Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tinh thần phật giáo trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 8 trang )

Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

118(04): 205 - 212

TINH THẦN PHẬT GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT ĐỘI GẠO LÊN CHÙA
CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN XUÂN KHÁNH
Phùng Phƣơng Nga1*, Lƣu Thị Hồng Vân1, Đoàn Đức Hải2
1

Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT
Nguyễn Xuân Khánh là nhà văn đƣơng đại có sự quan tâm đặc biệt đến Phật giáo. Một trong
những tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài này là tiểu thuyết Đội gạo lên chùa. Dấu ấn Phật giáo
trong tác phẩm không chỉ đƣợc ghi nhận bằng sự xuất hiện của ngƣời nhà Phật, của hình ảnh Phật,
ngơn từ đậm chất Phật, giáo lý nhà Phật qua từng câu chuyện mà hơn thế tác giả cịn có sự đối
thoại với tƣ tƣởng Phật giáo. Sự phối trộn nguồn sử liệu, truyền thuyết với sự hƣ cấu của tiểu
thuyết để tạo nên một cảm quan Phật giáo gần gũi, chân thực nhƣng cũng đầy nghệ thuật là một
thách thức lớn đã đƣợc Nguyễn Xn Khánh vƣợt ải thành cơng.
Từ khóa: Đội gạo lên chùa, Nguyễn Xuân Khánh, Phật giáo, vô minh.

Tƣ tƣởng Phật giáo chiếm giữ một vị trí quan
trọng trong nguồn chảy văn hóa Việt. Suốt
nhiều thế kỉ qua, tinh thần nhà Phật đã ăn sâu
vào tâm thức mỗi ngƣời dân Việt và ngày
càng bắt rễ sâu vào đời sống của dân tộc, trở
thành nguồn động lực và an ủi tâm hồn con
ngƣời trƣớc những khổ đau. Với văn học Việt
Nam, Phật giáo không chỉ là đề tài mà cịn là


chủ đề của các sáng tác. Dù vậy, khơng phải
ngƣời nghệ sỹ nào cũng đủ trí lực, tầm vóc,
niềm tin và cơ duyên để có thể “hành hƣơng”
trên cánh đồng văn chƣơng bằng tinh thần
Phật giáo. Trong số những sự se duyên ít ỏi,
nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết
Đội gạo lên chùa là một trƣờng hợp đặc biệt.
Ngay từ tên tác phẩm đã toát lên màu sắc nghi
thức Phật giáo, đó là hành động thể hiện niềm
tin, sự biết ơn của con ngƣời ở nơi cửa Phật,
gắn liền với lối sống nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam. Đặc biệt trong Đội gạo lên chùa,
bên cạnh các triết lí, sự suy ngẫm, đánh giá về
nỗi khổ đau của con ngƣời trong kiếp nhân
sinh đƣợc đề cập tới thì tinh thần nhập thế
Phật giáo Thiền tông và Tịnh độ tông đƣợc
thể hiện sắc nét.*
Đời ngƣời là cõi vô thƣờng.
"Trước đây và ngày nay ta chỉ lí giải và nêu
ra cái chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thốt
khỏi nỗi đau khổ"."Cũng như nước đại dương
chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có
một vị là cứu vớt". ( Phật Thích Ca).
*

Tel: 0915 141514, Email:

Con ngƣời khi sinh ra vốn đã mang trong
mình mầm mống của cái khổ, Theo Phật, con
ngƣời có tám nỗi khổ (bát khổ). Vì đau khổ

khơng thể giải thốt đƣợc khỏi nó mà con
ngƣời tìm đến tơn giáo, mong đƣợc sự an ủi
cho tâm hồn vơi bớt nỗi đau, tạm quên đi
phong ba của trần thế, rũ bỏ bụi trần dơ bẩn,
gột sạch tâm hồn, mong muốn có cuộc sống
ổn định, yên tĩnh. Nhƣng mấy ai hiểu đƣợc
nguyên nhân khiến cho "đời là bể khổ". Mà
mọi nỗi khổ của con ngƣời đều bắt nguồn từ
vơ minh, từ lịng ham muốn, từ sự si mê, từ
thù hận. Hiểu đƣợc nguồn cơn của nỗi khổ thì
mới mong đạt đạo, mới mong đƣợc giải thoát
khỏi trần ai.
Đội gạo lên chùa đƣợc nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh viết bằng sự chiêm nghiệm 79
năm sống trên cõi nhân gian và cơ duyên với
Phật pháp. Bằng vốn am hiểu Phật giáo của
mình, mở đầu tiểu thuyết Đội gạo lên chùa
ông đã đề cập ngay đến nỗi khổ đau của con
ngƣời giữa kiếp vô thƣờng. Mà điều đặc biệt
ở đây ông đặt con ngƣời với nỗi khổ đau ở
ngay bối cảnh thời loạn lạc, thời "mạt pháp",
lúc cái ác lên ngôi làm cho con ngƣời điêu
đứng lâm vào đƣờng cùng của sự bế tắc: "Con
cắn cỏ van xin cụ mở lòng từ bi cho chị em
con đƣợc nƣơng nhờ cửa Phật. Chị em con đã
đến bƣớc đƣờng cùng". Sƣ cụ thở dài. Cụ mở
mắt nhìn khn mặt đẫm lệ của cơ con gái,
rồi lại nhìn khn mặt trái xoan với đôi mắt
sáng u buồn sâu thẳm và nƣớc da xanh của
cậu bé An, cụ hiểu nỗi đau đớn của hai sinh

205


Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

linh bé bỏng này thật là to lớn, nỗi sợ hãi họ
vừa trải qua cũng khủng khiếp vô cùng."
[3,17]. Cái thở dài của ngƣời nhìn thấy rõ
nguồn cơn của mọi khổ đau mà con ngƣời
phải gánh chịu bởi lẽ "con ngƣời sinh ra là
thế. Ai cũng khổ [3,661].
Cái khổ do vô minh. Trong Đội gạo lên chùa
ngay cả anh Tây lai Barnarrd Matinot - một
anh chàng bị "da vàng hóa", cũng bị rơi vào
cảnh tâm lý lƣỡng phân, "Ngƣời ta giải thích
rằng: Khi một ngƣời lính đi xâm chiếm phối
kết với một ngƣời đàn bà thuộc địa, thì đứa
con sinh ra là một bãi chiến trƣờng cho cuộc
chiến tranh chấp giữa dịng máu nội và dịng
máu ngoại. Nếu phía ngƣời mẹ thắng, ngƣời
con sẽ đứng về phía ngoại. Nhiều ngƣời lai đã
trở thành những chiến sĩ chống thực dân kiên
quyết nhất. Nếu phía ngƣời cha giành giật
đƣợc, đứa con sẽ trở thành kẻ chống đối lại
bầu sữa đã nuôi nấng nó một cách điên cuồng.
Hắn cố phủ nhận ngƣời mẹ. Và để lấy lịng
ngƣời cha, hắn sẽ khơng từ một thủ đoạn nào.
Hắn ghê tởm dòng máu ngƣời mẹ mà hắn

mang trong huyết quản. Hắn cực kì nguy
hiểm, bởi vì hắn từ lòng mẹ chui ra, hắn đã
thuộc lòng những gì thuộc về ngƣời mẹ.
Barnard thuộc trƣờng hợp này. Phải nói rằng
có lúc hắn đã ngả về phía ngƣời mẹ. Nhƣng rồi
hoàn cảnh chiến tranh đƣa đẩy, hắn đã chối từ
phía mẹ và đi về phía ngƣời cha. Chối từ bằng
những lí lẽ biện minh đàng hồng" [3,70].
Do tâm lý lƣỡng phân kết hợp với những chấn
thƣơng sâu sắc, hắn mang vào cuộc chiến nỗi
hận thù tàn khốc của kẻ từng chịu những chấn
thƣơng nặng nề về tâm lý. Nỗi hận thù đó bắt
rễ từ chính lịng tham sân: Cuộc cách mạng
tháng Tám thành công làm tan nát trong
Barnard niềm kiêu hãnh của kẻ chinh phục.
Từ chính sự si mê, si mê cái vô thƣờng, cái
vốn không tồn tại mãi mãi làm dấy lên trong
con ngƣời ta sự ân hận. Từ sự chấp trƣớc vào
cái vô thƣờng và bản ngã. Con ngƣời ta sinh
ra rồi mất đi, mọi vật đều chịu tác động của
quy luật sinh – lão - bệnh - tử, sinh - trụ, dị diệt. Vì cái chết của ngƣời mẹ và ngƣời cậu
của viên sĩ quan đã làm cho sự thù hận của
hắn càng lúc càng sâu sắc, "sự thù hận có tính
lây lan". "Bà Thu chết, Barnard nghĩ dù bà
206

118(04): 205 - 212

không chết trực tiếp vì tay Việt Minh, nhƣng
Việt Minh phải chịu trách nhiệm gián tiếp.

Bởi vì khơng có cái chết của ơng lý Cẩm, thì
bà Thu khơng héo hon đi nhƣ thế. Cái chết
của ngƣời cậu và ngƣời mẹ trở thành cái hận
thứ ba trong lịng viên trung úy phịng nhì"
[3,66]. "Đức Phật bảo sân hận là một trong
những nguyên nhân tạo thành đau khổ thế
gian. Hận thù nối tiếp hận thù muôn đời mn
kiếp khơng tan. Cái vịng luẩn quẩn nhƣ thế
chẳng bao giờ dứt" [3,615].
Cái sự thù hận của Barnard nó đã bị đầy lên
tột đỉnh và bộc lộ rõ qua quan niệm sống "kẻ
nào nhân đạo, kẻ ấy đang tự sát" [3,45]. Và
minh chứng cho sự hung bạo thảm khốc ấy là
những hình ảnh tàn sát dã man, kinh hồng
biểu lộ rõ qua hành động của hắn.
Nỗi khổ đau của con ngƣời nó mn hình vạn
trạng. Con ngƣời ta đau khổ bởi vơ minh,
lịng tham, sự thù hận, sự si mê. Nhƣng thế
chƣa đủ, con ngƣời còn đau khổ bởi vơ
thường. Đức Phật dạy rằng: "Chẳng có gì
sinh ra, chẳng có gị mất đi. Gặp dun thì tụ
thì sinh. Hết sinh thì tán thì diệt" [3,552].
Nhƣng con ngƣời khơng hiểu nó, cứ chấp
trƣớc vào nó bởi vậy vơ thƣờng nó chi phối
kiếp nhân sinh nhƣ một định luật chung của
sinh tồn. Quy luật ấy đƣợc tác giả phác họa rõ
nét chính ở số phận của con ngƣời trong chiến
tranh. Nguyệt và An phút chốc mất hết cha
mẹ, nhà cửa phải lƣu lạc đến ở ngôi chùa. Bà
vãi Thầm trở thành ngƣời phụ nữ bơ vơ, điên

điên dại dại ngay sau cái đêm chồng bà chết
giữa đồng. Bà Thu đang có cuộc đời hạnh
phúc bỗng rơi vào khổ đau khi chồng tử trận.
Khoan Độ là tay giang hồ nhƣng sau khi vợ
hắn bị rắn cắn chết hắn trở thành ông sƣ
nguyện cả đời đi theo và bảo vệ Phật pháp.
Trong ngày vui của lễ đính hơn Nguyệt vẫn
ln bị ám ảnh bởi lời nói của mẹ.: " Đời
ngƣời con gái chỉ nhƣ hạt mƣa sa... Chớ thấy
hanh vàng đã tƣởng nắng to. Cái vui chƣa tan,
cái buồn đã tới" [3,160].
Rồi trong cải cách ruộng đất, những gia đình
bình lặng bỗng lâm cảnh vợ ngồi ghế quan tòa
kết tội chồng, con phải chứng kiển cảnh mẹ tố
tội và kết án cha, một chủ tịch xã hết lịng vì
dân phải chốn chạy và bị chết giữa sông


Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

Hồng. Một cô gái xinh đẹp, trong trắng nhƣ
Rêu phải nhảy xuống giếng tự vẫn... Tất cả
các hình ảnh trên minh chứng cho quy luật
vơ thƣờng. Cũng chính sự nhận thức đƣợc cái
vô thƣờng mà nhân vật trong Đội gạo lên
chùa ln mang trong mình sự bất an khi
sống giữa cõi nhân gian.
Nghiệp duyên mối giải thoát đời ngƣời.

Đạo Phật chủ trƣơng rằng, đời sống của con
ngƣời cũng nhƣ của tất cả mọi sự vật hiện
tƣợng (vạn pháp) đều không phải do một
đấng sáng thế nào sinh ra tất cả đều theo
Nhân - Duyên mà thành. Nhân là cái hạt, cái
cốt lõi để sinh ra sự vật hiện tƣợng. Duyên là
những thứ liên quan đến, tƣơng trợ đến để
cho Nhân có thể trổ Quả. Dân gian có câu
"Gieo Nhân nào, gặt Quả nấy". Gieo Nhân tốt
đẹp thì đƣợc hƣởng quả báo tốt, gieo Nhân
xấu thì đƣợc quả báo xấu. Nhân tốt, xấu do
chính con ngƣời tạo ra bằng Nghiệp. Cũng do
vậy, điều làm nên sự khác biệt của con ngƣời
Nghiệp mà họ mang lấy.
Daisetz Teitaro Suzuki viết: "Tất cả chúng
sinh đều có tƣ sản là Nghiệp của mình, chúng
là những kẻ thừa tự của Nghiệp, chúng sinh ra
từ Nghiệp. Nghiệp là nơi trú ẩn của chúng,
Nghiệp ban cho chúng sinh sự sang hay hèn"
[10,292] Thiền Phật giáo (Zen Buddhist) cho
rằng muốn đạt đến Niết bàn (Nirvana) con
ngƣời phải tự giải thốt cho mình khỏi những
vơ minh và thốt khỏi Nghiệp mà mình đã
gieo. Tƣ tƣởng này đƣợc Nguyễn Xuân
Khánh thể hiện một cách sâu sắc trong tác
phẩm Đội gạo lên chùa thơng qua các nhân
vật của mình.
"Con chớ ăn nói báng bổ nhƣ vậy. Chẳng qua
là nghiệp chƣớng. Kiếp trƣớc, mẹ đã làm
nhiều tội ác. Cả cha con cũng vậy. Khơng chỉ

có cậu, mẹ cịn lo cả cho con.” [3,65]. Bà lo
sợ con mình rồi cũng nhƣ ngƣời cha, ngƣời
cậu bởi vì họ gieo nhân ác nên gặp quả ác.
Cũng chính cái nhân dun của kiếp trƣớc nó
cịn tồn tại sang đến cả kiếp sau lên bà Thu
phải gánh chịu cái Nghiệp chƣớng do mình
tạo ra khơng thể giải thốt đƣợc.
Hay nhƣ nhân vật Nguyệt và Hạ. Ngƣời ta
bảo kiếp trƣớc Nguyệt là một anh chàng thƣ

118(04): 205 - 212

sinh lấy cơ vợ xấu xí, sau khi thi đậu đi học
xa. Ngƣời vợ ở nhà làm nghề giết lợn để
chồng ăn học, sau bị ngƣời chồng phản bội
nên cô ta mới theo anh đến kiếp này địi nợ:
"Kiếp này cơ ta là đàn ông. Cả đứa con trong
bụng cô ta cũng sang kiếp này địi nợ. Kiếp
trƣớc, để ni chàng nho sĩ, cơ gái xấu xí kia
làm nghề giết lợn. Cho nên sang kiếp này, cô
ta vẫn không đƣợc hƣởng phúc. Lại vẫn là
con ngƣời có tƣớng mạo dữ tợn xấu xí"
[3,335]. Nhƣ vậy, cũng do gieo Nhân từ kiếp
trƣớc và do duyên nghiệp mà sang đến kiếp
này Nguyệt lấy Hạ làm chồng.
Thiền sƣ Vơ là ngƣời có dun với cửa
Phật, nguyện cắt tóc đi tu khơng phải với nỗi
chán đời mà ông rất yêu thƣơng trần thế, ông
yêu thƣơng trần thế đến xót xa. Ơng hiểu thấu
Nghiệp, nên trong suốt cuộc đời tu hành ông

vẫn phải gánh hết cái Nghiệp của mình. Ơng
khơng sợ Nghiệp mà ngƣợc lại ơng quyết làm
trọn Nghiệp của mình để đƣợc giải thốt. Cái
Nghiệp của ông là "Phải giữ chùa vào thời
loạn lạc, phải chịu gánh nhiều tai nạn"
[3,190]. Nhiều lần ông bị chính quyền thực
dân dọa nạt, cƣỡng ép, bị bắt vào trại giam, bị
tra tấn nhƣng ông không than phiền, không sợ
hãi. Đứng trƣớc những tình cảnh nhƣ thế ơng
chỉ một cách ứng xử duy nhất là niệm Phật:
"Bị đánh đau, sƣ cụ kêu to nhƣng hết đánh lại
niệm Phật" [3, tr.189]. Ơng tin rằng mình sẽ
vƣợt qua cái Nghiệp ấy và giữ vững đƣợc
chùa làng qua cơn bão tố. Ông biết rằng: "trốn
nghiệp khơng bao giờ thốt nghiệp, con ngƣời
ta chỉ thoát nghiệp khi làm trọn nghiệp". Hiểu
đƣợc vậy nên thầy vẫn giữ vững niềm tin:
"Cái nghiệp của thầy là vậy. Thầy cịn phải
chịu đựng nhƣng khơng sao. Thầy biết, rồi
thầy sẽ khỏi" [3,247]. Sự chịu đựng, nhẫn nại
đó nó hun đúc ý chí, luyện tính khí nhƣ
Suzuki nhận xét: "Thiền, trƣớc hết, là một tôn
giáo nhƣng cũng là một nghệ thuật luyện tánh
khí" [11,27].
"Giữa ngƣời mê và ngƣời ngộ, Nghiệp tác
động không giống nhau. Ngƣời mê coi
Nghiệp là tai ách, gặp hồn cảnh khó khăn
đau khổ, họ buồn tủi, than vãn. Cịn với ngƣời
ngộ, khi đã vơ phân biệt giữa khách và ta,
207



Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

giữa ngồi và trong, họ biết mình vẫn có
Nghiệp nhƣ ai, nhƣng không cảm thấy Nghiệp
là nặng. Ngộ không hề có nghĩa là vứt bỏ
Nghiệp, mà là vơ ngại đối với Nghiệp" [3,253].
Theo nhƣ trong giáo lý Đại thừa, cái Nghiệp
của sƣ cụ Vô Úy là "cộng nghiệp" tức là cái
Nghiệp chung của cả kiếp ngƣời rộng lớn, sƣ
cụ nguyện hi sinh bảo vệ cho "pháp" (vạn
vật). Thầy nhƣ một vị Bồ tát sống ngay giữa
thế gian này để cứu độ cho chúng sinh. "Đối
với ta, khi niệm Phật, lòng sân hận trong ta sẽ
khơng dấy động, cịn đối với kẻ kia, ta cũng
cầu mong cho họ đừng nhúng tay vào cái ác
để tránh nghiệp quả" [3,248]. Với thầy "mỗi
khó khăn ở đời là một bƣớc để ta tôi rèn, để đi
đến gần Đạo hơn" [3,607].
Thiền Tông là pháp môn tu tập căn bản và
chính thống của đạo Phật. Cốt lõi của Thiền
tơng là giác ngộ (sambodhi) và giải thốt.
Thiền sƣ D.T.Suzu ki trong bộ Thiền luận nổi
tiếng của mình nhận định: "Khơng Thiền
khơng có Ngộ, khơng Ngộ chẳng phải Thiền.
Ngộ là chữ đầu và chữ chót của quyển sách
thiền vậy" [10,276]. Và nhƣ vậy con ngƣời ta

ngộ đạo khi đã trả xong hết nghiệp trần gian
Thiền hay còn gọi là tĩnh lực, chủ trƣơng tập
trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Ngộ (Giác ngộ)
là hiểu rõ đạo lý, giải thích khoa học "ngộ là
ngộ bằng trí huệ và trí huệ phát ra từ ý chí - ý
chí muốn tự tri giác, và tự thực hiện trong
chính nó" [10, 159]. Giác ngộ là mục đích cao
nhất con ngƣời đạt đến, nhờ có tập trung trí
tuệ tìm ra chân lý của mn vật thì con ngƣời
mới hiểu và giải quyết vấn đề và "Ngộ có thể
định nghĩa là một trực giác phóng thẳng vào
bản thể của mn vật, khác với sự hiểu biết
bằng phân tách, bằng lí luận... Hễ ngộ rồi thì
mn vật quanh ta sẽ hiện ra dƣới một quan
điểm hoàn toàn mới lạ chẳng ngờ" [3,276].
Phật giáo Thiền Tông chủ trƣơng "giáo ngoại
biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật". Thiền Tông luôn chủ
trƣơng tự lực, không dựa vào tha lực. Để giác
ngộ con ngƣời phải dựa vào lực của bản thân
mình. Thiền sƣ Thích Vơ Úy dạy: "Ngƣời tu
Phật phải thấu hiểu rằng muốn tìm đƣợc con
đƣờng Phật đạo, ta khơng đƣợc dựa vào bất
cứ ai. Ta phải dựa vào chính bản thân mình"
208

118(04): 205 - 212

[3,772]. "Trên đƣờng đời dài dằng dặc, một
ngƣời con của Phật hay một con ngƣời cũng

vậy, đều phải biết tự đi bằng đơi chân của
mình... phải biết độc hành con ạ... (..)Muốn
tìm đƣợc đạo phải biết độc hành. Khơng có ai
tìm hộ cho con đâu. Bản thân trải qua cảnh
khổ, chính lúc ấy ta mới hiểu thế nào là khổ
đế" [3,598]. Chính lối sống thiền này đã làm
nên đặc điểm văn hóa riêng của Phật giáo
Thiền Tông là "bất ly thế gian" nhƣng lúc nào
cũng phải giữ cho bên trong tâm bất loạn, bên
ngoài tâm ly tƣớng (thiền định) bởi đã "là
ngƣời chân tu phải lúc nào cũng tu. Đi cũng
thiền. Ăn cũng thiền. Uống cũng thiền. Nói
cũng thiền. Từng giây từng phút đều thiền"
[3,25]. Nhờ thiền mà khi con ngƣời ta "gặp
nghịch cảnh chẳng oán hận. Gặp thuận chiều
chẳng vui mừng. Ngƣời thiền, khi vui cũng
thiền, khi đau khổ cũng thiền" [3,583].
Khi ngƣời tu hành đã đạt đến Giác Ngộ thì họ
đã đƣợc giải thốt khỏi những khổ đau, vô
thƣờng của thế gian mà đến cảnh giới Niết
bàn. Khơng giống nhƣ cách nói trong các
kinh, lục Phật giáo, ở đó, Phật pháp là một
chân lí hiển nhiên, và ngôn ngữ chỉ là một sự
gợi ý. Ở đó, ngƣời ta nói nhiều bằng vơ ngơn,
lời viết ra chỉ là điểm gợi ý, một điểm kích
thích để sự giác ngộ đột nhiên bùng nổ. Phật
giáo Thiền tông chủ trƣơng "bất ly thế gian"
tìm Niết bàn ngay giữa cõi nhân gian này, nó
làm nên một nét đặc sắc riêng của Phật giáo.
Điều này thể hiện qua những lời dạy của sƣ

cụ Vô Úy: "Sống ở cõi nhân gian tức là sống
giữa những đau khổ. Không sợ hãi, mới tìm
đƣợc Niết bàn. Niết bàn chẳng ở đâu xa. Nó ở
ngay cõi trần gian này" [3,204]. Niết Bàn và
Địa Ngục nằm ngay trong cuộc đời này. Một
hành động từ bi, một giây chánh niệm, lập tức
Niết Bàn mở ra với ta. Còn trái lại, một phút
giây sau, ta lại sa hỏa ngục. Con ngƣời sống
giữa trần gian nhƣ một cuộc hành hƣơng tìm
đạo, Niết bàn là một chốn linh thiêng, và để
đến đƣợc chốn linh thiêng con ngƣời ta không
nên đi đƣờng thẳng mà phải đi đƣợc vòng. "Ý
nghĩa của cuộc hành hƣơng là để biến đổi sự
nhận biết tầm thƣờng của thế gian. Đừng sợ
gian khổ. Hành hƣơng càng gian khổ, càng
tốt, ý nghĩa của hành hƣơng là ý nghĩa của
con ngƣời đi tìm đạo ở trần gian. Ngƣời đi


Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

đƣờng thẳng ít tới đƣợc chốn thiêng. Đi
đƣờng vịng sẽ gặp nhiều nghịch cảnh. Hãy
dùng nghịch cảnh để biến thành sức mạnh và
thành đạt tinh thần" [3,270]. Vậy nên đừng đi
tìm Phật ở đâu xa, hãy trải nghiêm thực tế và
tri giác nó, đừng quá chấp vào sách vở "tu
đạo mà sách vở quá nhiều, chấp trƣớc vào

sách vở quá mức thì càng lúc càng xa đạo"
[3,333]. Đức Phật ở giữa cõi đời và trong
chính mỗi ngƣời, do vậy, ngƣời tu đạo hãy
hòa nhập vào cuộc sống trần thế bằng chính
cái tâm tự tại của mình "trực chỉ tại tâm, kiến
tính thành Phật".
Tinh thần nhập thế - đƣờng đi tìm đạo
giữa trần gian
Thiền Tông là sản phẩm Trung Hoa tinh chế
ra từ giáo lý Giác Ngộ. Tƣ tƣởng Phật giáo
Ấn Độ hết sức siêu hình khơng phù hợp với
óc thực tiễn của Trung Hoa nên họ đã phát
triển và biến đổi tƣ tƣởng ấy sao cho nó phù
hợp với thực tiễn hơn nên ngƣời ta sáng tạo ra
Thiền Tông. Khi Thiền Tông truyền bá vào
Việt Nam lại tiếp tục biến đổi đặc biệt vào
thời Trần. Năm 1299 vua Trần Nhân Tơng đã
hợp nhất các dịng thiền ở Việt Nam lập lên
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và trở thành
dòng thiền của riêng Việt Nam." Phật giáo
Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập uy tín,
tinh thần của nó là uy tín tinh thần quốc gia
Đại Việt. Nó là xƣơng sống của một nền văn
hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy
có tiếp nhận những ảnh hƣởng của Phật giáo
Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng nhƣng vẫn
giữ cá tính đặc biệt của mình" và tiếp tục phát
triển cho đến nay. Trong Đội gạo lên chùa
"cá tính đặc biệt" ấy đƣợc tác giả Nguyễn
Xuân Khánh kiến giải một cách sâu sắc khi

ơng đặt nó trong bối cảnh Phật giáo suy vi,
đất nƣớc trong thời kì "mạt pháp". Các nhân
vật cảm mến đạo Phật, xuất gia đƣợc giác ngộ
giáo lý un thâm của Phật rồi lại nhập thế
hịa mình vào cuộc đấu tranh bảo vệ đất nƣớc
khẳng định tinh thần dân tộc, gắn đạo với đời,
đạo là vì đời...
Thời Lý, thời Trần, dân ta ai cũng theo đạo
Phật. Năm trăm năm thờ Phật, nên trong hồn
ngƣời Việt, ai cũng có hạt giống Phật. Trải
qua nhà Hồ rồi hai chục năm lệ thuộc nhà

118(04): 205 - 212

Minh, đạo Phật đã phơi pha ít nhiều. Đến đời
nhà Lê, các vua đề cao đạo Nho. Các vua nhà
Lê không ai nhắc đến đạo Phật, vì nhắc đến
đạo Phật là nhắc đến đức Trần Nhân Tông - vị
vua đã chiến thắng quân Nguyên, chiến thắng
lừng lẫy, rồi lại tự mình xây dựng lên Thiền
Phái Trúc Lâm làm rạng rỡ văn hóa Việt. Các
vua Lê sợ dân nhớ đến nhà Trần, nên mặc cho
chùa để hoang. Đạo phải có lúc hiện lúc ẩn.
Thuận thì hiện, khơng thuận thì ẩn. Tuy
nhiên, ẩn chứ khơng dứt. Đạo vẫn ở trong
nhân gian" [3,92]. Điều khiến cho đạo Phật
luôn luôn tồn tại trong suốt bao nhiêu thế kỉ
qua của dân tộc chính là nhờ sức hấp dẫn của
nó. Sức hấp dẫn đó đƣợc biểu hiện ở tính tùy
dun lạc đạo (ngƣời tu phải bất ly thế gian,

tùy duyên ở cảnh đời nào cũng vui với đạo).
Đạo Phật ở Việt Nam từ xƣa tới nay, luôn
luôn đồng hành với dân tộc. Nƣớc thịnh thì
đạo Phật thịnh. Nƣớc suy đạo Phật cũng suy
theo. Trong bối cảnh đất nƣớc bị thực dân
Pháp xâm lƣợc, chúng thi hành chính sách
khai hóa văn minh, tiêu diệt cộng sản, áp bức
ngƣời vô tội bằng những hành động vô cùng
độc ác...Và nhà sƣ cũng phải biết cầm súng,
biết cầm đao. Đạo Phật tồn tại trong hồn
cảnh suy vi ấy, với tính tùy dun và tƣ tƣởng
cứu vớt, giải thoát con ngƣời khỏi khổ đau
bộc lộ rõ tinh thần dân tộc Đại Việt. Tinh thần
ấy đƣợc Nguyễn Xuân Khánh tái hiện và kiến
giải sâu sắc tiêu biểu qua hai nhân vật An, sƣ
thúc Vô Trần. Cuộc đời họ là cuộc hành
hƣơng đi tìm đạo giữa trần gian trong thời
mạt pháp.
Là một cậu bé mới lên chín tuổi, mồ côi cha
mẹ sau một trận càn dữ dội của giặc Pháp,
phiêu bạt đến ngơi chùa Sọ, nhờ có duyên với
nhà Phật mà An đƣợc sƣ cụ Vô Úy đón nhận
và cƣu mang. An tự nguyện xuất gia trở thành
một chú tiểu ngày đêm học tập gõ mõ, tụng
kinh. Sau cải cách ruộng đất lại trở thành một
anh bộ đội, xuất ngũ anh còn lấy vợ. Cũng
nhƣ thế, sƣ thúc Vô Trần là ngƣời thông
minh, lanh lợi, hoan hỉ xuất gia, nhƣng rồi lại
lấy vợ và trở thành nhà cách mạng. Trong
thời đại mới này, "dù là sƣ, vẫn là cơng dân

của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Mà
đã là cơng dân thì ai cũng có quyền lợi và
nghĩa vụ cơng dân. Quyền lợi tức là có quyền
209


Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

bình đẳng trƣớc pháp luật, có quyền làm
ngƣời, quyền bầu cử v.v... cịn nghĩa vụ cơng
dân, đã là ngƣời cơng dân, ai ai cũng phải có
nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc" [3,641]. Nhƣ vậy,
đạo Phật không chỉ dạy con ngƣời ta tƣ tƣởng
mang tính lý thuyết mà phải biết tùy duyên
lạc đạo, làm cho tƣ tƣởng Phật trở nên thực
tiễn hơn, phù hợp với tâm lý con ngƣời Việt.
Đạo là tất cả những gì làm cho con ngƣời ta
bớt đau khổ. Đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
đem lại hịa bình, độc lập, tự do cho dân tộc
cũng là một cách tu đạo ở đời.
An đang là nhà sƣ, bỗng nhiên trở thành
ngƣời lính. Ngạc nhiên ở chỗ ngƣời tu hành
lấy đức từ bi làm cơ bản, thậm chí thƣơng xót
đến cả sinh mạng của con sâu cái kiến; cịn
ngƣời lính lấy sự tiêu diệt kẻ thù làm cơ bản,
ai đứng trƣớc mũi súng chống lại ta đều bị
giết, bất kể kẻ đó thế nào. Đức Phật dạy con
ngƣời ta đức từ bi, không đƣợc sát sinh nhƣng

trong điều kiện chiến tranh chống lại bạo lực
ngay cả đức Trần Nhân Tông, Phật Hoàng
cũng đã phải hai lần chống quân Nguyên, đã
hai lần nhúng tay vào máu quân thù. Nhƣng
sau khi giặc tan... Có sao đâu... hai bàn tay
nhúng máu lại sạch tinh, ngƣời lại là đệ nhất
tổ thiền phái Trúc Lâm. Cháu ơi! Ngƣời ta gọi
đó là sát sinh cần thiết... [3,783]. Sùng bái bạo
lực, cuồng tín giết ngƣời, hành hạ con ngƣời
là có tội. Nhƣng ngƣợc lại bất bạo động cũng
là cuồng tín. Khoanh tay để cho đồ tể lên
ngơi, tự do giết ngƣời cũng là tội lỗi. Nhà
chùa cấm khơng đƣợc ăn thịt cá... Đó là phạm
giới sát sinh. Nhƣng khi gặp sƣ cụ Vô Úy bị
kiết lỵ tƣởng chừng không thể cứu vãn nhờ
bát nƣớc xuýt, bát nƣớc vật chất váng mỡ ấy
mà thầy coi trở về với cuộc đời. Trải qua
những khó khăn giúp An hiểu thêm nghĩa của
tùy duyên. "Nếu tốt đẹp, ta chẳng nên chấp
trƣớc một điều gì". Tùy duyên nhƣng phải giữ
đƣợc hai chữ lạc đạo.
Về sƣ Vô Trần, qua nhân vật này, bên cạnh
tinh thần tùy dun nhập thế cịn bộc lộ tính
nhập tục. Ơng là một đệ tử tục gia, làm chính
ủy, lấy vợ, rồi lại làm sƣ. Trong thời hiện đại,
cách mạng cũng muốn giải quyết nỗi đau khổ
của con ngƣời. Và chính nó cũng tạo ra sự
hấp dẫn của cách mạng. Vì thế, cách mạng
210


118(04): 205 - 212

gần giống nhƣ một tôn giáo. Phật giáo không
ép buộc con ngƣời ta khi đã xuất gia thì phải
ở chùa, giữ giới. Chỉ cần con ngƣời ta có tâm
"Phật dạy cho con ngƣời trí tuệ để giải thốt
nỗi khổ thế gian. Nếu chƣa đủ căn duyên để ở
chùa, thì ta làm ngƣời thƣờng dân cũng tốt.
Chỉ cốt lòng phải hƣớng thiện..." [3,356].
Phật giáo rất coi trọng cái tâm của con ngƣời,
nếu khơng có đủ duyên lành với nhà Phật để ở
chùa, thì sống ở đời cũng đƣợc, chỉ cốt có cái
tâm. Tâm là Phật. Tu ở đời mà không để cho
tâm bị dao động thì đó mới là Thiền, và chính
lúc đó bản thân mới trở thành kẻ chân tu. Con
ngƣời sống ở đời phải có cái Tâm và biết xem
trọng cái Tâm. Để hiểu đƣợc một ngƣời "ta
khơng nên bao giờ nhìn bề ngồi của con
ngƣời mà hấp tấp xét đốn. Nhà Phật có phép
xem tƣớng gọi là tâm tƣớng. Khơng xem
tƣớng bề ngồi mà xem tâm con ngƣời. Tâm thế
nào thì hành động của con ngƣời nhƣ thế ấy.
Cái tâm tà, thì dù che giấu thế nào, cuối cùng
hành động cũng làm lộ ra cái tâm thật" [3,820].
Con ngƣời là một sinh vật tâm lý, rất dễ bị
kích động. Kiềm chế sự sân hận là rất khó. Âu
đó cũng là phép xử thế cần thiết ở đời.
Tứ vô lƣợng - lối sống tốt đẹp lành mạnh.
Phật giáo coi trọng từ bi. Ánh sáng từ bi của
đức Phật đem đến niềm tin, sự an ủi và nghị

lực sống cho con ngƣời trong những lúc tuyệt
vọng, đau khổ, bế tắc. Trong tiểu thuyết Đội
gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh, tinh thần Từ- Bi- Hỉ - Xả nhƣ một sợi
chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm. Biểu hiện qua
các hành động cụ thể của nhân vật và lời dạy
của sƣ cụ Vô Úy.
Con ngƣời ta, khi trông thấy sự độc ác, ai ai
cũng bất bình. Khi thấy ngƣời khác đau khổ,
ai ai cũng động lịng trắc ẩn, thƣơng xót.
Lịng trắc ẩn là bƣớc đầu của tâm từ bi. Tâm
từ bi ngƣời nào cũng có. Đạo Phật lấy tâm từ
bi làm gốc. Những tơn giáo lớn trên thế giới
nhƣ đạo Phật, đạo Thiên Chúa đều giảng lịng
từ bi, tình thƣơng. Chính tâm từ bi, tấm lịng
cao thƣợng sẵn có ở tất cả mọi ngƣời đều tạo
nên sự hấp dẫn của đạo Phật. Lẽ tất nhiên
giáo lý đạo Phật còn nhiều điều sâu sắc hấp
dẫn con ngƣời nhƣ tứ diệu đế, bát chánh đạo,
vô ngã, vơ thƣờng trung đạo v.v...nhƣng đó là


Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

điều đến sau. Bƣớc đầu tiên dẫn ngƣời ta đến
với Phật thơng thƣờng vẫn là sự hấp dẫn của
lịng từ bi" [3,373]. Cái cao thƣợng đó là cái
tâm của Phật.

"Tâm từ thƣơng yêu tất cả chúng sinh. Tâm bi
thƣơng xót những ngƣời đang gặp đau khổ.
Tâm hỉ cùng vui với những ngƣời đang có
điều vui, điều thành cơng. Ngƣời đạt đạo xa lạ
với lòng ghen ghét ganh tị. Tâm xả khơng
dính chấp tới những đƣợc thua ở đời khen
cũng khơng vui, chê cũng chẳng buồn. Dù cay
đắng hay ngọt bùi, dù sạch dù dở đều vẫn
thản nhiên. Đạt đƣợc bốn cái tâm cao thƣợng
ấy ta đã tiến đƣợc khá xa trên con đƣờng tu
tập" [3,74]. Chính lịng từ bi mà sƣ cụ cƣu
mang chị em An khi họ đến bƣớc đƣờng cùng
phải bỏ nhà, bỏ quê để trốn chạy, trong cái
hồn cảnh ấy ngƣời đã đón nhận và soi ánh
sáng của Đức Phật vào tâm hồn đau khổ, u
uất của những con ngƣời vừa phải hứng chịu
nỗi đau, sƣ cụ muốn dùng ánh sáng của tâm
từ để cứu vớt và gột rửa tâm hồn u ám của chị
em An. "Có gì con cứ nói từ từ. Con ạ. Đây là
chùa. Đây là nơi đất Phật" [3,11]. Sƣ cụ cho
họ niềm tin để nƣơng dựa vào Đức Phật "Phật
chẳng bỏ ai đâu, nhất là những ngƣời gặp
nạn" [3,31].
Cũng chính vì tâm từ mà sƣ cụ Vô Úy hiểu
đƣợc nỗi đau khắc khoải ám ảnh An, nó hằn
sâu trong lịng một vết thƣơng lớn khơng thể
xóa đi đƣợc. Thầy đã để An tự độc hành, độc
bộ, tự giải thốt mình ra khỏi nỗi khổ đau ấy.
Thầy để An tự do lang thang một mình. Và
trong một buổi chiều thanh vắng cơ đơn,

những giọt nƣớc mắt khô bấy lâu bỗng lăn dài
trên má, mặn chát. Cùng với những nƣớc mắt
hiếm hoi ấy những hình ảnh ghê rợn cậu
muốn qn đi nó, muốn khơng nhắc tới nữa
hiện ra. Tấm lòng từ bi cao cả của thầy thể
hiện qua lời dạy An dịu dàng và hiền hòa
"gần những ngƣời nhƣ thầy, điều ấy quá dễ.
Còn gần những ngƣời ghét ta, thậm chí muốn
giết ta, điều đó thực khó, nhƣng cũng là một
việc nên làm. Bởi vì trong họ cũng có Phật,
gặp thuận dun ơng Phật trong họ sẽ thức
dậy" [3,248]. Tâm từ của ngƣời Phật tử rải
đều khắp cho mọi chúng sinh. Cũng nhờ tâm
từ bi mà sƣ cụ tụng kinh, gõ mõ cho Vô Trần

118(04): 205 - 212

đào hầm bí mật trong chùa, ơng giúp đỡ cách
mạng ngay từ những ngày đầu... Không chỉ có
An và Nguyệt mà hầu hết tất cả nhân vật
trong Đội gạo lên chùa có ngƣời đến chùa vì
gặp nghịch cảnh, có ngƣời vì chán cảnh trần
thế ngơi chùa làng là nơi nâng niu, an ủi, trao
cho họ lòng từ bi, nghị lực và niềm tin để
sống. Bà nội của cụ Vô Úy, trong những ngày
chồng bị đày ra Côn Đảo, đã nƣơng nhờ ánh
sáng từ bi để có thêm nghị lực gìn giữ nề nếp
gia đình và giáo dục các cháu. Bà vãi Thầm
tìm đến chùa nhƣ một mái nhà che chở cho
tấm thân già yếu. Bà Thêu, tìm đến chùa khi

tình cảm với ơng chánh Long rạn vỡ, sau cái
chết của Rêu bà chăm đi chùa hơn. Cô Rêu
tìm ra sự kỳ diệu của ngơi chùa làng ngay lúc
đang nhỡn nhơ sung sƣớng. Bà Thu mẹ của
Barnard cũng tạo dựng nên cơ nghiệp nhờ
tấm lòng nhân từ của ni sƣ Diệu Tâm, bà tìm
đến chùa sau cái chết của em trai lý Cẩm,
thậm chí bà cịn lập am thờ Phật ngay trong
nhà rồi đêm ngày tụng kinh, gõ mõ...
Tâm từ có năng lực cảm hóa phi thƣờng.
Chúa sơn lâm cũng quy thuận trƣớc lòng
ngƣời. Khoan Độ một con ngƣời lúc nào cũng
nóng giận, bị ngƣời thân và bạn bè né tránh
đã đƣợc sƣ Vô Úy đem tâm từ bi của Đức
Phật xoa dịu nỗi đau và cảm hóa "kẻ đồ tể
buông dao trở thành Bồ tát" [3,321] và
nguyện cả đời bảo vệ Phật pháp.
Nhƣ vậy đủ để ta thấy đƣợc sự từ bi của Đức
Phật là vô biên. Khơng có từ bi, thế gian này
sẽ rơi vào mơng muội. Từ bi không phải chờ
ngƣời khác đem đến mà ta ln phải tìm Phật
trong bản thân ta. Thế gian ngày nay rất cần
đến cái tâm cao thƣợng. Có đƣợc cái vô ngã,
cái từ bi hỉ xả của Đức Phật thì mới mong thế
gian đƣợc an lành. Phật giáo là một lối sống.
Lối sống tốt đẹp lành mạnh nhất mà con đƣợc
biết. [3,333].
Phật giáo có vai trị rất lớn trong việc hình
thành nên tính cách con ngƣời Việt ơn hịa,
mềm dẻo, giàu lịng vị tha, hình thành sức

sống mãnh liệt ẩn ngầm trong mạch nguồn
văn hóa. Có thể nói những giá trị Phật giáo
đã đóng góp rất lớn vào việc hình thành tính
cách Việt. Điều đó đã đƣợc Phật giáo chủ
trƣơng, đời thƣờng ghi nhận, và đặc biệt thấm
211


Phùng Phƣơng Nga và Đtg

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

118(04): 205 - 212

5. Trần Đăng Sinh - Đào Đức Dỗn, (2007), Giáo
trình Tơn giáo học đại cương, Nxb. Đại học Sƣ phạm.
6. Trần Đình Sử (Chủ biên), (2011), Lí luận văn
học (Tập 2) Tác phẩm và thể loại văn học, Nxb.
Đại học Sƣ phạm.
7. Hà Văn Tấn, (2005), Đến với lịch sử văn hóa
Việt Nam, Nxb. Hội Nhà văn,.
8. Trần Ngọc Thêm, (2001), Tìm về bản sắc văn
hóa Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
9. Trần Quốc Vƣợng, (1997), Cơ sở Văn hóa Việt
Nam, Nxb. Đại học Quốc gia.
10. D.T.Suzuki, (2005), Thiền luận (quyển trung),
Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
11. D.T.Suzuki, (2005), Thiền luận (quyển
thƣợng), Nxb.Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Cơng Lý, (1998), Mối quan hệ giữa

Phật giáo và văn học, Tạp chí Nghiên cứu Phật
học - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, số 1.

đƣợm trong Đội gạo lên chùa của “lão mai
vàng” Nguyễn Xuân Khánh. Tác phẩm không
truyền đạo mà đạo cứ thấm đƣợm trong từng
chi tiết, tình huống, kết cấu truyện. Sự hài hòa
giữa Đạo – Đời và Nghệ thuật đã làm nên một
Đội gạo lên chùa hấp dẫn và sâu sắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên), (2012), Lịch sử
và văn hóa cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xn
Khánh , Nxb. Phụ nữ - Viện văn học.
2. Nguyễn Duy Hinh, (2007) Một số bài viết về
Tôn giáo học, Nxb. Khoa học xã hội.
3. Nguyễn Xuân Khánh, (2012) Đội gạo lên chùa
(Tiểu thuyết giải thƣởng hội nhà văn Việt Nam
2011), Nxb. Phụ nữ.
4. Vũ Dƣơng Ninh (Chủ biên), (2011), Lịch sử văn
minh thế giới, Nxb. Giáo dục Việt Nam.

SUMMARY

BUDDHA IN THE NOVEL “ ĐỘI GẠO LÊN CHÙA”
OF NGUYEN XUAN KHANH
Phung Phuong Nga1*, Luu Thi Hong Van1, Doan Duc Hai2
1

College of Science – TNU, 2Thai Nguyen University


NXK is a contemporary writer who pays great attention to Buddhism. One of his typical works on
this theme is the novel Đội gạo lên chùa. The influence of Buddhism in the novel is not only
reflected through the images of Buddhist practitioners, Buddha or Buddhist language styles and
Buddhist lessons but also through the dialogue between the author and Buddhist ideology.
Combining historical records, legends and fiction to create an intimate, sincere but artistic
apprehension of Buddhism is a challenge which NXK successfully overcomes.
Keywords: Nguyen Xuan Khanh, Buddha, Đội gạo lên chùa, Buddhism, imprint, ignorance

Ngày nhận bài:13/3/2014; Ngày phản biện:15/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/3/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh – Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên
*

Tel: 0915 141514, Email:

212



×