thế hệ mới; xử lý tốt các mối quan hệ với các nước lớn, các nước láng
giềng, khu vực.
Năm là, thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân gắn với kỷ cương, kỷ luật. Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng, khơi dậy niềm tin, khát vọng, niềm tự
hào dân tộc của người Việt Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sáu là, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch,
liêm chính, hành động vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước trên
tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ. Xây dựng
nền hành chính cơng khai, minh bạch, liêm chính, từng bước xây dựng Chính
phủ điện tử; quản trị thơng minh; xây dựng cơ chế kiểm soát hiệu quả quyền
lực.


11

Bảy, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả, đội ngũ cán bộ, cơng chức liêm khiết, có phẩm chất đạo đức, năng
lực, trình độ chun mơn ngang tầm nhiệm vụ.
Đồng thời tiếp tục quán triệt và xử lý tốt 9 quan hệ lớn theo tinh thần

Đại hội XII và chủ động nhận thức, giải quyết tốt một số quan hệ phát sinh
khác. Đó là quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu sách lược; quan hệ
giữa phát huy nội lực và phát huy ngoại lực; quan hệ giữa thực hành dân chủ
và thực hiện kỷ cương, pháp luật; quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong điều
kiện mới.
Phần 3: Kết luận

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử sự phát triển xã hội
loài người là qúa trình phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình
thái kinh tế - xã hội khác. Sự ra đời và tồn tại của một chế độ xã hội trong
một giai đoạn lịch sử nhất định là do sự tác động của quy luật khách quan.
Sự thay thế xã hội này bằng một xã hội khác văn minh và tiến bộ hơn cũng
là một tất yếu lịch sử. Lồi người đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội và
đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội thứ năm: hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là
sự lựa chọn có tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích dân tộc và nhân dân, phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại. Con đường đi lên CNXH là con đường
duy nhất đúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã lựa chọn cho
dân tộc Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu khơng thay đổi của cách mạng nước
ta. Song CNXH là gì và Việt Nam đi lên CNXH bằng cách nào thì qua mỗi
thời kỳ cách mạng chúng ta mới có được những nhận thức ngày càng đầy đủ


12

hơn và sâu sắc hơn. Nhưng trải qua hơn 25 năm đổi mới đất nước, thực tiễn
phong phú và những thành tựu thu được trong tiến trình cách mạng đã cho
phép chúng ta một lần nữa khẳng định con đường đi lên CNXH là hồn tồn
đúng đắn. Vì thế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã

hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”.



×