Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Nghiên cứu các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học trong các hộ gia đình ở Việt Nam (Đề tài NCKH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG

NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUYẾT
ĐỊNH ĐẦU TƯ GIÁO DỤC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC
TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM

Chủ nhiệm đề tài: TS.Trần Việt Thảo

Hà Nội, 3/2017


MỤC LỤC

MỤC LỤC.................................................................................................................... 2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................................... 4
DANH MỤC BẢNG, HÌNH ....................................................................................... 5
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 1
2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan ....................................................... 2
2.1. Ngoài nước ............................................................................................................. 2
2.2. Trong nước ............................................................................................................. 5
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài .................................................................... 8
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu............................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu: ...................................................................................... 8
6. Kết cấu báo cáo nghiên cứu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm 3
chương: ......................................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ GIÁO DỤC .......... 9


1.1. Một số khái niệm ................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm giáo dục và đầu tư ............................................................................. 9
1.1.2. Khái niệm đầu tư giáo dục ................................................................................ 10
1.1.3. Khái niệm chi tiêu giáo dục .............................................................................. 11
1.1.4. Các yếu tố tác động tới đầu tư giáo dục............................................................ 11
1.2. Lý thuyết về đầu tư giáo dục................................................................................ 12
1.2.1. Lý thuyết vốn nhân lực ..................................................................................... 12
1.2.2. Lý thuyết đầu tư vốn nhân lực .......................................................................... 14
1.3. Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục ở một số quốc gia ................................................. 15
1.3.1. Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục đại học ở Hàn Quốc ...................................... 15
1.3.2. Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục đại học ở Nhật Bản ....................................... 16
1.3.3. Kinh nghiệm về định hướng giáo dục ở Hoa Kỳ .............................................. 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁO DỤC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC
TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM ....................................................... 19
2.1. Tình hình phát triển giáo dục ở Việt Nam ........................................................... 19


2.1.1. Tình hình phát triển giáo dục nói chung ở Việt Nam ....................................... 19
2.1.2. Tình hình phát triển giáo dục đại học nói riêng ................................................ 20
2.2. Tình hình đầu tư giáo dục đại học trong các hộ gia đình ở Việt Nam ................. 22
2.2.1. Lượng hóa đầu tư giáo dục đại học trong các hộ gia đình theo số liệu điều tra
mức sống hộ gia đình VHLSS .................................................................................... 22
2.2.2. Xác định các yếu tố tác động tới đầu tư giáo dục trong các hộ gia đình ở Việt
Nam ............................................................................................................................. 24
2.3. Phân tích các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học
trong các hộ gia đình ở Việt Nam ............................................................................... 31
2.3.1. Mối quan hệ về các yếu tố kinh tế với quyết định đầu tư giáo dục đại học. 32
2.3.2. Các đặc điểm của hộ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư giáo dục của hộ gia
đình. ............................................................................................................................ 35
CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 43

3.1. Một số kết luận rút ra từ phân tích ở chương 2 .................................................... 43
3.2. Khuyến nghị chính sách ...................................................................................... 43
3.2.1. Hồn thiện đổi mới chính sách đầu tư giáo dục đại học. .................................. 43
3.2.2. Xây dựng hệ thống thông tin giữa nhà trường, doanh nghiệp, người học về
nhu cầu đào tạo của thị trường .................................................................................... 45
3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề đầu tư giáo dục đại học hiệu
quả, hợp lý................................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 47


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

THCN

: Trung học chuyên nghiệp

THCS

: Trung học sơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

USD

: Đô la Mỹ


DANH MỤC BẢNG, HÌNH


Bảng 2.1: Số lượng các cơ sở cung ứng giáo dục và đào tạo trong hệ thống giáo
dục đào tạo Việt Nam giai đoạn 2007-2015 ............................................................... 20
Bảng 2.2: Thay đổi về tỷ lệ giảng viên/sinh viên giữa đơn vị cơng lập và ngồi
cơng lập ở hệ cao đẳng và đại học 2007-2015 ............................................................ 21
Bảng 2. 3. Tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi các cấp, 2009 ................................................ 22
Bảng 2.4: Chi tiêu giáo dục của hộ gia đình 2010 và 2014 ........................................ 23
Bảng 2.5: Thu nhập bình quân theo giờ theo trình độ giáo dục (Nghìn
đồng/người/giờ) theo giá so sánh ................................................................................ 26
Bảng 2.6: Thu nhập bình quân của người lao động theo trình độ và ngành năm
2010 (nghìn đồng/người/giờ) theo giá so sánh ........................................................... 27
Bảng 2.7: Khác biệt lợi tức giáo dục theo trình độ giáo dục, 2002- 2010 (Biến phụ
thuộc là biến logarithm của thu nhập) ........................................................................ 28
Bảng 2.8: Cơ cấu việc làm theo trình độ giáo dục, 2002-2010 (%) ........................... 30
Bảng 2.9: Mức lợi tức giáo dục theo trình độ chun mơn kỹ thuật (%) ................... 31
Bảng 2.10: Một số đặc điểm của mẫu điều tra............................................................ 32
Bảng 2.11: Mức chi và Tỷ lệ chi giáo dục theo khu vực cư trú ................................. 33
Bảng 2.12: Cơ cấu hộ theo tỷ lệ chi giáo dục và mức chi giáo dục bình quân ........... 34
Bảng 2.13: Mức chi giáo dục bình quân theo số con đang đi học .............................. 35
Bảng 2.14: Mức chi giáo dục bình quân theo cấp học của con .................................. 36
Bảng 2.15: Mức chi giáo dục bình quân theo tình trạng việc làm và nghề nghiệp
của bố/mẹ .................................................................................................................... 38
Bảng 2.16: Mức chi giáo dục bình quân theo trình độ giáo dục của bố/mẹ ............... 38

Hình 2.1: Mức chi giáo dục bình quân theo tình trạng làm việc của bố mẹ theo khu
vực cư trú (Triệu đồng/con/tháng) .............................................................................. 37
Hình 2.2: Cơ cấu hộ theo các bậc học dự kiến cho con theo học (%) ........................ 39


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Để phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, bên cạnh sự đầu tư của Nhà
nước cho giáo dục, một nguồn lực hết sức quan trọng là sự đầu tư của hộ gia
đình cho con cái, đặc biệt ở bậc đại học. Trong những năm gần đây, tỷ trọng
đầu tư cho giáo dục từ hộ gia đình liên tục tăng và chiếm khoảng ½ tổng chi
cho giáo dục (Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2011 của Chương
trình Phát triển Liên Hiệp Quốc). Nghiên cứu của UNPA 2012 cho thấy, chi
tiêu cho giáo dục và y tế chiếm từ 30-50% thu nhập của hộ gia đình Việt Nam.
Đặc biệt, trong tương quan so sánh với các nước đang phát triển như Hoa Kỳ,
Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, và các nước OECD thì tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục
từ dân và các nguồn khác ngoài nhà nước của Việt Nam cao hơn rất nhiều so
với các nước nói trên (tỷ lệ lần lượt là 40%; 26%, 7%, 26%; 41% và 20%)1.
Xét trên góc độ hộ gia đình và cá nhân, giáo dục được xem là sự đầu
tư cho tương lai. Đặc biệt tại Việt Nam, cha mẹ thường có xu hướng huy động
mọi nguồn lực để đầu tư cho việc học của con cái nhằm đảm bảo tương lai tốt
đẹp cho con, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, trong thời gian qua chưa có
nhiều nghiên cứu tại Việt Nam tiến hành đánh giá xem quyết định đầu tư của
cha mẹ dành cho giáo dục của con dựa trên những cơ sở nào, các nhân tố nào
tác động tới quyết định đầu tư giáo dục cho con cái của cha mẹ. Việc đầu tư đó
có dựa trên bằng chứng về lợi ích của giáo dục, yêu cầu của thị trường lao
động, khả năng của con…? Có khác biệt gì trong quyết định đầu tư này ở các
bậc cha mẹ với trình độ giáo dục, nghề nghiệp, thu nhập… khác nhau. Những
câu hỏi này là thực sự quan trọng khi đánh giá việc đầu tư có mang lại hiệu quả
hay không? Đặc biệt trong bối cảnh giáo dục hiện nay ở Việt Nam, tình trạng
“thừa thầy, thiếu thợ” đang diễn ra khi hàng năm tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp cao
đẳng, đại học thất nghiệp cao hoặc làm việc không đúng ngành nghề, cũng như

1

Vũ Quang Việt, 2006


1


sự phát triển khơng có kiểm sốt của hệ thống các trường cao đẳng và đại học,
thì các quyết định đầu tư giáo dục đại học là rất quan trọng cả ở việc phát triển
của mỗi cá nhân cũng như là phát triển thị trường giáo dục hướng tới sự phát
triển nhân lực cho đất nước. Do vậy, đề tài khoa học “Nghiên cứu các yếu tố
tác động tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học trong các hộ gia
đình ở Việt Nam” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao
hiệu quả đầu tư xã hội cũng như đầu tư của cá nhân cho việc học tập hiện nay
ở Việt Nam. Đối với các trường đại học và viện nghiên cứu, đề tài sẽ là một tài
liệu tham khảo hữu ích, bổ sung thêm vào giáo trình giảng dạy các mơn kinh tế
học vi mô liên quan tới các hành vi của cá nhân, kinh tế công liên quan tới các
quyết định đầu tư phát triển chính sách.
2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan
2.1. Ngồi nước
Trong cuốn sách đạt giải Nobel của nhà kinh tế Gary S. Becker
“Human capital: Theorical and empirical analysis, with special reference
to education” (Chicago, IL, University of Chicago Press, 1994) , người đầu
tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu vốn nhân lực hiện đại từ những năm 60
của thế kỷ XX đã khẳng định giáo dục là một trong những hoạt động làm tăng
năng suất của mỗi cá nhân đòi hỏi những chi phí trực tiếp cho giáo dục (học
phí, sách vở, và nhà cửa) và những thu nhập bị bỏ qua trong quá trình học tập.
Theo Gary S.Becker, cha mẹ sẽ đầu tư giáo dục cho con cái khi họ sẵn sàng bỏ
qua tiêu dùng của bản thân và dành phần tài chính đó cho việc học của con cái
và về bản chất đầu tư này sẽ được tính tốn về mặt kinh tế cho bản thân cá
nhân đứa trẻ đó và lợi ích xã hội cho đứa trẻ. Ở từng gia đình, có rất nhiều các
yếu tố tác động tới mức đầu tư giáo dục, bao gồm địa vị kinh tế xã hội của gia
đình (ví dụ như thu nhập của hộ và trình độ giáo dục của cha mẹ), khả năng

của đứa trẻ trong theo đuổi việc học và lợi ích kinh tế và xã hội đạt được.
Nghiên cứu này của Gary S.Becker đã đạt nền móng cho những nghiên cứu về

2


mối quan hệ giữa đầu tư giáo dục với thu nhập và các yếu tố khác của các nhà
nghiên cứu sau này cũng như việc tính tốn lợi tức giáo dục của Jacob Mincer.
Trong cuốn “Schooling, Experience, and Earnings” của Jacob
A.Mincer xuất bản năm 1974, giới thiệu về phân phối và cấu trúc thu nhập của
người lao động từ việc đầu tư vốn nhân lực. Khái niệm cơ bản được giới thiệu ở
đây là hàm thu nhập với 02 phân phối cơ bản là thu nhập và đầu tư vốn nhân
lực. Cuốn sách gồm phần: Phần 1 là những phân tích lý thuyết về mối quan hệ
giữa đầu tư vốn nhân lực và thu nhập. Phần này gồm 02 chương: Chương 1
phân tích mối quan hệ giữa đầu tư vốn nhân lực và thu nhập ở cấp độ cá nhân từ
đó hình thành hàm thu nhập cá nhân. Chương 2 mở rộng phân tích chéo giữa các
cá nhân về mức phân phối thu nhập giữa các cá nhân có sự khác biệt trong đầu
tư vốn nhân lực với kinh nghiệm việc làm của họ sau khi tốt nghiệp. Phần 2 của
cuốn sách là những phân tích thực chứng về thu nhập của các cá nhân theo dân
tộc, khu vực sinh sống và những người không theo đuổi việc học theo tổng mẫu
của cuộc Tổng điều tra dân số năm 1960 ở Mỹ. Phần này gồm 05 chương trong
đó chương 3 áp dụng mơ hình số năm đi học “schooling model” để giới hạn việc
đầu tư vốn nhân lực và có thể lượng hóa được mức đầu tư vốn nhân lực. Jacob
A.Mincer đã đặt nền móng cho việc lượng hóa mức đầu tư vốn nhân lực thơng
qua việc lượng hóa số năm đi học nhằm tính tốn mức đầu tư và lợi tức giáo dục
từ việc đầu tư vốn nhân lực mang lại
Trong cuốn sách “Modern Labor Economics: Theory and Public
policy” của Ronald G.Ehrenberg và Robert S.Smith (2003) dựa trên lý
thuyết về đầu tư vốn nhân lực giải thích các yếu tố tác động tới đầu tư giáo dục
là yếu tố làm tăng vốn nhân lực. Quyết định đầu tư cho giáo dục và đào tạo của

người lao động hiện tại được thực hiện do thu nhập kỳ vọng trong tương lai
mang lại. Cuốn sách cũng phân tích cầu về giáo dục đại học ở Mỹ từ thập niên
70 đến thập niên 90. Số liệu cho thấy, mức lương trung bình của cơng nhân
làm việc tồn thời gian tăng cùng với trình độ giáo dục của họ. Tuổi và thu
nhập của người lao động có xu hướng khác biệt, theo đó, thu nhập theo trình
3


độ giáo dục của người lao động khác nhau, cụ thể là càng về sau càng tăng so
với lúc đầu quyết định đầu tư học đại học.
Nghiên cứu của Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ (U.S Bureau of
Labor Statistic) về “Invesment in higher education by race and
ethnicity” tháng 3/2014 sử dụng số liệu vi mô điều tra chi tiêu tiêu dùng ở
Hoa Kỳ tính tốn các khoản chi tiêu cho giáo dục theo chủng tộc và sắc tộc.
Kết quả cho thấy sự khác biệt trong đầu tư phát sinh theo 02 yếu tố (1) là sự
khác biệt trong việc học đại học và (2) các giả thuyết về cho tiêu giáo dục.
Khi các gia đình quyết định đầu tư cho con cái theo học đại học, hầu như
khơng có sự khác biệt về mức chi tiêu giữa các nhóm chủng tộc và sắc tộc.
Như vậy, việc đầu tư giáo dục cho con cái có sự giốn nhau ở tất cả các chủng
tộc, từ người phương Tây đến người phương Đơng, chỉ có phương thức và
cách thức đầu tư là có sự khác biệt.
Nghiên cứu “Assests, parental expectation and invovlment, and
children’s educational performance” của Min Zhan, 2006 sử dụng số liệu
Điều tra quốc gia về những người trẻ (NLSY79) cho thấy sau khi kiểm soát
các biến thu nhập của gia đình và các điểm khác của bố mẹ thì quan điểm phát
triển, kỳ vọng của cha mẹ, địa vị gia đình là các nhân tố quyết định đầu tư cho
giáo dục của cha mẹ với con cái.
Nghiên cứu “Parental educational expectation by race/ethnicity and
socioeconomic status” của Youngmi Kim, Michael Sherraden và Margaret
Clancy (2012) kiểm định kỳ vọng giáo dục ở những bà mẹ mới sinh con sử

dụng mẫu đại diện quốc gia. Sử dụng hồi quy logistic cho toàn bộ mẫu và cho
từng nhóm chủng tộ để điều tra kỳ vọng giáo dục của cha mẹ theo chủng tộc và
theo người Mỹ gốc La tinh (Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha). Kết quả cho thấy,
những người Mỹ da trắng không phải gốc La tinh kỳ vọng nhiều vào giáo dục
bậc cao với con cái mình so với những gia đình Mỹ gốc Phi, Mỹ gốc Ấn và
người Mỹ gốc Latinh. Tuy nhiên, khi kiểm soát các yếu tố về địa lý và kinh tế,
xã hội thì sự khác biệt về chủng tộc này khơng cịn nữa. Về yếu tố kinh tế, tài
4


sản và mức bao phủ bảo hiểm y tế có ý nghĩa tích cực với kỳ vọng giáo dục
của cha mẹ.
2.2. Trong nước
Hiện các nghiên cứu trong nước về các yếu tố tác động tới quyết định
đầu tư giáo dục bậc đại học cho con cái ở Việt Nam không nhiều, chủ yếu mới
được nhìn nhận dưới góc độ tâm lý học và giáo dục học cũng như mới chỉ tập
trung ở mức giáo dục chung hoặc giáo dục phổ thông. Một số các nghiên cứu
mới chỉ dừng ở từng địa phương, vùng miền, chưa có tính tổng thể.
Về phạm vi nghiên cứu: Đa số các nghiên cứu đã có chủ yếu sử dụng số
liệu sơ cấp và thứ cấp từ các cuộc điều tra sẵn có của Tổng cục Thống kê, do
vậy phạm vi nghiên cứu được lựa chọn chủ yếu theo khu vực phân tổ của Tổng
cục Thống kê (Hà, Tùng, 2014; Long, 2014; Dũng, Thông, 2014). Bên cạnh
đó, đã có một số nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực địa tại một số địa
phương có điều kiện kinh tế khó khăn hoặc một số địa phương cụ thể để tiến
hành phân tích (Trà, 2007; Actionaid, 2010; Hoa và cộng sự, 2014; Hùng,
2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu được tiến hành khảo sát với quy mô mẫu
nhỏ, lựa chọn địa điểm đặc thù do vậy không đảm bảo được tính suy rộng của
nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hồi cứu tư liệu, nghiên cứu
định tính, nghiên cứu định lượng, thống kê mô tả là những phương pháp

nghiên cứu phổ biến được các tác giả sử dụng trong các phân tích của mình.
Việc sử dụng một số mơ hình định lượng phân tích cịn khá ít, tuy nhiên trong
thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu đã dần tiếp cận với hướng phân tích sử
dụng các mơ hình định lượng như là cơng cụ để kiểm định cho các kết quả
nghiên cứu. Mơ hình Tobit - phương pháp hồi quy kiểm duyệt được sử dụng để
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của người dân (Dũng,
Thông, 2014).
Về nội dung nghiên cứu: Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các nội
dung sau:
5


(1) Thực trạng đầu tư giáo dục của bố mẹ cho con cái trong các hộ gia
đình ở Việt Nam
Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010 cho thấy mỗi hộ
gia đình bình quân hàng năm dành khoảng 6% trong tổng chi tiêu đời sống
của hộ gia đình cho giáo dục và đào tạo (Hoa và cộng sự, 2014). Nghiên cứu
về chi phí khơng chính thức của hộ gia đình trong giáo dục tại Việt Nam (Cơ
quan Phát triển Bỉ, IRC, 2011) chỉ ra nếu một hộ có hai học sinh theo học cấp
cơ sở, thì tổng chi phí dành cho giáo dục trung bình chiếm 30% tổng thu nhập
của hộ. Ngoài ra, Đặng Hải Anh (2007) cũng tìm thấy sự ảnh hưởng lớn của
chi phí học thêm đến tổng chi tiêu trong gia đình và ngày càng tăng cao ở các
cấp cao hơn.
Sự biến đổi trong nhận thức của người dân không chỉ ở chỗ đầu tư nhiều
hơn về chi phí cho học tập của con cái mà bên cạnh đó họ đã bỏ ra nhiều thời
gian cũng như công sức hơn để chăm lo, đơn đốc, kiểm sốt, định hướng việc
học của con cái (Trà, 2007). Nhiều bậc cha mẹ luôn muốn dành nhiều thời gian
cho việc học tập của con cái, tuy nhiên, do điều kiện gia đình, khác biệt về
trình độ của bố mẹ, văn hóa, vùng miền cho nên sự đầu tư về mặt tinh thần cho
giáo dục của con cái của các hộ gia đình cũng có sự khác biệt (mức độ đầu tư ở

thành thị cao hơn vùng nông thơn, những gia đình có điều kiện tốt hơn, cha mẹ
có trình độ học vấn cao có mức đầu tư cũng cao hơn).
(2) Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư giáo dục cho con cái: Đặc
tính, điều kiện kinh tế gia đình; các yếu tố vật chất (mạng lưới trường lớp, cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy…); các yếu tố phi vật chất (đội
ngũ cán bộ, giáo viên, chương trình giảng dạy, chi phí đóng góp…)
Các nghiên cứu trước đây (Thơng, 2008; Tansel, 2005) cho thấy nếu cha
mẹ có trình độ học vấn càng cao thì mức độ ảnh hưởng đến việc học của con
cái họ sẽ nhiều hơn. Khi trình độ học vấn của cha mẹ cao hơn, trẻ em có xác
suất đi học cao hơn (Sơn và cộng sự, 2001; Phương, 2004; Trà, 2008; ). Trình
độ học vấn của bố mẹ là yếu tố tác động mạnh nhất đến tình trạng giáo dục của
6


con cái trong các gia đình nơng thơn (Học vấn của bố mẹ có thể tác động đến
tình trạng giáo dục của con cái thông qua các yếu tố trung gian như sự quan
tâm đến việc học của con, cho con học thêm, thái độ và hành vi hướng nghiệp
cho con, cho con tham gia công việc sản xuất hay mức chi tiêu cho giáo dục).
Hộ gia đình có trình độ học vấn càng cao thì chi tiêu cho giáo dục càng nhiều
(Dũng, Thông, 2014; Phương, 2004; Trà, 2008).
Tuổi chủ hộ càng cao thì mức chi tiêu cho giáo dục càng nhiều trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tuy nhiên, mức chi tiêu này chỉ tăng đến
mức cực đại, sau đó sẽ giảm xuống. Điều này có thể được giải thích vì khi chủ
hộ cịn trẻ, họ sẽ nhận thức được tầm quan trọng của việc học, do đó, sẽ đầu tư
cho con cái nhiều hơn (Dũng, Thơng, 2014).
Khi thu nhập của hộ gia đình tăng lên thì mức chi cho giáo dục cũng
tăng thêm, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi (Dũng, Thông, 2014).
Yếu tố này được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây (Anh, 2007; Tasel,
2005). Một số nghiên cứu sử dụng số liệu từ những cuộc điều tra quy mô lớn
cho thấy, trẻ em trong những gia đình có mức sống cao hơn có tỉ lệ nhập học

cũng cao hơn. Các nghiên cứu đều có một điểm chung khi đề cập chi phí gián
tiếp và chi phí cơ hội là hai yếu tố cản trở việc tiếp tục đi học của học sinh
trong những gia đình có mức sống thấp hơn (Long, 2014). Chi phí trực tiếp mà
phụ huynh phải trả cho giáo dục vượt quá khả năng tài chính của những gia
đình nghèo và gây cản trở cho việc đi học (Hoa, 2014).
Sự khác biệt về vùng miền cũng được thể hiện trong quyết định đầu tư
giáo dục của cha mẹ cho con cái được phản ánh trong một số nghiên cứu. Tỉ
lệ nhập học thấp hơn ở nhóm dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, nông thôn là
do các chi phí cơ hội và chi phí tiền mặt cao hơn và thiếu nhận thức phù hợp
về giáo dục (ADB, 2002). Rào cản về khoảng cách không hề giảm đi như
mong muốn mà thậm chí cịn tăng lên (Actionaid, 2010). Tỉ lệ đi học trung
học cơ sở và các cấp học cao hơn là thấp hơn tại các vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa và giảm dần theo các vùng từ Bắc vào Nam, từ đồng bằng lên
7


miền núi là do thói quen, truyền thống, tâm lý và tập quán (Chuyên và cộng
sự, 1999; Đạt, 2011).
Về hạn chế nghiên cứu: Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghiên
cứu chung về đầu tư của hộ gia đình, chưa có phân tách cụ thể ở các cấp học.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ
đại học cho con cái trong các hộ gia đình ở Việt Nam
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố quyết định đầu tư giáo dục trong các
hộ gia đình ở Việt Nam.
- Mục tiêu: Xác định các yếu tố quyết định đầu tư giáo dục trình độ
đại học
- Phạm vi nghiên cứu: Hộ gia đình Việt Nam trong bộ số liệu điều tra
VHLSS từ 2002 tới 2014 và Bộ điều tra số liệu đầu tư giáo dục cho con cái của

Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp kế thừa: Thu thập tài liệu, tổng quan nghiên cứu về đầu
tư giáo dục của cha mẹ cho con cái.
- Phương pháp định lượng: đo lường các yếu tố tác động tới quyết định
đầu tư giáo dục cho con cái trong các hộ gia đình Việt Nam thơng qua bộ số
liệu điều tra mức sống hộ gia đình VHLSS và bộ số liệu điều tra hộ gia đình
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2016.
6. Kết cấu báo cáo nghiên cứu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết về đầu tư giáo dục
Chương 2: Thực trạng đầu tư giáo dục trình độ đại học trong các hộ gia
đình ở Việt Nam
Chương 3: Kết luận và kiến nghị

8


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ GIÁO DỤC
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm giáo dục và đầu tư
Khái niệm giáo dục: Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học tập,
mà theo đó, những kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo,
hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể đến cách thức người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động, đều có thể
được xem là có tính giáo dục.
Giáo dục cịn có thể được coi là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm

tác động tới đối tượng được giáo dục theo những yêu cầu của xã hội trong
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng, giáo dục là tồn bộ tác động của gia đình, nhà
trường, xã hội, bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác đến con
người.
- Theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình tác động đến thế hệ trẻ một
cách toàn diện về mọi mặt (tư tưởng, đạo đức, hành vi,...).
Giáo dục gia đình là sự giáo dục được thực hiện trong phạm vi gia đình,
do các thế hệ trước thực hiện, nhằm tác động tới thế hệ sau với mục đích hình
thành và củng cố trong thế hệ sau những phẩm chất, năng lực phù hợp với
quan điểm của thế hệ trước cũng như phù hợp với hệ chuẩn mực của xã hội.
Đây là một hoạt động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có sự
chuẩn bị...) của những người giáo dục (thế hệ trước), tác động một cách
thường xuyên, liên tục tới đối tượng được giáo dục (hế hệ sau), nhằm đạt tới
mục đích mà người giáo dục đã định.
9


Như vậy, có thể hiểu: Giáo dục gia đình là những hoạt động tự giác
(có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch, có sự chuẩn bị...) của thế hệ trước,
tác động đến thế hệ sau, nhằm hình thành ở thế hệ sau những phẩm chất,
những giá trị và kỹ năng… theo mong muốn của thế hệ trước và theo yêu cầu
của xã hội.
Khái niệm đầu tư: Đầu tư, theo nghĩa rộng được hiểu là “sự hy sinh các
nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà
đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
có được các kết quả đó”. Các nguồn lực được huy động vào đầu tư có thể là tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, vốn, công nghệ. Các kết quả thu được ở đây
có thể là lợi ích kinh tế xã hội (thể hiện ở lợi ích mà toàn xã hội đạt được từ

việc đầu tư như tăng trưởng kinh tế nhờ tăng năng suất lao động, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân và sự phát triển của từng cá nhân trong xã hội,
nâng cao trình độ dân trí,...) hay lợi ích tài chính (thể hiện ở lợi nhuận mà nhà
đầu tư thu được từ việc đầu tư).
1.1.2. Khái niệm đầu tư giáo dục
Trên thế giới, từ những năm 30 của thế kỷ XX, các học giả bắt đầu đưa
khái niệm đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và gọi là đầu tư giáo dục2. Đầu tư cho
giáo dục được hiểu từ phía Nhà nước, tư nhân, hộ gia đình và cá nhân người học.
Nhà nước đầu tư cho giáo dục sẽ mang lại nguồn nhân lực cho xã hội;
Hộ gia đình đầu tư cho giáo dục kỳ vọng cho cá nhân sẽ thu thập được kỹ
năng, trình độ để nâng cao vốn nhân lực của bản thân. Nguồn vốn nhân lực này
được đo lường bằng mức lợi tức giáo dục mang lại (ROR). Theo cách tính tốn
của Ngân hàng Thế giới thì đầu tư cho giáo dục tiểu học tỷ lệ thu hồi vốn là
24% so với vốn đầu tư, cho trung học là 17%, và cao đẳng đại học là 14%,
trong khi đó đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồi chỉ đạt 13%
tổng vốn đầu tư;

2

Trần Quốc Toản, 2013

10


1.1.3. Khái niệm chi tiêu giáo dục
Chi phí trực tiếp: Chi phí trực tiếp cho giáo dục bao gồm học phí và các
khoản lệ phí khác, chi mua sắm sách giáo khoa, vở và đồ dùng học tập, chi cho
đi lại và lưu trú (nếu học ở xa nhà), chi mua đồng phục và đóng góp các quỹ
khác ở nhà trường,...
Chi phí gián tiếp hay cịn gọi là chi phí cơ hội của giáo dục: được xác

định trên cơ sở đặt giả thiết: Điều gì sẽ xảy ra nếu việc đầu tư cho giáo dục
ĐƯỢC/hay KHÔNG ĐƯỢC tiến hành. Nếu khơng đi học, người học và gia
đình có thể dành thời gian và chi phí của mình cho việc đi chơi, đi làm, hoặc
đầu tư cho các hoạt động khác. Giá trị của cơ hội lớn nhất mất đi khi quyết
định đầu tư cho hoạt động giáo dục sẽ cho phép ta tính tốn chi phí gián tiếp
(chi phí cơ hội) của giáo dục.
1.1.4. Các yếu tố tác động tới đầu tư giáo dục
Ở trong bất cứ một hoàn cảnh nào, hoạt động đầu tư bao giờ cũng được
kỳ vọng sẽ đem lại lợi nhuận. Do vậy, gia đình và cá nhân đầu tư vào giáo dục
cũng kỳ vọng tăng năng lực cá nhân nhằm tăng cơ hội phát triển và tồn tại
trong xã hội. Vì đầu tư giáo dục ở góc độ cá nhân sẽ làm tăng vốn nhân lực cho
bản thân cá nhân đó, đồng thời cũng làm tăng vốn nhân lực cho toàn xã hội.
Đầu tư giáo dục của hộ gia đình chỉ có hiệu quả nếu thu nhập kỳ vọng đạt được
sau khi học và đi làm bù đắp được khoản chi phí cho học tập trước đó (bao
gồm chi phí trực tiếp và gián tiếp).
Đầu tư giáo dục của hộ gia đình xuất phát từ mơi trường giáo dục gia
đình. Về tổng thể, chức năng giáo dục của gia đình được hình thành một cách
có ý thức, có nghĩa là ơng bà, cha mẹ và những người lớn trong gia đình đã
từng bước hình thành một mơi trường giáo dục gia đình. Mơi trường giáo dục
gia đình được hình thành rất khác nhau, phụ thuộc vào truyền thống gia đình,
điều kiện kinh tế, bề dày văn hóa, đạo đức, trình độ tri thức của các thành viên
trong gia đình nhất là cha mẹ, và định hướng phát triển của mỗi gia đình. Vì

11


vậy, các quyết định ảnh hưởng tới đầu tư giáo dục của hộ gia đình phụ thuộc
rất nhiều vào mơi trường giáo dục của gia đình đó.
1.2. Lý thuyết về đầu tư giáo dục
1.2.1. Lý thuyết vốn nhân lực

Có nhiều khái niệm về vốn con người hay còn gọi là vốn nhân lực
(human capital). Theo K.Marx, sức lao động với với tồn bộ năng lực, thể lực,
trí lực ở một khía cạnh nào đó được coi là vốn con người; Theo Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD) vốn nhân lực là kiến thức, kỹ năng, năng lực
và những thuộc tính tiềm tàng trong mỗi cá nhân; theo Becker (1964) vốn nhân
lực là sự kết hợp không thể tách rời kiến thức, kỹ năng, sức khỏe của một cá
thể, là một của cải tư, mang đến lợi tức cho người có vốn đó; theo Mc.Connell,
Brue và Macpherson, vốn con người là sự tích lũy trước đó vào giáo dục, đào
tạo, sức khỏe và những nhân tố khác để làm tăng năng suất lao động; theo giáo
trình Kinh tế nhân lực của Đại học kinh tế quốc dân, vốn nhân lực là tập hợp
các kiến thức, khả năng, kỹ năng mà con người tích lũy được (Thành, 2014)3.
Khoa học về vốn nhân lực được đặt ra từ thế kỷ XVIII khi Adam Smith
viết tác phẩm “Sự thịnh vượng của các quốc gia” (The wealth of nations –
1776). A.Smith tin rằng “mỗi con người đều chính thức bị thúc động bởi tư lợi
mà điển hình là lịng ham muốn của cải. Các động lực ích kỷ là căn cốt của các
hành động của con người. Sự ích kỷ của cá nhân đã đem đến lợi ích xã hội, nếu
mỗi con người cố gắng làm lợi cho chính mình một cách đều đặn, khơng
ngừng thì sẽ dẫn đến sự thịnh vượng của quốc gia”.
Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại cho rằng “tất cả các hành vi của con
người đều xuất phát từ những nhu cầu lợi ích kinh tế cho chính các cá nhân
hoạt động tự do trong thị trường mang tính cạnh tranh. Nội dung chính của lý
thuyết cho rằng các cá nhân đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhằm tích lũy
những khả năng và kiến thức (một phần vốn nhân lực), những cái có thể mang

3

Thái Phúc Thành (2014). Vai trò của vốn con người trong giảm nghèo bền vững. Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội.

12



lại lợi ích lâu dài sau đó. Sự đầu tư này mang lại lợi ích kinh tế quốc dân và
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế4.
Lý thuyết vốn nhân lực nhấn mạnh đến khái niệm các cá nhân là những
người đầu tư. Lý thuyết này cho rằng các cá nhân sẽ đầu tư vào giáo dục để
kiếm được lợi ích cao hơn vào những năm sau khi học. Sự đầu tư này bao gồm
các chi phí học tập và việc mất thu nhập trong ngắn hạn do dành thời gian cho
việc đi học, tuy nhiên, nhà đầu tư hy vọng sẽ kiếm được thu nhập cao hơn
trong tương lai.
Vốn nhân lực có các đặc điểm như sau:
(1) Thứ nhất, vốn con người không thể chuyển nhượng, mua bán, hoặc
thế chấp.
(2) Thứ hai, mỗi cá nhân đầu tư cho việc học hành mong muốn đạt được
nhiều lợi ích hơn khi tham gia vào thị trường lao động. Tuy nhiên, lợi ích đạt
được trong tương lai phụ thuộc nhiều vào nữ lực của các cá nhân trên thị
trường lao động. Những nỗ lực này không được đảm bảo nên đầu tư vốn con
người mang tính rủi ro cao. Thêm nữa, tính rủi ro của đầutư cho giáo dục cịn
xuất phát từ tính không thể điều chỉnh được của việc đầu tư cho giáo dục, do
đầu tư cho giáo dục có đỗ trễ rất lớn. Ví dụ, một người đầu tư cho việc đi học
đại học mất 4 năm, nhưng khi ra trường thấy thu nhập của mình thấp thì hầu
như khơng thể đi học lại để trở thành một bác sỹ.
(3) Thứ ba, vốn nhân lực không làm cho người sở hữu nó trở thành nhà
tư bản. Ngoại trừ việc người lao động tự làm việc (self-employed) thì người sở
hữu vốn nhân lực sẽ trở thành người làm công ăn lương.
Vốn nhân lực được tích lũy qua 3 giai đoạn chính trong đời người, đó là:
(1) giai đoạn ban sơ (do bẩm sinh hoặc tiếp nhận, chủ yếu là ở nhà), (2) giai
đoạn giáo dục chính quy; và (3) giai đoạn đào tạo trong công việc (on-the-jobtraining). Việc nghiên cứu và đo lường kết quả trên thị trường lao động từ vốn

Trần Lê Hữu Nghĩa (2010). Đôi điểu về lý thuyết vốn nhân lực trong mối quan hệ với giáo dục và vốn xã hội. Bản tin Đại
học quốc gia Hà Nội.

4

13


nhân lực được tích lũy trong giai đoạn giáo dục chính quy được nghiên cứu
nhiều nhất do các yếu tố vốn con người lúc này dễ đo đạt nhất.
1.2.2. Lý thuyết đầu tư vốn nhân lực
Vốn nhân lực được hình thành thông qua việc đầu tư cho người lao động,
bao gồm các khoản đầu tư cho giáo dục, đầu tư đào tạo nghề, chăm sóc sức khỏe
và các khoản phúc lợi xã hội khác. Đầu tư vốn nhân lực là hoạt động ảnh hưởng
tới thu nhập thực tương lai thông qua các nguồn lực. Với các phương thức đầu tư
khác nhau thì có sự khác nhau về ảnh hưởng tương đối tới thu nhập và tiêu dùng,
về nguồn lực đầu tư, về quy mơ hồn trả và trong liên hệ giữa việc đầu tư và mức
độ hoàn trả. Tuy nhiên, tất cả nhưng phương thức đầu tư nhằm cải thiện khả năng
vật chất và trí tuệ của con người đều làm tăng thu nhập thực tế trong tương lai5.
Lý thuyết đầu tư vốn nhân lực của Gary Becker (1964) chỉ ra các phương
thức đầu tư vào vốn nhân lực bao gồm đi học, đào tạo trong cơng việc, chăm sóc
y tế, và các phúc lợi xã hội khác. Giống như các hình thức đầu tư khác, đầu tư
vốn nhân lực cũng bao gồm các chi phí phát sinh trong ngắn hạn và kỳ vọng lợi
nhuận/lợi tức tích lũy trong tương lai. Các chi phí đầu tư vốn nhân lực có thể chia
thành 3 loại: (1) Chi phí trực tiếp, bao gồm học phí, các khoản chi tiêu cho sách
vở và các khoản chi khác; (2) chí phí gián tiếp: tăng lên vì trong thời gian đầu tư
thường khơng thể làm việc, ít nhất là khơng làm việc hồn tồn; (3) những tổn
thất về tinh thần xuất hiện vì việc học thường là khó và khơng hấp dẫn.
Trong trường hợp đầu tư cho giáo dục và đào tạo, lợi tức kỳ vọng là mức
thu nhập cao hơn trong tương lại, làm tăng thỏa dụng nghề nghiệp trong suốt
thời gian lao động, và làm gia tăng những hoạt động phi thị trường và lợi ích6.
Đầu tư vốn nhân lực qua giáo dục và đào tạo được đo lường bằng theo 3
thước đo: bẩm sinh, giáo dục chính quy (thể hiện qua trình độ học vấn) và giáo

dục trong công viẹc (thể hiện qua kỹ năng nghề nghiệp của người lao động tích
lũy trong q trình lao động). Cũng giống như việc tính toán thực hiện các dự
5

Gary S.Becker(1962). Investment in human capital: A theoretical analysis. The journal of political economy .Vol 70,
Issue 5, Part 2: Investment in Human beings (Oct.1962), 9-49
6 Ronald G. Ehrenberg and Robert S. Smith (2003).“Modern Labor Economics: Theory and Public Policy”. Eight edition.
International edition. Pearson Education, Inc. (p. 265)

14


án đầu tư, trong trường hợp đầu tư cho giáo dục, các cá nhân cân nhắc dựa trên
các tính tốn chi phí và lợi ích của việc đi học. Nếu lợi ích của việc đi học lớn
hơn chi phí thì đầu tư cho việc đi học là có hiệu quả. Việc phân tích chi phí –
lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục sẽ giúp đo lường các những hiệu ứng của
sự tăng lên trong lượng đầu tư vốn con người.
1.3. Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục ở một số quốc gia
1.3.1. Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục đại học ở Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, vai trò của bố mẹ trong việc định hướng giáo dục cho con
cái ngày càng thể hiện rõ thông qua sự tham gia của các bậc phụ huynh vào
giáo dục. Theo truyền thống, cha mẹ ở Hàn Quốc có vai trị quyết định trong
định hướng giáo dục cho con cái, thể hiện qua các khoản đầu tư tài chính cho
con cái tham gia các lớp học thêm, học phí, các hoạt động ngoại khóa, và các
chi phí trường học khác. Các hộ gia đình Hàn Quốc có xu hướng chi tiêu nhiều
cho giáo dục và các sản phẩm giáo dục so với thu nhập của hộ so với các nước
phát triển khác. Các số liệu cho thấy, tỷ lệ này chiếm khoảng 15% GNP và
khoảng 22% thu nhập của hộ. Một khảo sát năm 2006 cho thấy, trung bình một
hộ gia đình Hàn Quốc đầu tư khoảng từ 300-500USD/tháng chỉ riêng cho việc
học tiếng Anh của trẻ. Gần đây, các bậc cha mẹ ở Hàn Quốc tham gia vào Hội

phụ huynh thường xuyên tham gia và liên hệ, làm cầu nối giữa nhà trường và
phụ huynh. Theo Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (MEST), từ
năm 2010, một quy định mới đã tăng cường vai trò của cha mẹ vào việc tiếp
cận giáo dục cũng như tham gia vào các nhà trường. Vai trò này thể hiện qua
các chương trình giám sát trường học của phụ huynh Hàn Quốc. Các chương
trình giám sát trường học này được thiết kế để khuyến khích các bậc phụ
huynh hiểu hơn về tiến trình phát triển của trẻ ở trường, tăng cường nhận thức
của cha mẹ về các nguồn lực ở trường học và tình nguyện tham gia hoặc trở
thành một phần của Hội phụ huynh7.

7

Theo CIEB, 2012.

15


1.3.2. Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục đại học ở Nhật Bản
Nhật Bản là một nước phát triển và có hệ thống giáo dục được thế giới
đánh giá là một trong những hệ thống giáo dục thành công nhất ở chỗ: vừa
thực hiện được sự bình đẳng trong giáo dục, vừa đảm bảo được chất lượng
giáo dục cao, đặc biệt là hệ thống giáo dục tiểu học. Chính vì vậy mà chi phí
cho giáo dục khơng chỉ do cá nhân người học và gia đình họ phải gánh chịu,
mà được toàn xã hội chung tay gánh vác. Mặt khác, hiệu quả và tính cần thiết
của việc xã hội hóa đầu tư cho giáo dục đã được khối các nước phát triển
OECD đánh giá cao, sự quy hồi về mặt kinh tế của việc đầu tư cho giáo dục rất
lớn. Ví dụ, chi phí mà nhà nước bỏ ra để một người tốt nghiệp được đại học sẽ
được đền bù hơn gấp đôi với những giá trị về kinh tế mà người ấy khi đi làm
mang lại cho xã hội (thông qua tăng thuế thu nhập cá nhân, giảm chi phí gánh
nặng xã hội...), có nghĩa là, hiệu quả về kinh tế, xã hội của việc đầu tư cho giáo

dục là rất lớn.
Theo số liệu thống kê, chi phí cho giáo dục mà trung bình mỗi gia đình
Nhật Bản chi trả từ khi con cái họ vào học mẫu giáo tới khi tốt nghiệp đại học,
đối với trường đại học quốc lập là 10 triệu yên (tương đương khoảng 121 ngàn
đơ la Mỹ) (cịn mức chi này ở trường tư thục sẽ lên tới 23 triệu yên) (tương
đương 290.000 USD). Và mức chi tiêu này chiếm trên 50% tổng bình qn các
khoản thu nhập của một hộ gia đình có 02 con đi học trường tư thục (Sách
trắng giáo dục Nhật Bản, 2010). Như vậy, có thể thấy, chi phí cho giáo dục
chiếm một tỷ lệ lớn trong các khoản chi phí các hộ gia đình Nhật Bản. Đặc biệt
gánh nặng này ngày càng tăng lên khi con cái họ vào đại học, điều này thể hiện
rõ ở tỷ lệ tiền dự trữ của các hộ gia đình. Số liệu cho thấy, trong các hộ gia
đình có 1 con lẫn 2 con, đến giai đoạn đứa trẻ vào đại học thì số tiền dự trữ của
gia đình bắt đầu tụt xuống con số âm. Theo một cuộc điều tra năm 2009, ở các
hộ gia đình có một con, khi đứa trẻ 2 tuổi thì tiền dự trữ hàng năm của gia đình
vào khoảng từ 10,9 - 11,4% tổng thu nhập. Số tiền tiết kiệm tăng cao nhất khi
đứa trẻ là học sinh tiểu học, là 13,6% - 16,5%; giảm dần khi đứa trẻ học lên
16


cấp 2 và cấp ba: tức là từ 8,1 - 10,4% khi đứa trẻ học cấp 2, và giảm xuống chỉ
còn 0,2% khi đứa trẻ vào cấp 3; sụt giảm mạnh xuống đến -7,1 đến -10,4% khi
đứa trẻ vào đại học. Con số này cũng tương tự như ở các hộ gia đình có 2 con,
giảm xuống -7,8 đến -11,9% khi đứa trẻ học đại học. Những con số này chứng
tỏ một điều rằng, vào thời điểm đứa trẻ vào học đại học, thu nhập của gia đình
khơng đủ cho chi phí giáo dục, và ở những gia đình mà các khoản dự trữ từ
những năm trước đó khơng được dồi dào thì đứa trẻ sẽ phải đứng trước sự lựa
chọn: tiếp tục học lên hay đi làm. Điểm đặc biệt trong hệ thống giáo dục Nhật
Bản là người chi trả học phí khơng phải là bản thân các sinh viên, mà là phụ
huynh của họ, và vì vậy, khi con cái học lên bậc đại học và trên đại học, gánh
nặng chi phí giáo dục mà họ phải gánh chịu rất lớn, đồng thời, ở Nhật Bản, tỷ

lệ học sinh nhận được học bổng – là một công cụ hỗ trợ giảm gánh nặng giáo
dục – lại rất thấp, dù mức học phí cao. Điều này trái ngược với sự phân chia
của OECD. OECD chia các nước làm 02 nhóm, nhóm nước có học phí cao
nhưng có tỷ lệ học sinh được nhận học bổng cũng cao và nhóm thứ 2 là nhóm
nước có học phí thấp. Tuy nhiên, Nhật Bản khơng nằm ở trong hai nhóm này.
Mặc dù, trong giai đoạn giáo dục đặc biệt, trừ các trường tư thục thì học sinh
khơng phỉa chi trả học phí, tuy nhiên, gánh nặng về chi phí giáo dục ở các hộ
gia đình Nhật Bản vẫn là khá lớn.
1.3.3. Kinh nghiệm về định hướng giáo dục ở Hoa Kỳ
Mỹ là một trong những quốc gia phát triển nhất thế giới và có hệ thống
phúc lợi xã hội rất tốt. Giáo dục tiểu học và trung học tại các trường công lập
thường được nhà nước chi trả bằng ngân sách nhà nước. Do đó, khoản đầu tư
về mặt tài chính của các hộ gia đình đối với giáo dục của con cái trong gia đình
ở các cấp bậc này thường dành cho học phí tại các trường tư thục, sách vở và
các vật dụng cần thiết khác. Đối với những đứa trẻ trong độ tuổi học mẫu giáo,
đầu tư tài chính của gia đình dành cho việc giáo dục của con cái có thể được
thực hiện dưới các hình thức như: các chương trình chăm sóc trẻ, các chương
trình giáo dục sớm, hoặc các vật dụng như sách, đồ chơi, máy tính, hoặc các
17


lớp học năng khiếu về âm nhạc, nghệ thuật. Đối với những đứa trẻ trong độ
tuổi đi học, do học phí thường được chi trả từ ngân sách, đầu tư tài chính của
bố mẹ cho giáo dục của con cái đối với các đối tượng này thường dưới các
hình thức như các chương trình học thêm, gia sư, các hoạt động ngoại khóa
như các lớp học năng khiếu về âm nhạc, nghệ thuật, các chương trình trại hè,
các chuyến du lịch cùng gia đình hoặc trường học và đặc biệt là khoản đầu tư
cho cấp học cao đẳng, đại học. Mỗi hình thức đầu tư này sẽ có những tác động
khác nhau đến kết quả học tập của trẻ cũng như những thành tựu của trẻ trong
tương lai. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, các quyết định

đầu tư tài chính của gia đình đối với giáo dục của con cái chịu sự chi phối đáng
kể của mức thu nhập từ hộ gia đình8.
Định hướng giáo dục cho con cái thường xuất phát từ kỳ vọng của cha
mẹ đối với con cái mình. Tại Mỹ, định hướng giáo dục được cho là một yếu tố
khá quan trọng trong đầu tư giáo dục cho con cái. Nhiều gia đình ở tầng lớp
trung lưu và tầng lớp thượng lưu ngày nay xem việc chăm sóc có kế hoạch là
sự sắp xếp tốt nhất dành cho con cái của họ, thậm chí ngay từ lứa tuổi mầm
non (Hertz (1997, p. 376).

8

Ariel Kalil, Thomas Deleire. (2004) Family investments in children’s potential: resources and parenting
behaviors that promote success. Psychology Press.

18


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁO DỤC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC TRONG
CÁC HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
2.1. Tình hình phát triển giáo dục ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình phát triển giáo dục nói chung ở Việt Nam
Hơn 30 năm thực hiện đổi mới kinh tế - xã hội, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Tỷ
lệ người dân biết chữ tăng cao, đạt trên 95% - vào loại cao nhất thế giới, đồng
thời tỷ lệ tái mù thấp. Tỷ lệ trẻ em được đến lớp đúng độ tuổi tăng. Việt Nam
là một trong những nước đầu tiên hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỳ (DMG).
Một số thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo
Giáo dục mầm non : Năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề
án « phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi » với mục tiêu đảm bảo cho mọi trẻ 5 tuổi

đều được đi học mầm non.
Giáo dục phổ thông : Tách mô hình trường phổ thơng cơ sở (trường
gồm các lớp tiểu học và các lớp trung học cơ sở) thành trường tiểu học và
trường trung học cơ sở, đồng thời tách trường trung học (trường gòm các lớp
trung học cơ sở và các lớp trung học phổ thông) thành trường trung học cơ sở
và tăng trường trung học phổ thông để thống nhất với 3 cấp học là tiểu học,
trung học cở sở và trung học phổ thông.
Đào tạo đại học và cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề :
Thực hiện từng bước xã hội hóa giáo dục trong giáo dục và đào tạo đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đến thời điểm hiện nay, chỉ
có tỉnh Đăk Nơng là chưa có trường đại học, cao đẳng.
Kết quả thực hiện các chính sách giáo dục và đào tạo là cơ sở vật chất của
ngành giáo dục đã được củng cố, đội ngũ giáo viên được tăng cường nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển giáo dục và đào tạo. Từ năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành việc
phổ cập giáo dục tiểu học. Từ đó đến nay, Việt Nam tiếp tục duy trì phổ cập giáo
dục tiểu học và đồng thời nỗ lực nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học.
19


Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được cơng nhận chuẩn quốc gia về xóa
mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Chất
lượng phổ cập giáo dục tiểu học không ngừng được nâng cao. Mục tiêu không chỉ
là trẻ em hồn thành tiểu học mà cịn hồn thành đúng trong độ tuổi bậc tiểu học.
Đến năm 2009 tỷ lệ đi học đúng tuổi ở bậc tiểu học là 97%.
Tỷ lệ biết chữ trong dân số trong độ tuổi từ 10 tuổi trở lên tăng đáng kể
trong thập kỷ qua. Năm 2008, tỷ lệ biết chữ của dân số trong độ tuổi từ 10 tuổi
trở lên chung của cả nước là 93,1%, trong đó thành thị là 96,1%, nông thôn là
92%. Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 10 đến 40 tuổi năm 2008 là 96% và là như
nhau giữa nam và nữ9.
2.1.2. Tình hình phát triển giáo dục đại học nói riêng

Sự phát triển của hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo của Việt Nam có sự
thay đổi rõ nét trong đó có thể thấy sự gia tăng mạnh mẽ từ phía khu vực tư
nhân và các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước. Điều này thể hiện rõ quan
điểm phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà
nước cũng như việc thực hiện xã hội hóa loại hình dịch vụ đặc biệt này, đặc
biệt là ở khối cao đẳng và đại học.
Bảng 2.1: Số lượng các cơ sở cung ứng giáo dục và đào tạo trong hệ thống
giáo dục đào tạo Việt Nam giai đoạn 2007-2015
Mầm non

THCN

Cao đẳng- Đại học

2007- 2014- Tỷ lệ

2007-

2014-

Tỷ lệ 2007- 2014- Tỷ lệ 2007- 2014- Tỷ lệ

tăng

2008

2015

tăng


2008
Tổng số

THPT

2015

2008 2015 tăng 2008 2015

tăng

11,629 13,867

16.1 27,900 28,922

3.53

275

313 12.14

369

436 15.37

Công lập

5687 12,379

54.1 27,121 28,336


4.29

203

185 -9.73

305

348 12.36

Ngồi cơng lập

5,942

586 -32.94

72

128 43.75

64

88 27.27

1488 -299.3

779

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Niên giám thống kê Giáo dục và Đào tạo)

Tuy nhiên, phát triển giáo dục và đào tạo vẫn còn bộc lộ những hạn chế
như sau:
9

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010). Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.

20


×