Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX nhìn từ phương diện nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.26 KB, 10 trang )

An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

THƠ NỮ NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Đặng Thị Ngọc Phượng1
1
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 10/07/2016
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
28/08/2016
Ngày chấp nhận đăng: 04/2017
Title:
Feminist poems in the early 20th
century through artistic
perspectives
Keywords:
Feminist poems, poetic genres,
lyrics, rhythms
Từ khóa:
Thơ nữ, thể thơ, ngơn ngữ,
giọng điệu

ABSTRACT
Feminist poems is an indispensable part among the Vietnamese poems. It is
clearly seen that the appearance of numerous female poets in the early 20th
century confirmed their contribution to the innovation of poem arts, including
poetic genres, lyrics, and rhythms. It is needed to do research on the works of
the female poets during the periods to reveal how Vietnamese spirits were
connected the society and could also start a new phase of life.


TÓM TẮT
Thơ nữ là một bộ phận không thể thiếu trong nền thơ ca dân tộc. Sự ra đời của
đội ngũ đông đảo các nhà thơ nữ những năm đầu thế kỷ XX khẳng định đóng
góp của họ về những đổi mới trên phương diện nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ,
giọng điệu. Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ giai đoạn này để thấy được tâm
hồn Việt đã gắn kết, khơi nguồn từ cuộc sống và mang hơi thở thời đại.

nhất, nhân vật chính của văn học. Nhà nghiên cứu
Mã Giang Lân lại cho rằng: “Mỗi thời đại, mỗi
giai đoạn lịch sử thường sử dụng những thể loại
thích hợp mà ở đấy chúng ta có thể thấy được sự
vận động trong tư duy sáng tạo của nhà thơ” (Mã
Giang Lân, 2005, tr. 19). Nhìn lại lịch sử thơ ca,
các thể thơ truyền thống của dân tộc ta là những
thể thơ được sử dụng phổ biến và làm cơ sở cho
sự ra đời của những thể Thơ mới sau này (từ năm
1932 trở đi).

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành quả của thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay
khơng thể khơng nhắc đến sự góp mặt của các cây
bút nữ qua từng thời kỳ. Tuy chưa có sự đơng đảo
về lực lượng sáng tác nhưng thành tựu của các nhà
thơ nữ trong những năm đầu thế kỷ XX là không
thể phủ nhận. Nghiên cứu thơ nữ giai đoạn này để
thấy được những đóng góp của họ về phương diện
nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là
một trong những cách tiếp cận văn học, có khả năng
tái hiện đúng và đa dạng diện mạo thơ nữ Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX.


Sang thế kỉ XX, q trình hiện đại hố văn học đã
làm cho văn học Việt Nam thay đổi một cách cơ
bản. Thể loại thơ ca ln có những yếu tố vận động,
biến đổi. Do đó, nó vừa có tính truyền thống, vừa
mang tính cách tân hiện đại. Thơ nữ cũng khơng
nằm ngồi những quy luật ấy.

2. NỘI DUNG
2.1 Thể thơ đa dạng
Mỗi thời kỳ văn học, thể loại có những phân định
và đặc trưng khác nhau; thể hiện thái độ, cách
nhìn nhận, cảm thụ về thế giới và con người. Đây
là nơi tích luỹ và đúc kết những giá trị nhận thức
thẩm mỹ về thế giới sáng tác của nhà thơ, nhà
văn. Theo Bakhtin, thể loại chính là nhân vật thứ

Thơ Đường luật vốn là thể thơ được sử dụng nhiều
nhất trong thơ trung đại, thể loại thơ đã sản sinh ra
nhiều thi tài ở Trung Quốc, Việt Nam... Đó cũng là
nền thơ có thi pháp riêng được quy định bởi thế giới
quan, nhân sinh quan và thẩm mỹ quan của thời đại
103


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

phong kiến Á Đơng. Thi pháp đó có nhiều đặc điểm
như sự tơn sùng thiên nhiên, tính quy phạm, tính ước
lệ, tính phi ngã. Những nữ sĩ đứng ở giai đoạn giao

thời như: Đạm Phương, Sương Nguyệt Anh sử
dụng hầu hết các thể thơ truyền thống như: tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú Đường luật, ngũ ngôn,
song thất lục bát, lục bát và từ khúc.

Ngồi thơ thất ngơn tứ tuyệt, thơ thất ngơn bát cú
của bà có phần đặc sắc, gợi tả tâm trạng của nhà
thơ trước cuộc đời. Các bài thơ Hồng hơn, Vịnh
đêm thu, Vịnh cảnh Ngũ Hành sơn tiêu biểu cho
lối thơ truyền thống, giàu chiêm nghiệm.
Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh
hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang
vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc.
Thơ của Ngân Giang gồm các thể: tứ tuyệt, lục bát,
Đường thi thất ngôn bát cú... Bài Xuân mong đợi,
Mười bài tâm sự... được dùng để ký thác niềm riêng
của tác giả. Thơ Đường luật thất ngôn bát cú là thể thơ
khó làm nhất nhưng với Ngân Giang bỗng trở nên “dễ
dàng” như bất cứ thể thơ nào khác. Người đọc bắt gặp
trong Xuân chiến địa:

Đạm Phương là người góp phần duy trì một
hướng sáng tác thơ Đường luật bằng chữ Quốc
ngữ, mở đầu cho một hướng đi mới của nhiều nhà
thơ về sau. Bài thơ Nhớ bạn, Nhớ cảnh núi… của
Đạm Phương; Đáp Hồ Bá Xuyên, Tỏ chí, Tự thán
của Sương Nguyệt Anh cho thấy sự tài hoa và tố
chất nghệ sĩ của họ. Thể từ gần như ít xuất hiện
trên văn đàn nhưng những bài thơ của Đạm
Phương và Sương Nguyệt Anh là những bài đầu

tiên viết bằng chữ Quốc ngữ theo đúng điệu:

Lành lạnh bên sông một quán nghèo
Đèn lay dáng trúc gió hiu hiu

Mảnh trăng đêm dọi bóng quanh thềm
Bóng dọi quanh thềm giấc khó êm.
Giấc khó êm vì thương nhớ bạn
Vì thương nhớ bạn, mảnh trăng đêm.

Hướng dương trà vẫn thơm như cũ
Khói toả tương tư đượm ít nhiều?
Đường luật thất ngơn bát cú là thể thơ thích hợp
với nữ sĩ. Đọc thơ bà khiến ta thấy nhẹ nhàng,
được sống thoải mái trong không gian cổ kính đầy
yêu thương… Bài thơ Trưng Nữ Vương là một ví
dụ tiêu biểu. Bài thơ hồn thành vào năm 1939,
thoạt nhìn hình thức vẫn là thể thức của Thơ mới,
gồm có năm đoạn, mỗi đoạn bốn câu, mỗi câu bảy
chữ. Hình thức mới nhưng vẫn cịn mang nặng sắc
thái khí vị của thơ Đường, đầy nhạc điệu: Lạc
tướng quên đâu lời tuyết hận/ Non hồng quét sạch
bụi trần ai/ Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận/
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời…

(Nhớ bạn - Đạm Phương)
Năm canh thức nhắp, năm canh những,
Nửa gối so le, nửa gối chờ.
Vườn én rủ ren trên lối cũ,
Canh gà xao xác giục tình xưa.

(Tự thán - Sương Nguyệt Anh)
Thơ của Cao Ngọc Anh gồm thơ viết bằng
chữ Hán và thơ viết bằng chữ Quốc ngữ. Những
bài thơ tứ tuyệt cho thấy tài thơ chữ Hán của bà
Cao Ngọc Anh quả không tầm thường, bài thơ
Đào hoa khẩu chiếm là một bài thơ tiêu biểu:

Về mặt thể loại, các nhà thơ nữ đã vận dụng thành công
các thể thơ dân tộc nhưng không gị bó trong khn khổ
những quy phạm chặt chẽ của thể loại mà ln có
những phá cách và thể nghiệm mới. Với thể thơ lục bát,
thơ nữ đã thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo của mình.
Khơng mơ phỏng hồn toàn ca dao và lục bát dân tộc,
các bà lựa chọn những đặc điểm, yếu tố thích hợp của
lục bát, ca dao để sáng tác cho phù hợp với tâm hồn
của con người thời đại. Các bà biết phát huy giá trị tích
cực của thơ ca dân tộc để đem đến cho thơ ca những giá
trị phù hợp với thực tế đời sống và thế giới nội tâm của
nhà thơ. Cấu trúc câu thơ được sắp xếp theo quy luật
của cảm xúc và dòng chảy của tâm thức. Lục bát, song
thất lục bát cũng là thể thơ quen thuộc được các nhà thơ
nữ sử dụng với tỷ lệ cao. Những bài thơ lục bát, song

Tích niên lang tháp song đào thụ
Kim kiến đào hoa bất kiến lang
Giả sử hoa thần như hữu thức
Vị lang tiều tuỵ giảm dung quang.
Tác giả đã tự dịch ra tiếng Việt như sau:
Bói hoa đào
Song đào chàng mới trồng năm trước

Nay thấy đào hoa chẳng thấy chàng
Ví khiến thần hoa như có biết,
Vì chàng nhan sắc giảm phần chăng?

104


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

thất lục bát nhẹ nhàng, giàu cảm xúc: Sóng thơ của Thu
Hồng; Âm thầm, Tơ sầu của Mai Đình; Lịng q,
Qn cũ trong sương của Hằng Phương; Thuyền đi của
Vân Đài; Vườn trưa, Bóng ai của Cẩm Lai; Ru con,
Ngõ chơ Khâm Thiên của Anh Thơ…

Sóng lao xao lấp loáng, ánh xa ngời.

Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, thể thơ song thất
lục bát tạo nên những dịng cảm xúc riêng biệt, khơng
hồ lẫn. Để khai thác trọn vẹn hơn những khát khao
thầm kín trong hành trình đi tìm hạnh phúc, các nhà
thơ nữ đã khai thác và khám phá một cách toàn vẹn
nhất trái tim của những người phụ nữ yêu thương và
khát khao được sẻ chia, bày tỏ trong thể thơ song thất
lục bát.

Gợi lòng cho khách qua đàng nhớ nhung…

Anh Thơ sáng tác ở nhiều thể thơ và hầu như thể
loại nào cũng thể hiện sự thành công của tác giả.

Thể thơ tám chữ là thể thơ được Anh Thơ sử dụng
tương đối nhiều, qua thể thơ này, Anh Thơ đã
giúp cho chúng ta có thêm những hiểu biết, những
cảm nhận về bức tranh phong cảnh, bức tranh
cuộc sống của con người; giúp người đọc như
đang được đắm mình vào cảnh quê, được sống lại
khơng khí của thơn q hay cuộc sống lao động,
chiến đấu của con người mới. Tiêu biểu là các bài:
Trưa hè, Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh
đèo Ngang, Mùa chiêm mới, Theo cánh chim
câu…

(Quán cũ trong sương - Hằng Phương)

Trời trong biếc không qua mây gïợn trắng,

Các nhà thơ nữ hầu như sử dụng các thể thơ quen
thuộc như thơ năm chữ, bảy chữ, lục bát, thơ tám chữ.
Sự tìm tịi, đổi mới trong thơ thể hiện ở việc gia tăng
các khổ thơ, câu thơ hoặc thay đổi nhịp thơ, vần điệu,
từ ngữ… Sự đổi mới ấy tuy khơng đặc biệt nhưng cho
thấy ít nhiều nét sáng tạo, thấy được ý thức và nỗ lực
kiếm tìm cách thức để làm mới thơ. Nhưng sự đổi
mới đó vẫn khơng làm thay đổi lối thơ trong sáng,
chân thành; giọng thơ uyển chuyển, êm đềm của các
nhà thơ nữ.

Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa.

Và búp hoa nghểnh dậy đón hương trời,

Cây tn bóng, lửng lơ, đị chẳng lướt!
(Tơ lịng với đẹp - Thu Hồng)

Bao thế sự xố nhồ rêu phủ,
Còn lại đây quán cũ vài gian,
Trong sương lặng đứng mơ màng.

Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
(Trưa hè)
Được cách tân và sáng tạo, thể thơ tám chữ là phương
tiện để các nhà thơ nữ biểu hiện tâm trạng, bộc lộ cái
tôi. Thể thơ này có sự phóng túng trong câu chữ, nhịp
điệu linh hoạt, có sức dung chứa cuộc sống, có khả
năng giãi bày tiếng nói sâu kín trong tâm hồn con
người, thích hợp với kiểu con người tự do, con người
tâm linh, con người cá nhân thành thực với lòng mình
và cuộc sống. Thể thơ này là cơ sở để các nhà thơ nữ
thể hiện những quan niệm của cá nhân về tình yêu, về
lẽ sống, về cái đẹp, về cuộc đời. Bên mồ Hàn Mặc Tử
của Mai Đình; Tơ lòng với đẹp, Lịch của Thu Hồng;
Khúc nhạc bên đường của Hằng Phương; Trưa hè,
Chiều xuân, Rằm tháng bảy, Qua đỉnh đèo Ngang,
Mùa chiêm mới, Theo cánh chim câu của Anh Thơ...
là minh chứng cho những thành công ấy. Những bài
thơ của các bà thể hiện tinh thần, khát vọng tự do
mạnh mẽ nhất, là sản phẩm tinh thần của tầng lớp trí
thức nói chung và các nhà Thơ mới nói riêng.

Sáng tác của các nhà thơ nữ trong khn thơ

tương đối ổn định: thơ thất ngôn, thơ tám chữ và
vận dụng thể thơ lục bát và thơ ngũ ngôn một
cách điêu luyện. Thơ tám chữ là thể thơ có nguồn
gốc từ thể hát nói. Thể thơ này có sức dung chứa
lớn, lời thơ, ý thơ gần với lời kể, giàu yếu tố tự sự,
thi nhân tự do biểu hiện cảm xúc đối với làng quê.
Cuộc sống thường nhật đi vào trong thơ các tác
giả nữ một cách sinh động, cụ thể, neo giữ hồn
người.
Cịn có gì hơn thầm lặng anh ơi...
Dồn thương nhớ vào tận cùng cân não
Để đêm nay xây đắp mộng luân hồi

Thơ bảy chữ là thể thơ ra đời khá sớm trong lịch sử
thơ ca của dân tộc. Thơ bảy chữ gồm tứ tuyệt (bốn
câu bảy chữ), bát cú (tám câu bảy chữ). Gọi thơ bảy
chữ (thất ngơn) vì đặc điểm chính của câu thơ là mỗi
câu có bảy chữ. Bài thơ bảy chữ ngắn nhất cũng phải

Anh hãy cùng em về căn nhà nhỏ
(Bên mồ Hàn Mặc Tử - Mai Đình)
Kìa trăng vỡ trong hồ khi nước động,
105


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

là bốn câu: thất ngôn tứ tuyệt (Mời trầu, Bánh trôi
nước, Con ốc nhồi của Hồ Xuân Hương)..., thất ngơn
bát cú Đường luật (Thăng Long thành hồi cổ, Qua

đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan)...

Nhìn liễu rơi vàng lá báo thu...
(Chớp mắt)
Thơ năm chữ là thể thơ liên quan đến việc thể
hiện cảm xúc, nội dung giãi bày tâm trạng. Thơ
năm chữ thường ngắt nhịp 2/3 tạo cho câu thơ
chất luyến láy hoặc 3/2 tạo âm hưởng mênh mang,
trầm lắng của nỗi nhớ mong. Vốn có nguồn gốc từ
thơ ca dân gian, hát dặm Nghệ Tĩnh và loại thơ
ngũ ngôn, đến các nhà Thơ mới, thơ năm chữ đã
mở rộng hơn, tự do hơn cho tứ thơ để dễ dàng
diễn tả tâm hồn, cảm xúc mới của thi nhân. Thể
thơ năm chữ cũng được Anh Thơ sử dụng nhiều
như các bài: Tiếng chim tu hú, Vá áo, Tết về…
Với thể thơ này, Anh Thơ thường chia làm nhiều
khổ và nối liền mạch thơ để diễn tả cảm xúc. Nhà
thơ thường thiên về lối kể, tả, để diễn tả tình cảm
u thương, trìu mến của mình.

Thơ thất ngơn tứ tuyệt và thất ngơn bát cú Đường
luật có u cầu về niêm luật chặt chẽ. Các nhà thơ
nữ ít sử dụng lại thể thơ Đường luật. Họ chủ yếu
sử dụng thơ bảy chữ theo kiểu cổ phong, do ảnh
hưởng của xon-nê Pháp nên cấu tạo lại thành
những khổ thơ có bốn câu. Nếu các thi gia xưa
sáng tác thơ Đường đã dùng nhiều Hán tự, điển tích
cho bài thơ hàm súc, chặt chẽ và có phần nặng nề
thì thơ bảy chữ của các nhà thơ nữ gần gũi với cuộc
sống. Các nhà thơ nữ làm thơ bảy chữ không hạn

định số dịng, số câu, gởi gắm vào đó những tư
tưởng mới mẻ, với những lời thơ trong sáng nên rất
rõ ràng, khúc chiết. Vần, nhịp trong thơ vừa tiếp
nối thơ truyền thống, vừa linh hoạt, phản ánh hơi
thở của cuộc sống, diễn tả cảm xúc của thi nhân:

Bỗng tiếng chim tu hú
Đưa từ vườn vải xa

Ngắt theo nhịp 2/2/3:
Lại thoảng tình hương ở các bơng

Quả bắt đầu chín lự

Bay ra lan đượm khắp không trung;

Ngọt như nỗi nhớ nhà…

Trong cơn ngây ngất say sưa ấy

Tu hú ơi tu hú!

Chợt động cành cây tiếng lá rung.

Kêu hoài chi vườn xanh?
Ta cịn đi đi nữa

(Tiếng đêm - Vân Đài)

Như dịng sơng trôi nhanh...


Thể thơ thất ngôn được các nhà thơ nữ cách tân, phá
vỡ niêm luật, khổ thơ, vần điệu tạo nên thể thơ bảy
chữ. Đây chính “là sự hồ giải tỉnh táo của ý thức thể
loại” (Lê Duy Anh, Lê Quang Vinh, 2006, tr. 36). Chính
vì thế, thể thơ này trở nên phổ biến rộng rãi, câu thơ
tự do hơn: Ai cấm người thơ u q độ?/ Ai ghì gió
lốc giữa khơng gian?/ Và ai đặt chữ tình dang dở/
Mà để so le nghĩa thiếp chàng? (Căm giận - Mai
Đình).

(Tiếng chim tu hú)
Đóng góp khơng nhỏ cho sự nghiệp thơ ca của
Anh Thơ phải kể đến việc vận dụng thể thơ một
cách linh hoạt vào sáng tác của bà. Anh Thơ sử
dụng nhiều thể thơ: thể thơ bốn chữ, năm chữ, bảy
chữ, tám chữ; thể thơ tự do, thể thơ lục bát... Ở
bất cứ thể thơ nào, Anh Thơ cũng đạt được thành
tựu đáng kể.

Thể thơ bảy chữ chiếm một số lượng không nhỏ trong
sáng tác của Anh Thơ. Với thể thơ này, Anh Thơ đã
có sự cách tân qua kết cấu, ngắt nhịp, hiệp vần linh
hoạt. Sự điêu luyện đó khơng chỉ diễn tả cảnh vật
phong phú, đa dạng mà cịn thể hiện tình cảm, tâm
trạng của tác giả. Có thể kể đến các bài thơ: Chớp
mắt, Chiếc cáng thơ, Xuân quê, Nắng…

Có thể nói, thể thơ truyền thống là thể thơ được các
tác giả nữ sử dụng nhiều hơn cả. Đó là âm vang quen

thuộc của thi tứ phương Đơng trong dịng chảy mới
mẻ của thơ ca nữ giai đoạn này. Loại hình câu thơ của
các nhà thơ nữ sử dụng phong phú đa dạng tùy từng
thể loại thơ và cảm xúc thơ. Câu thơ vừa mang tính
truyền thống bởi tính chất đều đặn của nhịp điệu thơ,
vừa mang tính hiện đại ở cấu trúc, ý nghĩa và cảm xúc
thơ.

Có những ngày buồn chả ước mơ
Bỏ ăn, quên ngủ, biếng làm thơ.

Thanh âm thơ ca truyền thống phương Đông vẫn âm
vang trong thơ nữ. “Chưa bao giờ như bây giờ họ

Cứ ngồi ngơ ngẩn bên song cửa

106


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ
xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt” (Hoài
Thanh, Hoài Chân, 2000, tr. 119). Thơ của các nhà
thơ nữ giai đoạn này vẫn dạt dào dòng chảy
Đường thi. Đó khơng phải là ngẫu nhiên ở một
tâm hồn ln ln chìm trong thâm trầm suy nghĩ
của cuộc trở về với hồn thơ phương Đông. Những
thể Đường thi vừa giản dị, giàu nhạc điệu, gợi
cảm mà các nhà thơ nữ ưa chuộng tồn tại vững

chãi và phát triển trong giai đoạn chuyển mình
của thơ ca dân tộc.

Cách phản ứng trước thời cuộc và nhân tình thế
thái khiến ta thêm gần gũi bà. Bà bước ra khỏi
chốn gia môn để tham gia các cơng việc xã hội,
văn hố, là một nữ sĩ tiên phong; một người phụ
nữ trang nghiêm, chung thủy và thanh cao, xứng
đáng với tinh thần quốc gia dân tộc. “Tài đức và
thi ca của bà là những cánh hoa thơm ngát, những
tia sáng tươi màu trong rừng văn học nước nhà”
(Phạm Xuân Độ, 1959, tr. 65).
Ngôn ngữ chính là chất liệu của thi ca, một hệ
thống từ ngữ có một thế giới tinh thần riêng của
nó. Đặc biệt là động từ “giãi bày”, “tiễn biệt”,
“gửi”, “quên”, tính từ “băn khoăn”, “tươi tỉnh”…
Hệ thống sử dụng các động từ, tính từ cảm xúc
trong thơ Hằng Phương đa dạng và phong phú
biểu hiện các cung bậc của cảm xúc lịng người.

2.2 Ngơn ngữ thơ giàu cảm xúc
Ngơn ngữ thơ là cội nguồn chất liệu của thơ ca
qua việc dùng từ, đặt câu, xây dựng hình ảnh…
“Ngơn ngữ là một hình thức cội rễ nhất, là cội
nguồn vật liệu thứ nhất của thơ ca” (Vũ Văn Sỹ,
2005, tr. 44). Ngôn ngữ ảnh hưởng không nhỏ
trong việc thể hiện ý thức nữ quyền của nhà thơ
nữ trong văn học đầu thế kỷ XX.

Lịng luống băn khoăn khó giãi bày

Khi nhìn rặng núi khuất ngàn cây
Và khi tiễn biệt trên đường thẳm

Đến với thơ Cao Ngọc Anh, người đọc hình dung
được trọn vẹn tác giả - một người con gái khuê
các, đoan trang và giàu trí tuệ. Với bà, giao lưu
với bạn bè, du ngoạn đây đó là để bồi dưỡng cho
cái tâm và cái trí của mình. Tâm hồn bà như cánh
bướm dập dờn trên mọi miền cỏ hoa sông núi:
Ngoài giậu, sương gieo chồi cúc đượm/ Trên hồ,
sen nở tiếng chim kêu (Vịnh cảnh chùa Dược Sư).
Hay: Âm thầm nhạn liệng năm canh vắng/ Khắc
khoải quyên sầu mấy dặm khơi (Thu cảm). Những
vần thơ lấp lánh trong veo nỗi buồn, người đọc
nhìn thấy được tận cùng cái cốt lõi nhân bản của
người phụ nữ Việt Nam.

Muốn gửi hồn theo cánh nhạn bay.
(Tiễn biệt - Hằng Phương)
Nếu giọng điệu tạo cho người đọc nhiều rung cảm
thì ngơn ngữ sẽ giúp ta có được thế giới hình ảnh.
Chính thế giới hình ảnh ấy của ngôn ngữ sẽ tạo
cho người đọc nhiều cái nhìn khác nhau về một
vấn đề và trong thơ Hằng Phương, nhờ những hình
ảnh ấy mà thơ của bà đã đi vào lịng người đọc.
Với hình ảnh của những rặng núi, cánh nhạn chiều
tà, người đọc bắt gặp người phụ nữ đang khát khao
có một tình u như thế nào và trong ngay chính
bản thân của bà ln tiềm ẩn một sức sống một
tình u khơng bao giờ cạn.


Thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là tiếng thơ
của khí tiết. Mỗi câu thơ là lời ký thác những tâm
sự nữ nhi giữa thời truân chuyên và loạn lạc. Điều
khiến cho thơ bà trở nên sâu lắng và có sức gợi
qua thời gian chính là tấm lịng chân thành trước
cuộc đời. Câu thơ chứa đựng nỗi ngậm ngùi, kín
đáo và cảm động:

Trong đời sống văn học, ngôn ngữ là công cụ, là chất
liệu cơ bản đồng thời là thành tố văn hố có vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội. Ngơn ngữ Việt thể
hiện rõ nét tính cách con người Việt. Các nhà thơ nữ
sử dụng ngơn ngữ bình dị, kết hợp cách nói dân gian
và hiện đại. Song, với sự thay đổi của hiện thực đời
sống và hiện thực tâm trạng, những chi tiết bộn bề
của cuộc sống ngày càng thâm nhập vào thơ, những
từ ngữ được dùng để diễn tả trạng thái tâm hồn được
các nhà thơ đẩy đến tận cùng độ căng của cảm xúc.
Vẻ đẹp của thơ Mộng Tuyết, không phải là vẻ đẹp
của cấu tứ và kỹ thuật, mà nó có sức lay động ở sự
trong trẻo trong cảm xúc và những hình ảnh có sức
gợi:

Ngọc ánh chi nài son phấn đượm
Vàng rịng há sợ mất màu phai
(Cây mai - Sương Nguyệt Anh)
So với Hồ Xn
Quan, Đồn Thị
Nguyệt Anh kém

khơng thiếu phần

Hương hay Bà Huyện Thanh
Điểm, ngọn bút của Sương
linh động, tài tình nhưng nó
rắn rỏi, tự nhiên, chân thành.
107


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

Trăng chảy ngập đường đi - Thuở ấy

Đoạn đời thơ mộng nhất của tác giả chính là tuổi
ấu thơ. Ở cái tuổi ấy, thời gian như ngừng trôi,
không gian như đậm đà. Cái đẹp của hồn người
như lan tỏa vào cảnh vật bởi ngôn từ trong sáng.
Ngôn từ trong thơ Thu Hồng chứa đựng khả năng
biểu cảm lớn, mang ý nghĩa sâu xa, bởi đó là ngơn
từ của cảm xúc, của trái tim nhạy cảm. Thu Hồng
hướng thơ vào khám phá thế giới nội tâm của
chính mình. Ngôn từ trong thơ càng dâng trào
cảm xúc, người đọc cảm nhận được suy ngẫm của
bà về đời:

Đôi người soi bóng bước song song
Rồi trăng từ đó tương tư bóng
Chảy ngập đường đi khắp nẻo lịng
(Bóng trăng - Mộng Tuyết)
Những câu thơ là vẻ đẹp của một tâm hồn không chỉ

quẩn quanh trong những tình cảm riêng tư mà cịn biết
hướng tâm hồn đến những bến bờ của một tình yêu
rộng lớn. Thơ của Mộng Tuyết không nhiều nhưng ý
thơ thâm trầm, tình thơ man mác. Cùng với việc sử
dụng ngôn ngữ đời thường, Mộng Tuyết chọn lọc từ
ngữ khá kỹ để đem lại sự độc đáo, mới lạ diễn đạt hết
ý nghĩa của thơ; khơi dậy cả một thời dĩ vãng xa xăm,
cái thời "ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Tất cả
như gợi lên trong lòng người đọc một niềm xao xuyến
bâng khuâng, một mối cảm hoài man mác. Đây chính
là điều mà Mộng Tuyết đã tạo nên nét riêng cho mình.
"Những lời tuy bình dị mà có một vẻ u kiều riêng,
tưởng ngịi bút đàn ơng khó có thể viết ra được" (Hồi
Thanh, Hồi Chân, 2000, tr. 335).

Ơ hay! đâu thốt khỏi triền miên,
Hồn lặng trong mê, ý dậy phiền.
Đời ít khi vui, hồi cảm xúc,
Thương sen lẫn lộn sống bên bùn!
(Mảnh hồn thơ - Thu Hồng)
Trong thơ nữ, hệ thống từ ngữ bình dị, gần gũi với
đời sống con người, thiên nhiên hòa hợp cùng âm
hưởng, tâm trạng. Với câu thơ điệu nói, chất nhạc
của thơ không phải là thứ nhạc trầm bổng, réo rắt
do phối hợp bằng trắc tạo nên như trong thơ trung
đại mà nhạc trong thơ điệu nói là tiếng người, ngữ
điệu, giọng điệu người. Và nói đến điệu thơ là nói
đến điệu tâm hồn, trạng thái cảm xúc. Nhờ có hình
thức thơ thích hợp nên trạng thái cảm xúc và lối
cấu tứ của các nhà thơ nữ phong phú và đa dạng

hơn với mỗi trạng thái mang tính cá thể rất riêng
biệt. Câu thơ trữ tình xuất hiện giãi bày nội tâm,
cảm nhận thế giới bằng cảm xúc.

Thơ Vân Đài luôn nhuốm màu buồn day dứt, nhớ
mênh mang và đâu đó cịn vang lên cả lời ốn
trách. Những là Mây biển mênh mơng thuyền một
lá/ Chân trời cánh nhạn tít mù tăm (Đợi chờ);
Đêm đêm nghe sóng về bên gối/ Trở giấc lịng q
những ngậm ngùi (Đảo vắng xa xơi). Việc sử
dụng từ ngữ: “tít mù tăm”, “ngậm ngùi”… thấm
đẫm tâm trạng của tác giả, mang nỗi niềm riêng
chung của kiếp người phụ nữ xưa.

Đi tìm bướm bắt để ni chơi,

Anh Thơ qua Bức tranh quê biểu hiện đích thực
của một ý thức sáng tạo xem trọng sự biểu hiện của
những cảm xúc trực tiếp, hoá giải những nỗi đau về
thân phận con người, giãi bày tâm trạng của chính
mình. Ngơn ngữ thơ Anh Thơ không nghiêng về
ước lệ, tượng trưng cũng khơng un bác hoa mĩ
mà như một góc trời quê lặng lẽ, khiêm nhường.
Tác giả thường dùng rất nhiều lời ăn tiếng nói
hằng ngày, những từ ngữ địa phương, khẩu ngữ,
thành ngữ dân gian. Người đọc bắt gặp những từ
ngữ rất bình dị, rất đời thường như: “chửi đổng”,
“lon ton”, cái đĩ”, “nhớn nhác”, “bà lão”, “bới
rác”… nhưng cũng rất mộc mạc, chân chất như
chính con người quê:


Búp bê đem tắm hơ cho ấm,

Mụ bán cá đặt thúng ngồi chửi đổng

Với Thu Hồng, ngôn từ thể hiện trên trang thơ vô
cùng giản dị và trong sáng. Tác giả không hề cầu
kỳ trong câu chữ, cái sự không cầu kỳ tưởng như
không chú trọng tạo ấn tượng bằng những “nhãn
tự”. Nhưng đây lại là một sự dụng công chữ nghĩa
đến mức tự nhiên, cứ thốt ra là thành ý tứ. Ngôn
từ trong thơ Thu Hồng hồn nhiên, thỏ thẻ như con
trẻ. Cái thời bé thơ ngây dại dễ mến khiến cho ta
khoan dung với tất cả. Đọc những vần thơ của
Thu Hồng, ta như trẻ con muốn được sống trong
yêu thương:
Ai có như em, một ấu thời?

Lửa bén vèo! thơi cháy mất rồi.

Chị hàng rau mất chỗ chạy lon ton.

(Êm đềm - Thu Hồng)
108


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

(Họp chợ)


thơ trong Bức tranh quê có những vần cịn thơ sơ,
những có những câu hay mà đến bây giờ trình độ có
vượt hơn trước rất nhiều tôi cũng không làm được”
(Lưu Khánh Thơ, 2005, tr. 11).

Tác giả sử dụng từ ngữ, khéo léo dùng ngòi bút
của mình vẽ nên những hình ảnh bình dị nhưng
thật ấm áp và chan chứa vẻ đẹp cuộc sống. Bên
cạnh đó, theo dòng thơ, mạch cảm xúc của người
đọc được dâng lên và nhờ đó ta cảm nhận sâu nhất
cảm xúc của nhà thơ.

Ý thức sáng tạo, ý thức về sự độc đáo đã tạo nên
những vần thơ đầy cá tính. Thơ của các tác giả nữ
cởi mở cho những tiếng lòng gần gũi, diễn tả
những thổn thức, dào dạt của đời vào thơ. Nó mở
ra cho các hình thức tư duy mới mẻ, sử dụng các
ẩn dụ, liên tưởng đầy nghịch lý và dĩ nhiên nó cho
phép cá tính nhà thơ bộc lộ đậm nét trong hình
thức thơ, thể loại thơ. Những tác phẩm của các
nhà thơ nữ là một minh chứng.

Hịa vào trong dịng Thơ mới, ngơn ngữ của Anh Thơ
vừa kế thừa truyền thống, vừa sáng tạo, cách tân.
Ngôn ngữ của Anh Thơ trong sáng, giàu màu sắc dân
gian. Thơ của Anh Thơ sử dụng rất nhiều lời ăn tiếng
nói hàng ngày của người dân q: “ngủ khị bên
nhau”, “nhà ai đã cháy rồi”, “thế cũng hơi nhiều”…
chân chất, đậm hồn quê. Ngôn ngữ trong thơ bà đã tái
hiện bức tranh quê cụ thể, sinh động. Hình ảnh các

phiên chợ quê: họp chợ, đông chợ, tàn chợ, bến đò
ngày phiên chợ… gợi lên chất quê trong thơ, cứ để lại
trong lòng người đọc nỗi nhớ da diết về quê hương,
đặc biệt là những người con xa quê.

2.3 Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng
Mỗi một nhà văn, nhà thơ đều có giọng điệu riêng,
hơn thế nữa giọng điệu còn được biểu hiện khác
nhau qua từng tác phẩm. “Giọng điệu cá nhân nghệ
sĩ là sự tụ kết của nhiều yếu tố: cá tính sáng tạo,
quan niệm nghệ thuật, thái độ đối với đời sống, tài
nghệ tổ chức ngôn từ trong quá trình tạo giọng để
thu hút và thuyết phục độc giả thì giọng điệu của
mỗi một thời đại thơ ca là sự thể hiện một cách sống
động kiểu tư duy nghệ thuật và khuynh hướng thẩm
mỹ chung của thời đại ấy” (Nguyễn Đăng Điệp,
2002, tr. 872). Giọng điệu là chất riêng của thanh âm
để tác giả thể hiện một cảm xúc vào tác phẩm. Nó
vừa là nội dung, vừa là hình thức để tác giả thể hiện
cảm xúc.

Đến với thơ Anh Thơ là đến với ngôn ngữ giản dị, đời
thường. Những từ ngữ, hình ảnh giàu tính tượng hình,
gợi tả được Anh Thơ tái hiện về cảnh vật, phong
cảnh: vườn chuối, nương dâu, cánh đồng, rặng tre,
bến sơng… Đó là những từ ngữ đậm tính dân gian.
Người dân quê đã rất đỗi thân thuộc với những rặng
tre, khóm tre, những đường quê, con đê, bến vắng, bờ
tre, chòm xoan, hương hồng, hương lý, khóm tre, hoa
mướp, hoa lựu, vườn cải, đầm sen, lũ chuồn chuồn,

tàu chuối láng… Tất cả cứ đi vào thơ bà tự nhiên,
dung dị. Vì vậy, khi đọc thơ của bà chúng ta luôn bắt
gặp những từ ngữ mang màu sắc đời thường.

Sương Nguyệt Anh thuộc thế hệ nhà thơ cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Bà làm thơ bằng chữ
Hán, chữ Nôm và cả chữ Quốc ngữ. Thơ chữ Hán
của Sương Nguyệt Anh hầu hết tập trung vào các
chủ đề của thơ cổ. Thơ Sương Nguyệt Anh để lại
không nhiều nhưng giọng thơ đầy duyên ngầm
với hồn thơ chân thật, thanh cao vẫn mang đến
cho đời những bài thơ ngắn ngủi ấy một đời sống
rất dài trong lịch sử văn học dân tộc. Giọng thơ
Sương Nguyệt Anh cổ kính nhưng tha thiết, tràn
trề nỗi niềm nhân thế trong sự cảm nhận sâu sắc
(Thơ Chinh phụ, Họa thơ ông Phủ Học).

Âm thanh của cuộc sống thường nhật được Anh Thơ
sử dụng bằng một hệ thống ngơn ngữ giàu tính tượng
thanh. Đó là tiếng véo von của sáo diều bay lượn,
tiếng mưa xuân, tiếng phấp phới của cánh cị trắng,
tiếng chng chùa n bình, tiếng hát đúm, tiếng ồn
ào của những người mua bán, tiếng gọi nhau ơi ới,
tiếng cuốc gọi bạn, tiếng gà chiêm chiếp, lợn kêu ủn
ỉn, xao xác tiếng gà gáy, tiếng dế kêu, tiếng ếch ộp
muôn thuở của làng quê, tiếng pháo đì đạch, âm thanh
buồn của tiếng vạc kêu đêm… Đó là thanh âm của
miền q thơn dã. Khơng chỉ động mà bắt gặp trong
những câu thơ là sự lặng lẽ, buồn vắng trong một
không gian mơ màng: sự lặng im của chịm tre, của

qn hàng vắng lặng, dịng sơng cũng im ắng… Vẫn
bình dị, êm ả và nhẹ nhàng, một sắc thái không lẫn
với một không gian nào. Anh Thơ đã tâm sự: “Lời

Sự nghiệp thơ của Cao Ngọc Anh gồm thơ viết
bằng chữ Hán và thơ viết bằng chữ Quốc ngữ.
Trong phần thơ viết bằng Quốc ngữ, chỉ đọc bài
Vịnh cảnh hồng hơn, bạn đọc thấy được giọng
điệu thơ của bà cùng một khẩu khí với thơ của bà
Huyện Thanh Quan:

109


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

Còn trời, còn đất, hãy còn ta.

là những ngày Tết thuở bé (Tết xưa), là hình ảnh
người mẹ thương yêu đã mất (Nhớ mẹ), là quê nhà
đã xa (Tư cố hương, Thu nhớ nhà, Chiều hè đứng
bên sông). Hằng Phương đã vẽ nên cảnh sắc của
thiên nhiên (Bình minh, Trăng lên, Tịch mịch)
bằng sự nhạy cảm trong quan sát, cảm nhận.
Những hình ảnh thơ thấm đẫm cảm xúc của nhà
thơ tạo nên sự da diết, dào dạt trong lời thơ.
Giọng thơ đó đã làm nên sức quyến rũ lắng sâu
của thơ Hằng Phương.

Chân cứng lo chi bóng xế tà,

Nhớ mẹ thêm rầu khi sớm tối
Thương con nào quản nỗi gần xa.
Dám sai lời hẹn cùng non nước,
Cũng gượng vui cười với cỏ hoa
Phong cảnh buồn trông nơi đất khách,
Chiều hơm lác đác hạt mưa sa.

Sương đêm cịn đọng trên cành,

(Vịnh cảnh hồng hơn - Cao Ngọc Anh)

Rưng rưng hạt ngọc long lanh nhìn trời.

Cách ngắt nhịp trong thơ thường phụ thuộc vào
cảm xúc thơ và ý thơ. Nhịp điệu theo cảm xúc vừa
thể hiện ý thơ theo chiều ngang, vừa gắn kết mạch
theo chiều dọc. Nhịp của cảm xúc, của tâm trạng
hòa vào nhịp thơ là nét mới lạ trong thơ của Cao
Ngọc Anh. Bởi sự hài hòa trong cảm xúc và nhịp
điệu mà âm hưởng bài thơ êm đềm, ý tình hịa hợp
lan toả nhẹ nhàng, sâu lắng đã thể hiện tự nhiên,
chân thật cảm xúc thơ.

Sẽ sàng chiếc lá vông rơi,
Thương tâm ngành liễu tơi bời lệ sa.
Bên hiên chúm chím nụ trà,
Vừng đơng vừa ló, ngoảnh ra mỉm cười.
Cánh hồng đài điếm khoe tươi
Dường như mới gặp được người tình xưa…
(Bình minh - Hằng Phương)


Một trong những đặc điểm giọng điệu của thơ nữ
giai đoạn này là trữ tình tha thiết. Khơng nổi bật
như các nhà thơ nam cùng thời với những cách tân
táo bạo, những liên tưởng dồi dào hay cách thể hiện
cuồng nhiệt với tình yêu tận hưởng, quằn quại trong
tình yêu tan tác (Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích
Khê...), thơ của các bà (Hằng Phương, Ngân Giang,
Vân Đài, Anh Thơ, Thu Hồng...) tỏa hương
sắc bình dị, khiêm nhường. Chính sự bình dị, nhẹ
nhàng, nữ tính ấy đã trở thành những đặc trưng của
thơ nữ.

"Thơ Hằng Phương cùng một giọng êm dịu, ngọt
ngào như Vân Đài. Nhưng ít dấu tích thơ Đường
và thành thực hơn. Như đoạn cuối trong bài Lịng
q trích theo đây lời thơ thực yểu điệu, dễ
thương. Hằng Phương mượn lời chim để nói nỗi
lịng mình. Nhưng thực ta khơng cịn biết đây là
lời người hay lời chim. Bởi mối tình ở đây nhẹ
nhàng q, trong trẻo q" (Hồi Thanh, 2000, tr.
340). Bài thơ được biết đến nhiều nhất của Hằng
Phương là Lòng quê tặng người bạn đời Vũ Ngọc
Phan với nỗi niềm: “... Đường xa ngoảnh lại ngẩn
ngơ/ Trông theo mây trắng thẫn thờ mắt xanh”.

Những bài thơ của Vân Đài nhẹ nhàng, êm ái,
nhằm diễn tả những cảm xúc rạo rực, những xơn
xao e ấp trong tình cảm, trong tâm trạng của người
đang yêu. Tình yêu ở đây mong manh không bền,

để lại những dư vị cay đắng. Những bài thơ của
bà: Đêm tàn, Tả cảnh, Chiều thu, Họa mười bài
Khuê phụ thán, Xuân sang, Dục Thúy sơn… mang
âm hưởng cơ đơn, u hồi, buồn bã. Nỗi nhớ mãnh
liệt, da diết nên phù hợp với giọng thơ nhẹ nhàng,
đều đặn. Sự nhẹ nhàng, truyền cảm, gợi cảm giác
man mác, bàng bạc trong thơ. “Lời thơ bao giờ
cũng nhẹ nhàng êm ái. Ít khi tiếng Nam có vị ngọt
ngào như thế” (Hồi Thanh, 2000, tr. 249).

Âm điệu chính trong thơ Hằng Phương là “êm dịu
ngọt ngào”. Nhưng đôi khi trong thơ bà, ta thấy
ánh lên những nét triết lý của một tâm hồn đầy
trải nghiệm, suy tư. Trong bài thơ Tết xưa nhà thơ
dường như đã thấy trong cái hiện tại, những quy
luật của sự sống:
Những ngày vui sao chẳng được bao lăm
Vừa mới đó, cuộc đời đã khác trước.
Vì có cánh tơi bay theo chim Phượng,
Tới Bồng lai, xem mẹ ở nơi nao.

Đồng điệu cảm xúc với thơ Vân Đài, thơ Hằng
Phương trong tập Hương xuân có nhiều bài là sự
hồi tưởng đầy xúc cảm của tác giả về quá khứ. Đó

Và quay đầu về dãy núi cao cao,
Tìm quê cũ dưới nắng xuân rực rỡ.
110



An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

Bắt gặp trong những bài thơ của Mộng Tuyết là
giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng. Chất liệu làm nên
giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng trong thơ tác giả là
cách tạo nên nhạc tính bằng việc dùng từ ngữ. Âm
điệu nhẹ nhàng có được sự cân đối của âm thanh.
Nét phá cách trong ngắt nhịp không nhiều, phần lớn
là nhịp của cảm xúc. Sự cộng hưởng của nhịp điệu
và cảm xúc tạo nên hiệu quả đặc biệt trong thơ. So
với thơ của các nhà thơ nữ trong phong trào Thơ
mới, thơ Mộng Tuyết có nhiều đổi mới và sáng tạo
hơn hết, tiêu biểu là ở mặt phá cách về số chữ trong
câu thơ và sự đổi nhịp trong câu thơ, đoạn thơ.
Những bài thơ của Mộng Tuyết trong tập Hương
xuân: Em xấu hổ, Chơi vơi, Phấn hương rừng,
Ngấn yêu, Lời hoa dại, Đêm sóng gió... là minh
chứng. Đó là tình yêu trong sáng, chân thành của
một trái tim yêu hồn nhiên, ngây thơ được thể hiện
trong dòng cảm xúc dạt dào, nồng nàn bởi những
lời thơ rất đỗi đằm thắm, dịu dàng.

Chủ âm chính của Thơ mới là giọng điệu buồn
thương nhưng bên cạnh đó vẫn vang lên những giai
điệu yêu đời, những nguồn sống dạt dào mê say.
Cùng với Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, thơ của
Anh Thơ là bức tranh tươi tắn về làng quê. Bức
tranh quê của Anh Thơ vẽ nên bức tranh làng quê
tĩnh lặng, dấu ấn văn hóa của nền nơng nghiệp đậm
đặc trong những vần thơ của nữ sĩ. Bắt gặp trong

bức tranh thơ là chất giọng nhẹ nhàng, tâm tình của
người con trở về phong cảnh làng quê. Đó là lời kể
lể thỏ thẻ giàu nữ tính trong Chợ ngày xuân:

Việc lựa chọn và sử dụng ngơn ngữ góp phần quan
trọng trong việc lột tả sâu sắc thế giới nội cảm của nhà
thơ, giọng điệu thơ có sức chi phối rất lớn trong việc
lựa chọn ngơn ngữ thể hiện. Tâm tình trong thơ Ngân
Giang chất phác, đậm đà như những hình ảnh phản
chiếu từ chiếc gương trong sáng. Trong thơ bà, người
đọc thấy thấp thống những “bến nước”, “con đị” gợi
lên sự biệt li của người bạn đời Ngân Giang: “Từ buổi
sang sơng với chuyến đị/ Vui gì khi lỡ mối dun tơ”
(Sang sơng)

Cau thẳng mình dang lá đón mưa rơi.

Trên những giải lưng chiều bay phất phới
Các cô nàng lơ lẳng nón quai thao
Các cơ gái chen nhau vào vui vẻ
Nghe thánh truyền sắp dắt mối lương duyên.
Hay chất giọng mềm mại, êm ái giàu tính nữ:
Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội
(Mưa - Anh Thơ)
Những cơn mưa mềm mại, tưới mát những khóm
tre, cây cau, bụi chuối… Tất cả được cảm nhận
bằng những ánh nhìn rất nữ tính. Đây đó, ta bắt
gặp nét yểu điệu duyên dáng của những cô thôn
nữ làm cho những câu thơ thêm uyển chuyển
duyên dáng.

Thơ Anh Thơ hấp dẫn bạn đọc ở sự đa dạng của
giọng điệu: có lúc giọng thơ mềm mại, nhẹ nhàng,
sâu lắng rất gần với ca dao dân ca; có lúc là giọng
điệu trữ tình, tha thiết; lúc khác, ta lại bắt gặp một
giọng thơ trẻ trung, khỏe khoắn, tự tin, tràn đầy lạc
quan. Có sự khác nhau đó là do yêu cầu thể hiện
của mỗi đề tài và cung độ cảm xúc của tác giả điều này cũng đã tạo nên nét riêng, nét đáng quý
để làm nên một Anh Thơ độc đáo trên thi đàn văn
học Việt Nam.

Người buồn, cảnh như buồn theo lòng người.
Cảnh vật phủ màu ảm đạm, niềm thương nỗi nhớ
xâm chiếm tâm hồn nhà thơ. Nàng mượn cảnh để
tỏ lịng mình:
Đề thơ nước mắt ứa theo dịng
Non nước ai người có biết khơng?
Một kẻ đương ngồi bên cánh cửa
Mà bao mưa gió ở trong lịng.

Ghi nhận đóng góp của những gương mặt thơ ca
nữ trong phong trào Thơ mới, có thể bạn đọc
khơng nhắc đến họ như những cây đại thụ, như
những phong cách nghệ thuật mang đậm dấu ấn
cá tính. Nhưng họ đã hiện diện trong phong trào
Thơ mới bằng dấu ấn của một hồn thơ mang đậm
phong vị Á Đông ngọt ngào, êm dịu, với những
tình cảm nồng ấm về tình yêu gia đình, con người
và làng quê đất Việt. Họ tạo dấu ấn riêng biệt, làm

(Chiều nay - Ngân Giang)

Không gian trống trải, cánh bướm bay thẩn thơ,
lòng nàng dậy lên bao xúc cảm, ngậm ngùi. Những
năm tháng chờ đợi, giảm đi xuân sắc nhưng tình
người vẫn dạ thủy chung. Niềm nhớ thương đã
chơn chặt cõi lịng mấy thu. Nàng một mình âm
thầm, lịng ngổn ngang biết giãi bày cùng ai… Thơ
của Ngân Giang đậm đà tình ý, lời thơ thanh thoát,
chất giọng nhẹ nhàng rung cảm người đọc.
111


An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 14 (2), 103 – 112

nên nét độc đáo trong phong cách sáng tạo của
các nhà thơ nữ.

dung dị, chân chất; giọng điệu thanh thoát, thâm
trầm được vun đắp từ truyền thống, khơi mạch
nguồn cho thơ nữ hiện đại hôm nay.

3. KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Cảm hứng sáng tác khơi nguồn từ cuộc sống, từ
những chi tiết đời thường, thơ nữ luôn mang hơi thở
thời đại. Thơ nữ vừa hiện đại, vừa quen thuộc gần
gũi mà vẫn chuyển tải trọn vẹn cảm xúc của cá nhân,
của thời đại. Những nỗi niềm sâu kín, những trăn
trở, băn khoăn, những cảm xúc tinh tế, những vẻ đẹp

thoáng qua của đời thường đã được gửi gắm qua
những câu thơ ngắn ngủi mà lay động lòng người.
Nghiên cứu thơ của các nhà thơ nữ để thấy được tâm
hồn Việt đã gắn kết sống động, nhuần nhuyễn.
Những bài thơ của các nhà thơ nữ kết đọng cảm xúc,
tạo nên giọng điệu nồng nàn, tha thiết bởi vần điệu,
ngơn ngữ, kết cấu bài thơ đa dạng.

Hồi Thanh, Hồi Chân. (2000) (Tái bản). Thi nhân
Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
Lại Nguyên Ân. (Tập hợp và biên soạn). (1998).
Thơ mới 1932 - 1945, Tác giả và tác phẩm. Hà
Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Lê Duy Anh, Lê Quang Vinh. (2006). Nữ lưu đất Việt (từ
cổ đại đến cận đại). Nhà xuất bản Đà Nẵng.
Lưu Khánh Thơ. (2005). Thơ và một số gương mặt
thơ Việt Nam hiện đại. Hà Nội: Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội.
Mã Giang Lân. (2005). Những cuộc tranh luận văn
học nửa đầu thế kỷ XX. Hà Nội: Nhà xuất bản
Văn hố Thơng tin.

Hiển hiện trong thơ của mỗi nhà thơ nữ là giọng
điệu, tình ý riêng của mỗi người. Dẫu có bài chưa
hay, chưa gợi cảm xúc nhưng người u thơ
khơng khó nhận ra vẻ đẹp chung của tập thơ từ
những bài thơ cụ thể: cảm hứng thổ lộ, giãi bày;
cảm xúc chân thành, đằm sâu và giọng thơ uyển
chuyển, nhẹ nhàng, thủ thỉ… Thơ nữ là tiếng
nói bình dị, khiêm nhường nhưng lạ và riêng

trong phong trào Thơ mới. Đó chính là nền tảng,
nguồn mạch xuyên suốt, ý thơ dân dã, hồn thơ
.

Nguyễn Đăng Điệp. (2002). Nhìn lại văn học Việt
Nam thế kỷ XX. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia.
Phạm Xuân Độ. (1959). Nữ thi hào Việt Nam. Sài Gòn:
Trung tâm học liệu xuất bản.
Vũ Văn Sỹ. (2005). Mạch thơ trong nguồn thế kỷ.
Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội

112



×