Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 ở trường tiểu học nga phượng 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
"Kỹ năng sống" là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng
xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống. {Có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu
giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành
mạnh. Người có kỹ năng sống phù hợp sẽ ln vững vàng trước những khó
khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù
hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn u đời và làm chủ cuộc
sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng sống thường bị vấp váp, dễ
bị thất bại trong cuộc sống.} (GDKNS trong các môn học ở Tiểu học - Tài liệu
dành cho giáo viên lớp 2.)
Nhưng thực trạng hiện nay, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở các
trường tiểu học cũng hạn chế, chưa có nét chuyển biến rõ rệt, về tư tưởng của
phụ huynh và giáo viên chỉ chú trọng vào việc dạy kiến thức văn hóa, việc dạy
và rèn kĩ năng sống cho các em cũng mang tính hình thức cho có. Giáo dục kĩ
năng sống chưa được quan tâm đúng mức nên đa phần học sinh ở các cấp học
phổ thông và cả những học sinh tốt nghiệp các trường đại học kĩ năng sống cũng
hạn chế, nhiều em hành xử những việc cơ bản nhất cũng không biết, một số học
sinh cũng có tính ích kỉ khơng đồn kết với bạn, nhiều em nói tự do với thái độ
cử chỉ chưa lễ phép với người lớn, chính vì thế trong những năm gần đây vấn đề
bạo lực học đường có nguy cơ gia tăng, học sinh vi phạm pháp luật xuất hiện ở
rất nhiều lứa tuổi, điều này là nỗi lo của phụ huynh, thầy cô và cả xã hội.
Học sinh tiểu học, nhất là các em ở các lớp đầu cấp rất hiếu động, hay bắt
chước, dễ bị lôi cuốn với các diễn biến của môi trường xung quanh khi các em
nhìn thấy. Vì vậy, đối với lứa tuổi này, giáo viên và các bậc cha mẹ phải hết sức
quan tâm, gẫn gũi với các em, phát hiện những biểu hiện lệch lạc, chia sẻ kịp
thời những vướng mắc của các em, dạy cho các em biết phân biệt cái đúng, cái
sai, làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, nhắc nhở các em hành động theo chuẩn
mực đạo đức và thói quen đạo đức, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của các em, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, vận dụng kiến


thức vào thực tiễn, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho các em. Giáo dục kĩ
năng sống cho các em là một vấn đề cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo
viên, phụ huynh và các tổ chức hoạt động Đội trong nhà trường, địa phương.
Giáo dục kĩ năng sống là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết với các em
học sinh. Chính sự cần thiết ấy, tơi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp rèn kĩ
năng sống cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Nga Phượng 1”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp học sinh có hành vi thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp
hành pháp luật, …
- Giúp học sinh có khả năng thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ,
độc lập, tự tin khi giải quyết các vấn đề.
- Trang bị cho học sinh các kĩ năng cơ bản: Học để biết, Học để làm, Học
để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.

1


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh
tiểu học .
- Nghiên cứu thực trạng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2A,
trường Tiểu học Nga Phượng 1 huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Đọc các tài liệu có liên quan đến rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Quan sát tình hình thực tế việc rèn luyện kĩ năng sống tại nhà trường.
- Dự giờ đồng nghiệp.
*Phương pháp thực nghiệm:
- Vận dụng những kinh nghiệm dạy tại lớp.

- Rút kinh nghiệm tại trường.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận.
Đặc điểm về thể chất của trẻ. Cơ thể trẻ em là nền tảng vật chất của trí tuệ
và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển
tốt. Trẻ có thể lực yếu hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào người thân những việc làm
tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm tự lập dần: rửa chân tay, mặc quần áo...
Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến việc tự lập của học sinh là hệ thần kinh của
trẻ. Hệ thần kinh của trẻ tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh. Khả năng
kìm hãm của hệ thần kinh cịn yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần kinh của các
em đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các em dễ bị kích thích. Thầy cơ
giáo và cha mẹ cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính tự chủ,
lịng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích thích của hồn cảnh
xung quanh.
Khi trẻ bắt đầu học tiểu học, các em phải tiến hành hoạt động học - hoạt
động có kỉ cương, nề nếp với những yêu cầu nghiêm ngặt. Chuyển từ hoạt động
chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập; trẻ không tránh khỏi bỡ
ngỡ.
Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác, chú ý, trí
nhớ, tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm: tính cách,
nhu cầu nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ
ảnh hưởng lớn đến phát triển nhân cách, việc hình thành và rèn luyện kĩ năng
sống. Một đặc điểm quan trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước.
Tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ bắt chước cả cái tốt và cái xấu.
Các dạng hoạt động của trẻ em được thực hiện trong các quan hệ: trẻ em gia đình, trẻ em - đồ vật, trẻ em - nhà trường, trẻ em - xã hội. Trong đó, quan hệ
thầy trị là mối quan hệ đặc biệt. Ở tiểu học, hành vi cử chỉ của người thầy ảnh
hưởng rất lớn đến học sinh. Các em tin tưởng tuyệt đối ở thầy cô giáo nên chúng
thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy cơ giáo mình. Vì thế những
hành vi và cử chỉ của thầy cô phải luôn chuẩn mực. Ở trường, các em còn được
tiếp xúc với bạn bè, với tập thể; những hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng khơng

ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ.
2


- Đặc điểm sinh lý trẻ:
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho học sinh, người giáo viên không những
cần am hiểu về tâm lý trẻ mà cịn phải có kiến thức về sinh lý trẻ em.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu và phân loại hoạt động thần kinh ở trẻ:
* Loại hình thần kinh mạnh, cân bằng, hưng phấn tối ưu, nhanh. Đặc điểm
của loại hình thần kinh này là các phản xạ có điều kiện được hình thành bền
vững; ngôn ngữ trẻ phát triển rất tốt với khối lượng từ lớn.
* Loại hình thần kinh mạnh, khơng cần bằng, hưng phấn tăng, kém kiềm
chế. Đặc điểm của trẻ em thuộc nhóm này là q trình hưng phấn mạnh, ức chế
yếu. Các em rất dễ bị xúc động. Cũng do hưng phấn mạnh nên chúng nóng nảy
hay cáu gắt. Trẻ em thuộc nhóm này thường hay nói nhanh và hét trong khi nói.
* Loại hình thần kinh mạnh, cân bằng, chậm. Đặc điểm trẻ em thuộc nhóm
này là chậm chạp. Chúng nhanh biết nói nhưng hay nói chậm. Đây là những đứa
trẻ tích cực và kiên trì khi thực hiện bất kì một nhiệm vụ khó khăn nào.
* Loại hình thần kinh yếu với quá trình hưng phấn giảm. Q trình hình
thành phản xạ có điều kiện ở trẻ em thuộc nhóm này rất khó khăn. Trẻ chóng bị
mệt mỏi, khơng chịu được tác động của các kích thích mạnh và kéo dài.
Trên cơ sở những hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, người giáo viên có thể phân loại
nhóm học sinh và tìm các biện pháp phù hợp với các đối tượng học sinh.
2.2. Thực trạng của việc dạy kĩ năng sống trong trường Tiểu học Nga
Phượng 1.
2.2.1: Công tác chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực hiện:
Trong những năm gần đây, thực hiện các văn bản chỉ đạo của các cấp,
ngành về việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Ban giám hiệu trường tiểu
học Nga Phương 1 đã rất chú trọng, quan tâm sâu sát đối với việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh bằng cách tổ chức học chuyên đề lồng ghép kỹ năng

sống vào các môn học và tổ chức rất nhiều các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hàng
tháng ban giám hiệu nhà trường kiểm tra kế hoạch của giáo viên tổng phụ trách
đội xây dựng, nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa nắm vững
tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi vì:
- Giáo viên chưa nắm hết bản chất, nội dung, vai trò của giáo dục kĩ năng
sống đối với học sinh tiểu học. Giáo viên còn mơ hồ trong việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh, hiểu một cách đơn giản: dạy kĩ năng sống là liên hệ, là tuyên
truyền giáo dục lồng ghép trong các bài học ở các mơn học nếu có liên quan.
- Trong kế hoạch bài dạy của giáo viên đã có lồng phần nội dung giáo dục
kĩ năng sống, nhưng sơ sài, qua loa, chiếu lệ.
- Mỗi giáo viên đều có kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp theo năm,
tháng và theo chủ đề. Hàng tháng có tổ chức cho học sinh hoạt động tuy nhiên
còn giáo viên còn ngại đầu tư nên kết quả chưa cao.Việc tổ chức cho học sinh
tham gia sân chơi đầu tuần phó mặc cho Đội và học sinh tự tìm hiểu.
2.2.2.Về phía học sinh:
Trong thực tế của xã hội hiện nay mỗi gia đình chỉ có một đến hai con, nền
kinh tế được phát triển khá hơn trước nên các em được ông bà, bố mẹ cưng
chiều, chăm sóc từng li từng tí, các em cần gì đều được ơng bà, bố mẹ đáp ứng
đầy đủ và do điều kiện công việc bố mẹ phải đi làm ăn xa phần nhiều các em ở
3


nhà với ông bà nên thời gian mà bố mẹ gần gũi để chia sẻ những vướng mắc
trong sinh hoạt hàng ngày của các em cịn ít, bố mẹ chỉ quan tâm đến việc học
văn hóa của con em mình, các mặt giáo dục khác đều phó mặc cho giáo viên và
nhà trường. Chính vì vậy, học sinh lớp tơi rất tự tin về kiến thức văn hóa, cịn
trong sinh hoạt hàng ngày nhiều em thiếu nhiều kỹ năng sống như:
Kĩ năng giao tiếp: khơng có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với
người khác, thậm chí có nhiều em cịn khơng dám nói hoặc khơng biết nói lời
xin lỗi khi các em làm sai, còn chơi một số trò chơi nguy hiểm trong nhà trường,

Một số học sinh gặp thầy cơ giáo khác trong và ngồi nhà trường không chào
hỏi.
Kĩ năng hợp tác: Một bộ phận học sinh các kĩ năng nghe nói, đọc, viết, chia
sẻ trong nhóm, nói trược đám đơng cịn hạn chế.
Kĩ năng ra quyết định: Một bộ phận HS cịn có biểu hiện, việc làm không
lành mạnh với bạn trong trường: ăn cắp vặt, gán ghép đơi, nói tục, ăn q…
Kĩ năng tự phục vụ: nhiều em chưa biết soạn sách vở theo thời khóa biểu,
khơng biết cầm chổi qt lớp, khơng biết nhổ cỏ, dọn vệ sinh lớp học, sân
trường, vệ sinh cá nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm của một số em chưa cao…
2.2.3 Kết quả khảo sát kĩ năng sống của học sinh:
Với những thực trạng trên, sau một tháng theo dõi học sinh, tơi đã phân
nhóm, đánh giá về thực hiện kĩ năng sống của lớp 2A do tôi chủ nhiệm (tại thời
điểm đầu tháng 10 năm 2020 ) như sau:
Sĩ số
33

Sĩ số

33

Tắm gội, vệ sinh cá nhân,
mặc quần áo
Tự giác làm
Cần người nhắc
SL
%
SL
%

Tự giác làm

SL
%

13

10

39,4

20

60,6

Học ở nhà

30,3

Cần người nhắc
SL
%
23

66,7

Ứng xử trong tình huống trị
chơi tập thể
Chưa biết lắng Biết ứng xử hài Khơng tham gia,
nghe, khơng tham hịa, khá phù tranh giành, cãi
gia
hợp

cọ, xô đẩy nhau
SL
%
SL
%
SL
%
21
63,6
15
45,5
18
54,5

Thực hành thảo luận nhóm
Lắng nghe
tích cực, hợp
tác
SL
%
12
36,4

Như vậy, qua bảng số liệu trên việc quan tâm đến công tác giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh để đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện là việc làm rất
cần thiết. Mà việc hình thành cho học sinh kĩ năng sống là nhiệm vụ của gia
đình, nhà trường và xã hội. Đối với học sinh tiểu học, vai trò của nhà trường
trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là vô cùng quan trọng.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vai trò của
người giáo viên chủ nhiệm là quyết định. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn nghiên

cứu, vận dụng “Một số giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 ở trường
Tiểu học Nga Phượng 1”.
4


2.3. Các giải pháp thực hiện.
2.3.1. Làm tốt công tác bồi dưỡng, tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức về vai trò của giáo dục kĩ năng sống cho giáo viên, phụ huynh
của lớp phụ trách.
Muốn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả, trước hết bản thân
giáo viên phải hiểu và nắm vững vai trò của giáo dục kĩ năng sống với học sinh
tiểu học. Vì vậy, khi nhà trường triển khai các đợt tập huấn, bản thân tơi tích cực
tham gia học tập, bên cạnh đó tơi đã khơng ngừng tự tìm tịi nghiên cứu tài liệu,
dự giờ để học hỏi các đồng nghiệp về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và tự
nhận thức về giáo dục kĩ năng sống đối với học sinh tiểu học là vơ cùng quan
trọng. Chính vì sự tự học, tự bồi dưỡng như vậy, bản thân tôi tự nhận thấy rằng
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khơng phải tự một mình làm được mà
phải có phối hợp với phụ huynh học sinh lớp phụ trách. Vì vậy, tơi đã tun
truyền về tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống giúp cho các bậc phụ
huynh nâng cao được nhận thức để cùng phối hợp với giáo viên giáo dục các em
đạt kết quả tốt nhất.
Đầu năm học, tôi nghiên cứu các tài liệu Rèn kĩ năng sống cho học sinh
Tiểu học, do Bộ Giáo dục - Đào tạo triển khai, qua đó giúp tơi hiểu được rằng
chương trình học chính khố thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn
hoá trong suốt năm học, còn thực tế học sinh sẽ học tốt nhất khi có được cách
tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc
và xã hội. Vì thế, khi học sinh tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và
các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì các em sẽ nhanh chóng sẵn sàng
và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
- Trong buổi họp phụ huynh đầu năm học của lớp, tôi chia sẻ cho phụ

huynh hiểu được các phương pháp rèn cho các em học ở nhà và đã triển khai
cách đánh giá học sinh tiểu học theo TT22/2016/ TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9
năm 2016 vì trong thơng tư có cách đánh giá phẩm chất, năng lực để phụ huynh
cùng kết hợp theo dõi đánh giá về con em mình.
- Trước khi hội nghị phụ huynh đầu năm, tơi đã tìm hiểu, sưu tầm tài liệu để
trao đổi cùng với phụ huynh về một số kỹ năng sống cơ bản cần rèn luyện cho
học sinh.
Ví dụ: Trao đổi cùng với phụ huynh một số kĩ năng sống cơ bản của con em
mình như:
+ Kĩ năng tự phục vụ: Giúp các biết tự phục vụ bản thân như trang phục
đúng quy định của nhà trường, biết soạn sách vở, biết vệ sinh cá nhân, làm
những việc vừa sức mình.
+ Kĩ năng giao tiếp: Cần giúp các em về cách chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin
lỗi, biết quan tâm giúp đỡ, chia sẻ với mọi người trong học tập và sinh hoạt…
+ Kĩ năng tự nhận thức: Đối với học sinh lớp 2, giúp cho các em nhận thức
đúng việc học tập ở lớp, ở nhà như thế nào? Nên chơi những trị chơi có lợi,
tránh những trị chơi nguy hiểm…
+ Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Giúp học sinh ý thức được nhu cầu cần giúp
đỡ, xác định được địa chỉ hỗ trợ tin cậy, cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng và
ngắn gọn.
5


+ Kĩ năng hợp tác: Giúp học sinh biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm, tơn trọng những
quyết định chung của nhóm…
- Hàng ngày ở trên lớp, tơi đã tạo ra các nhóm học tập theo từng đối tượng
để học sinh được đánh giá lẫn nhau. Giáo viên tập trung đánh giá sự tiến bộ của
học sinh, coi trọng sự động viên khuyến khích học sinh để giúp học sinh tích cực
và vượt khó trong học tập, rèn luyện, giúp học sinh phát huy tất cả những khả

năng đảm bảo công bằng, kịp thời và khách quan theo đúng Thơng tư 22.

Học sinh học tập theo nhóm.
- Bản thân tôi tự nhận thấy, khi đi sâu nghiên cứu giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh thì cần phải kiên trì, tâm huyết, dành nhiều thời gian cho cơng việc thì
mới có kết quả như mong muốn. Vì giáo dục kĩ năng sống đóng một vai trị vơ
cùng quan trọng đối với việc hình thành phát triển con người toàn diện.
+ Nâng cao nhận thức cho phụ huynh để phụ huynh thấy được tầm quan
trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Chính sự thay đổi về nhận
thức mà các bậc phụ huynh đã đồng tình ủng hộ và quan tâm đến hướng dẫn tập
thói quen cho con em mình.
+ Học sinh chuyển biến rõ rệt về nề nếp, vệ sinh cá nhân, ý thức chấp hành,
lễ phép chào hỏi, vui chơi an toàn, thân thiện tự tin, tất cả học sinh lớp tôi chủ
nhiệm mạnh dạn tham gia học tập vui chơi…
2.3.2. Rèn kỹ năng sống thông qua các môn học.
Giáo dục kĩ năng sống là một nội dung rất quan trọng và thiết thực trong
chiến lược giáo dục toàn diện của một nền giáo dục tiên tiến. Vì vậy giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua các môn học là một nội dung thiết
yếu mà bất cứ nhà trường nào cũng phải quan tâm đến. Thông qua nội dung bài
học, cách tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên hình thành và xây dựng cho
các em các kĩ năng sống như: quan sát, nhận xét, giao tiếp, phân tích, ....Việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được thực hiện thông qua dạy học các môn
học và tổ chức các hoạt động giáo dục, nhưng không phải là lồng ghép, tích hợp
6


thêm kinh nghiệm sống vào nội dung các môn học và hoạt động giáo dục một
cách quá tải, mà theo một cách tiếp cận mới.
Tôi đã sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều
kiện, cơ hội cho học sinh thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong q trình

học tập. Từ đó lồng ghép một cách nhẹ nhàng những kinh nghiệm sống vào bài
học đến từng đối tượng học sinh. Trong quá trình dạy lồng ghép kĩ năng sống
cho học sinh thông qua các môn học tôi khơi gợi và phát huy sự tham gia của
các em bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên. Tôi tuyệt đối không áp dụng ý
kiến hay suy nghĩ chủ quan của giáo viên, khơng phê bình hay đánh giá khi các
em làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin và hồ nhập
cùng bạn bè vì ở lứa tuổi này các em rất muốn thể hiện mình. Chuyên gia tâm lí
học người Nga Dorothy Holte đã nói: “Nếu trẻ sống với sự phê bình, thì trẻ sẽ
học cách chỉ trích”. Do đó việc phê bình, chỉ trích là tối kị trong việc giáo dục
nói chung và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 nói riêng.
a. Rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt:
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở
học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy và học mơn Tiếng Việt
góp phần rèn luyện thao tác tư duy, góp phần mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã
hội và con người. Kĩ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt là kĩ
năng giao tiếp, sau đó là kĩ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung
quanh, tự nhận thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, có
nhiều bài học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục các kĩ năng giao
tiếp xã hội như:
* Phân môn Tập đọc: Tuần 1: Có cơng mài sắt có ngày nên kim.
Tuần 22: Một trí khơn hơn trăm trí khơn.
Tuần 30: Ai ngoan sẽ được thưởng.
* Phân môn TLV: Tuần 2: Chào hỏi. Tự giới thiệu.
Tuần 4: Cảm ơn, xin lỗi.
Tuần 11: Chia buồn, an ủi.
Tuần 19: Đáp lời chào, lời tự giới thiệu.
Tuần 33: Đáp lời an ủi. Kể chuyện được chứng kiến.
Khả năng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của môn Tiếng Việt không chỉ
thể hiện ở nội dung môn học mà còn được thể hiện qua phương pháp của giáo

viên. Để hình thành các kiến thức và kĩ năng mà chương trình mơn Tiếng Việt
đặt ra với học sinh Tiểu học, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy
tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi
học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động
nhóm, phương pháp hỏi - đáp. Thơng qua các hoạt động học tập, học sinh được
phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai... Các
em có cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kinh nghiệm sống cần thiết.
Ví dụ 1: Luyện từ và câu tuần 16: Từ ngữ về vật nuôi. Câu kiểu Ai thế nào?
Tôi đã áp dụng kĩ thuật khăn trải bàn khi cho học sinh làm bài tập 2 (Tìm từ
trái nghĩa với mỗi từ sau: tốt, ngoan, nhanh, trắng, cao, khoẻ) thông qua phiếu
học tập sau:
7


Tôi thiết kế phiếu học tập như trên với mục đích là khi thảo luận nhóm, 100%
học sinh được làm việc cá nhân, khơng có học sinh ngồi chơi. Tác dụng thứ hai
là rèn luyện cho học sinh kĩ năng trao đổi, thảo luận, thống nhất ý kiến.
Ví dụ 2: TLV tuần 33: Đáp lời an ủi. Kể chuyện được chứng kiến.
Tơi cho học sinh sắm vai để nói lời đáp trong các tình huống. Thơng qua hình
thức sắm vai, học sinh được phát triển kĩ năng làm việc theo nhóm, trình bày
trước lớp, lắng nghe tích cực…
Sau những tiết học như vậy, tôi thấy các em mạnh dạn, tự tin áp dụng vào
thực tế khi nhận được lời an ủi, động viên từ ông bà, bố mẹ, thầy cô, bạn bè…
b. Rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn Đạo đức:
Bản thân nội dung môn Đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến
kĩ năng sống như: kĩ năng giao tiếp, ứng xử (với ông, bà, cha, mẹ, anh chị em,
bạn bè, thầy cô giáo và mọi người xung quanh), kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản
thân, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi, kĩ năng
giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lý thời gian, kĩ năng thu
thập và xử lý thông tin về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, ở

cộng đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức. Việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh lớp 2 trong môn Đạo đức nhằm bước đầu trang bị cho học
sinh các kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi Tiểu học, giúp các em biết
sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với những người thân trong gia
đình, với thầy cơ giáo, bạn bè và những người xung quanh; với cộng đồng, quê
hương, đất nước và với môi trường tự nhiên; giúp các em bước đầu biết sống
tích cực, chủ động, có mục đích, có kế hoạch, tự trọng, tự tin, có kỉ luật, biết hợp
tác, tiết kiệm, gọn gàng, ngăn nắp, vệ sinh, để trở thành người con ngoan trong
gia đình, học sinh tích cực của nhà trường và công dân tốt của xã hội.
Khả năng hình thành và giáo dục các kĩ năng sống cho học sinh của môn Đạo
đức không những thể hiện ở nội dung mơn học mà cịn thể hiện ở phương pháp
dạy học đặc trưng của môn học. Để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở
thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh, tôi đã áp dụng
phương pháp dạy học môn Đạo đức theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Tôi tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động
học tập phong phú đa dạng như: Kể chuyện theo tranh, quan sát tranh ảnh, phân
tích, xử lý tình huống; chơi trị chơi, đóng tiểu phẩm, múa, hát, đọc thơ, vẽ
tranh....Thơng qua các hoạt động đó sự tương tác giữa GV - HS, HS - HS được
tăng cường và học sinh có thể tự phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới. Các
phương pháp và kĩ thuật dạy học môn Đạo đức rất đa dạng, bao gồm nhiều
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án; giải
quyết vấn đề, đóng vai, trị chơi, động não, mảnh ghép ....Và chính thơng qua
việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, học sinh đã được tạo
cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa
tuổi. Tuỳ từng bài học, tôi đã giáo dục kĩ năng phù hợp cho các em.
Ví dụ 1: Bài 10: Biết nói lời yêu cầu, đề nghị.
Để giúp học sinh biết cách ứng xử phù hợp khi muốn sử dụng đồ dùng học
tập của bạn, tôi đã quay các clip để học sinh bày tỏ ý kiến bằng cách giơ thẻ.
Clip1: học sinh cứ lấy đồ dùng của bạn mà không hỏi mượn.
8



Clip 2: học sinh cứ lấy đồ của bạn rồi hỏi mượn sau.
Clip 3: học sinh vừa hỏi vừa lấy đồ để dùng, khơng cần biết bạn có đồng ý
khơng.
Clip 4: học sinh hỏi mượn lịch sự, bạn cho phép mới lấy để dùng.
Được quan sát, phân tích kĩ từng cách xử lí trong một tình huống, học sinh
khắc sâu cách ứng xử phù hợp khi muốn mượn đồ dùng của các bạn. Sau tiết
học này tôi thấy nhiều học sinh có chuyển biến rõ rệt trong giao tiếp với bạn bè.
Các em biết nói lời đề nghị phù hợp với tình huống (mượn đồ, nhờ bạn giảng
bài, nhờ bạn đứng lên để đi vào chỗ…)
Ví dụ 2: Bài 12: Lịch sự khi đến nhà người khác.
Cuối tiết 2, để giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, kĩ năng bài học, tôi
tổ chức cho các em tham gia trò chơi mang tên “Cây thanh lịch”. Lớp được chia
thành 4 đội. Các em sẽ thảo luận nhóm để gắn những hành vi đúng, nên làm vào
cây thanh lịch. Đội nào làm đúng, nhanh nhất sẽ được gắn lên bảng lớp chữa bài,
các đội khác sẽ gắn bảng ở góc học tập của nhóm mình. “Cây thanh lịch” với
các hành vi đúng sẽ được lưu lại ở góc học tập trong tuần học đó để mỗi ngày
đến lớp học sinh đều được nhìn thấy. Những hành vi đúng đó sẽ tự động đi vào
tiềm thức của các em và biến thành hành vi thực của các em trong đời sống.
Điều này đã được phụ huynh phản hồi lại với giáo viên khi thấy các em có
những chuyển biển rõ nét.
c. Rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tự nhiên và xã hội:
Môn Tự nhiên và xã hội ở lớp 2 là một mơn học giúp HS có một số kiến thức
cơ bản ban đầu về con người và sức khoẻ, về một số sự vật, hiện tượng đơn giản
trong tự nhiên - xã hội. Chú trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng
trong học tập như: quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, đặt câu hỏi và diễn đạt hiểu
biết của bản thân về các sự vật, hiện tương đơn giản trong tự nhiên và trong xã
hội. Đặc biệt môn học giúp HS xây dựng các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho
bản thân, gia đình và cộng đồng; yêu gia đình, quê hương, trường học và có thái

độ thân thiện với thiên nhiên.
Cùng với kiến thức cơ bản về con người, về Tự nhiên- xã hội, việc giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh qua mơn Tự nhiên và xã hội sẽ góp phần không chỉ
khắc sâu thêm các kiến thức của môn học mà cịn hình thành thái độ và hành vi
tích cực, phù hợp, cần thiết giúp học sinh có thể ứng xử có hiệu quả các tình
huống thực tế trong cuộc sống.
Ví dụ: Bài Tuần 24: Cây sống ở đâu?
Khi dạy tiết học này, tôi dạy theo phương pháp Bàn tay nặn bột. Học sinh
được chủ động chiếm lĩnh kiến thức mới. Hoạt động nhóm được phát huy rất
tích cực. Các em có sự giao lưu với bạn trong nhóm, trong lớp, phản biện, bổ
sung kiến thức cho nhau từ đó tìm ra kết luận của bài học. 100% học sinh trong
lớp đều hào hứng tham gia các hoạt động trong tiết học vì các em được chủ động
nghiên cứu tài liệu, trao đổi để tìm ra kiến thức. Với cách dạy học này, tôi muốn
phát triển, bồi dưỡng cho học sinh niềm đam mê nghiên cứu, tìm tịi các sự vật,
hiện tượng trong cuộc sống.

9


Bằng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các môn học,
tôi đã giúp các em hình thành, xây dựng và rèn các kĩ năng sống cần thiết để các
em tự giải quyết được các vấn đề trong học tập và cuộc sống hàng ngày.
2.3.3 Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua tổ chức hoạt động Giáo
dục ngoài giờ lên lớp.
Đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cần
định hướng vào việc phát triển tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh,
khả năng hoạt động độc lập, khả năng tự đề xuất và giải quyết vấn đề trong hoạt
động cũng như khả năng tự kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động của các em. Nói
cách khác đó là khả năng tham gia vào các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
của học sinh. Sự tham gia của học sinh tạo điều kiện cho các em phát huy tinh

thần trách nhiệm trong việc tổ chức và điều khiển hoạt động của tập thể.
Tổ chức hiệu quả hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần củng cố,
khắc sâu và phát triển những kiến thức học sinh đã học qua các mơn văn hố.
Tạo cơ hội cho học sinh được tham gia vào đời sống cộng đồng, vận dụng
những kiến thức đã học vào trong cuộc sống thực tiễn. Trên cơ sở đó, phát triển
vốn tri thức về các lĩnh vực đời sống xã hội cho học sinh; góp phần phát triển
tồn diện nhân cách cho các em. Tạo cơ hội cho học sinh được thực hành, trãi
nghiệm trong các tình huống của cuộc sống, phát triển ở học sinh các kỹ năng
sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được tổ chức phong phú sẽ tác động
tích cực đến nhận thức, tình cảm, niềm tin hành vi của học sinh; tạo cơ hội cho
các em được thể hiện, bộc lộ, tự khẳng định bản thân; được giao lưu, học hỏi
bạn bè. Từ đó các em được phát triển kỹ năng sống, những phẩm chất tích cực
như tinh thần đồng đội, khả năng hợp tác, tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm,
tình cảm nhân ái, sự cảm thơng, tính quả quyết, tư duy phê phán, tư duy sáng
tạo. Những nét nhân cách này chính là nền tảng quan trọng cho việc hình thành
các giá trị cốt lõi của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hố, hiện
đại hố.
Hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp phải phong phú đa
dạng, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và nhu cầu hoạt động của học sinh. Có thể
lựa chọn một số nội dung để tổ chức một buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp như: giao lưu văn nghệ; giao lưu hát dân ca; chơi các trò chơi dân gian; kể
chuyện; diễn tiểu phẩm; làm thơ và đọc thơ; thi học sinh thanh lịch; thi vẻ đẹp
đội viên; thi hùng biện; trang trí góc học tập, thiết kế đồ dùng học tập…Nội
dung của các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đều có tác dụng rèn kỹ năng
sống cho học sinh bao gồm các kỹ năng cơ bản sau: Kĩ năng tự nhận thức; Kĩ
năng xác định giá trị; Kĩ năng kiểm sốt cảm xúc; Kĩ năng ứng phó với căng
thẳng; Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ; Kĩ năng thể hiện sự tự tin; Kĩ năng giao tiếp;
Kĩ năng lắng nghe tích cực; Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng; Kĩ năng thương
lượng; Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn; Kĩ năng hợp tác; Kĩ năng tư duy phê phán;

Kĩ năng tư duy sáng tạo; Kĩ năng ra quyết định; Kĩ năng giải quyết vấn đề; Kĩ
năng kiên định; Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm; Kĩ năng đạt mục tiêu; Kĩ năng
quản lí thời gian; Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin. Ví dụ về một số nội dung
10


của hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp có vai trò rèn kĩ năng sống cho học
sinh:
* Các trò chơi dân gian được tổ chức riêng biệt hoặc lồng ghép trong các
buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Qua hoạt động trò chơi dân gian, nhà
tổ chức có thể đánh giá được tác dụng giáo dục của trị chơi và rèn kỹ năng sống
cho học sinh. Nhìn chung các trò chơi dân gian thường giáo dục trẻ cụ thể:
- Tính trung thực: Khi tổ chức hoạt động mang tính ngày hội thường là thi
tài năng giữa các lớp nên đòi hỏi các em khi tham gia phải trung thực. Các em ở
lứa tuổi này thường rất thích thể hiện mình và chuyện thắng thua rất là quan
trọng, nó nhằm mục đích tự khẳng định cá tính của các em nên khi tổ chức các
hoạt động cần phải chú ý đến đặc điểm này để có thể nhắc nhở các em kịp thời.
- Tính kỷ luật: Mỗi trị chơi đều có niêm luật riêng, các thành viên tham gia
chơi đều phải tuân thủ niêm luật nếu không sẽ không được tham gia chơi bởi do
đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi Tiểu học như đã trình bày ở trên.
- Tinh thần đồn kết, tính tập thể: Thơng qua trị chơi, các em học được kỹ
năng làm việc nhóm, hồ đồng với tập thể, ứng xử trước các tình huống... Trong
một số trị chơi nếu các em khơng thể hiện tính đồn kết thì khơng thể tham gia
được như: Rồng rắn lên mây, kéo co,…
- Tính dân tộc: Các trò chơi dân gian thường bắt nguồn từ những bài đồng
dao, một thể loại văn vần độc đáo của dân tộc. Đấy là những bài ca có nhịp điệu
đơn giản gieo vần một cách thoải mái, có thể ngắn dài bất kỳ hoặc lặp đi lặp lại
khơng dứt. Qua đó, các em có thể vừa học, vừa chơi. Đồng dao được cấu trúc
theo một lơgic riêng, đơi khi khơng có nghĩa gì cả, nhưng bằng tư duy liên
tưởng, trẻ em vẫn có thể nhập vào câu hát để dẫn đến những kết cục bất ngờ: cái

ngược đời, cái phi lý, lại có thể chấp nhận vì đấy là bài hát của trẻ em. Chính vì
đặc điểm này mà trị chơi dân gian giúp các em phát triển trí tưởng tượng và khả
năng liên tưởng rất tốt.

Giờ ra chơi các em đang chơi trò chơi “Rồng rắn lên mây”

11


Học sinh tham gia trò chơi “Mèo đuổi chuột”
* Hoạt động giao lưu văn nghệ rèn cho học sinh kỹ năng xác định giá trị.
Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân
mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân
trong cuộc sống. Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể
thuộc các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế. Kĩ năng xác định giá trị
là khả năng của con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kỹ
năng xác định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi
người. Khi tham gia giao lưu văn nghệ các em cảm nhận được giá trị của mơn
nghệ thuật mà mình đang biểu diễn cũng như đang xem. Từ đó các em có thể
hồ mình vào từng lời ca, điệu múa của môn nghệ thuật.
Hoạt động giao lưu văn nghệ rèn cho học sinh kỹ năng thể hiện sự tự tin.
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể
trở thành một người có ích và tích cực, có niềm vào tương lai, cảm thấy có nghị
lực để hoàn thành các nhiệm vụ. Khi các em bước ra sân khấu biểu diễn trước
đông người các em sẽ rèn được kỹ năng tự tin, biểu diễn được mạnh dạn hơn, tự
nhiên hơn, thuần thục hơn.
Hoạt động giao lưu văn nghệ rèn cho học sinh kỹ năng hợp tác. Hợp tác là
cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh
vực nào đó vì mục đích chung. Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ
trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên

khác trong nhóm. Khi giao lưu văn nghệ sẽ rèn kỹ năng hợp tác cho các em, hợp
tác với dàn nhạc để hát múa đúng nhạc; hợp tác với bạn cùng diễn để hát đúng,
múa đúng nhịp. để hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên trong nhóm các em biết nỗ lực
phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được
phân cơng.
Ngồi ra, hoạt động giao lưu văn nghệ rèn cho học sinh rất nhiều kỹ năng
khác như kỹ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng đảm nhận trách nhiệm, kỹ năng đạt
mục tiêu, kĩ năng quản lí thời gian.

12


Học sinh giao lưu văn nghệ ngày 20 - 11
* Minh hoạ buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tháng 11 năm 2020.
Tháng 11 Chủ điểm: Biết ơn thầy cô
Tuần 10: Nội dung: Câu lạc bộ 20-11
I/ Mục đích giáo dục: Giúp các em
- Nhận thức sâu sắc ý nghĩa của ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11 và truyền
thống “Tơn sư trọng đạo” của dân tộc.
- Kính trọng và biết ơn thầy, cơ giáo.
- Tích cực học tập, rèn luyện để góp phần phát huy truyền thống “Tơn sư
trọng đạo” của dân tộc.
- Rèn kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng trình bày trước tập thể, kỹ năng xác
định giá trị, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sáng tạo.
II/ Nội dung và hình thức hoạt động
1. Nội dung hoạt động
- Tổng kết phong trào thi đua đợt 1 giữa các lớp đã được phát động từ đầu
năm học (Từ 5/9/2020 đến 20/11/2020)
- Các bài thuyết trình về chủ đề 20/11, ngày Nhà giáo Việt Nam.
- Những sáng tác tự biên, tự diễn của học sinh.

2. Hình thức hoạt động:
Chúc mừng thầy giáo, cô giáo.
Tuyên dương, phát thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích cao trong
phong trào thi đua.
Thi hùng biện.
Thi văn nghệ.
Thi đố vui chủ đề 20/11.
III/ Chuẩn bị hoạt động
1. Phương tiện hoạt động
- Các bản tổng kết phong trào thi đua giữa các lớp do các giáo viên chủ
nhiệm tổng kết và gửi cho Ban giám hiệu.
- Lời chúc mừng, hoa tặng thầy cô giáo – Ban chỉ huy liên đội phụ trách.
Một số bài hát, bài thơ, tiểu phẩm – mỗi lớp 1 tiết mục
13


Các câu hỏi thi đố vui. – Ban tổ chức đưa ra.
Các bài thuyết trình, mỗi lớp cử 1 học sinh viết và trình bày.
2. Tổ chức thực hiện
* Ban tổ chức:
+ Chuẩn bị nội dung câu hỏi, tình huống
+ Chuẩn bị phông màn, loa đài, nhạc cụ…
+ Phân công giáo viên Tổng phụ trách Đội phụ trách
+ Phân công ban giám khảo: Phó Hiệu trưởng và tổ trưởng 2 tổ chuyên môn
+ Phân công thư ký: Thư ký hội đồng và 2 giáo viên đặc thù
* Về phía giáo viên chủ nhiệm:
+ Thông báo nội dung, kế hoạch tổ chức hoạt động kỉ niệm Ngày Nhà giáo
Việt Nam 20-11.
+ Gợi ý cho HS các nội dung chính của hoạt động, theo dõi và điều chỉnh
các hoạt động cụ thể của học sinh cho phù hợp với điều kiện thực tế của lớp.

IV/ Tiến hành hoạt động
1. Khởi động:
- Tuyên bố lí do, giới thiệu đại biểu, giới thiệu chương trình
- Chương trình gồm có 3 phần:
* Kỷ niệm ngày nhà giáo Việt nam 20/11
* Tổng kết đợt thi đua, phát thưởng phong trào thi đua giữa các lớp.
* Sinh hoạt câu lạc bộ 20/11.
2. Chúc mừng các thầy cô giáo
- Đại diện học sinh đọc lời chúc mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam.
- Đội học sinh danh dự lên tặng hoa cho các thầy cô nhân ngày 20-11
3. Kỷ niệm ngày nhà giáo Việt nam 20/11
4. Tổng kết đợt thi đua, phát thưởng phong trào thi đua giữa các lớp.
5. Câu lạc bộ 20-11
Người dẫn chương trình giới thiệu nội dung của câu lạc bộ 20-11.Gồm 3
phần: Thi đố vui, Thi hùng biện, Thi văn nghệ
* Thi đố vui.
- Hình thức thi: Hái hoa kiến thức để bắt thăm trả lời câu hỏi:
H: Ngày Nhà giáo Việt Nam chính thức có từ ngày tháng năm nào?
H: Em/bạn hãy hát một bài hát, đọc thơ nói về Ngày nhà giáo Việt Nam.
H: Em/bạn hãy nêu 3 câu ca dao, tục ngữ nói về người thầy.
H: Em/bạn hãy cho biết tên của 3 nhà giáo ưu tú trong thời phong kiến.
H: Em/ bạn hiểu như thế nào về câu Tiên học lễ, hậu học văn?
H: Em/ bạn dự định sẽ làm gì để chúc mừng ngày Nhà giáo Việt Nam?
- Qua hoạt động thi đố vui rèn cho học sinh kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
xác định giá trị, kĩ năng thể hiện sự tự tin, Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng tư duy
sáng tạo, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đạt mục tiêu.
* Thi hùng biện:
Đề tài: Tri ân thầy cô; Kỷ niệm về thầy cô; Mái trường thân yêu, Cảm xúc
tháng 11
- Hình thức thi:

Mỗi lớp (từ lớp 3-5 em) lên hùng biện theo đề tài đã cho, thời gian 10 phút.
14


- Qua hoạt động thi hùng biện rèn cho học sinh kỹ năng kĩ năng thể hiện sự
tự tin, Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng
đạt mục tiêu, kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin, kĩ năng quản lí thời gian.
+ Thi văn nghệ:
Chủ đề: hát về thầy cơ, về mái trường, về kỷ niệm học trị
Hình thức: Mỗi lớp 1 tiết mục hát có múa phù hoạ
* Qua hoạt động thi văn nghệ rèn cho học sinh kỹ năng thể hiện sự tự tin,
Kĩ năng giao tiếp, Kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng đạt mục tiêu, kĩ năng hợp
tác, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng kiểm soát cảm xúc.
2.3.4. Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động trải
nghiệm.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, người học sẽ ghi nhớ tới 70%
những gì được học nếu được tự tay làm. Trong năm học 2020 - 2021, theo kế
hoạch của nhà trường, học sinh toàn trường sẽ được đi tham quan Văn miếu
Quốc Tử Giám, thành phố hướng nghiệp KIZCITY, làng gốm Bát Tràng. Các
em được tham gia rất nhiều hoạt động trải nghiệm như: tập làm đồ gốm, công
an, bác sĩ, cách chăm sóc da mặt,…

Học sinh thực hành làm công an

Học sinh thực hành nặn đồ gốm

HS thực hành làm cán bộ ngân hàng

HS thực hành chăm sóc da mặt
15



Tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường và phối kết hợp với ban phụ
huynh tổ chức cho học sinh tham gia nhiều hoạt động trải nghiệm có ý nghĩa
như: làm bánh dẻo trong dịp Tết Trung thu, xâu hạt làm móc chìa khóa nhân
ngày 20/10, làm bưu thiếp chúc mừng thầy cơ nhân ngày 20/11, nặn tị he tặng
bà, tặng mẹ nhân ngày 8/3, nặn bánh trôi trong ngày Tết Hàn thực 3/3 âm lịch.

Học sinh thực hành làm bưu thiếp

Học sinh thực hành làm bánh trôi

Thông qua những hoạt động trải nghiệm phù hợp với chủ điểm cơng tác
tháng, phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học, học sinh lớp tôi đã được xây
dựng, phát triển rất nhiều kĩ năng: kĩ năng lao động, kỹ năng ăn uống hợp vệ
sinh, kỹ năng hợp tác nhóm. Trong q trình làm sản phẩm, các em biết cộng tác
với bạn, nhờ sự trợ giúp của bạn bè, cơ giáo để hồn thành cơng việc. Các em
cảm thấy rất hạnh phúc khi được tự tay làm ra sản phẩm để tặng người thân,
thầy cô, bạn bè. Các em cũng được trải nghiệmvà hiểu được sự vất vả của người
lao động từ đó có sự cảm thơng, u quý, trân trọng họ.
2.3.5. Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp.
Mỗi thầy giáo, cơ giáo muốn hồn thành nhiệm vụ của người giáo viên chủ
nhiệm trước hết phải có tình u thương học trị, có sự độ lượng, bao dung, đồng
thời phải hiểu về tâm lý lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ
nhiệm cần am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Thầy, cô giáo chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối giữa nhà trường, gia
đình và xã hội.
Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo về lời ăn, tiếng nói, tác phong làm việc cho
đến trình độ chun mơn; quan hệ với trị như người thân để trò cảm thấy vừa

gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm
đất.
Trước đây, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu định hướng, hướng dẫn hành vi đạo
đức cho học sinh. Hiện nay giáo viên chủ nhiệm không chỉ làm công tác chun
mơn mà cịn phải có tình cảm để giải quyết những tình huống phát sinh của học
sinh trong lớp. Vì thế ngồi việc phải đảm bảo nội dung lên lớp vừa tạo sự hấp
dẫn, sáng tạo, mới mẻ, gây hứng thú học tập cho học sinh, điều không thể thiếu
là người giáo viên chủ nhiệm phải có tâm huyết với nghề và tình yêu thương đối
với học sinh.

16


Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua công tác chủ nhiệm
lớp, tôi đã thực hiện như sau:
+ Nhắc nhở, uốn nắn học sinh mọi lúc, mọi nơi. Tơi sử dụng linh hoạt các
hình thức: khuyên nhủ, tác động tới bạn bè xung quanh, kể những câu chuyện có
tính giáo dục.
+ Xây dựng hành vi giao tiếp giữa “Thầy với thầy, trò với trò, thầy với trị”,
rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hố, lên án mọi hành vi bạo lực học đường và xã
hội.
+ Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự chủ phát huy được tính tích cực
trong việc rèn luyện kĩ năng sống của thầy cô giáo và học sinh. Giáo dục cho
học sinh nhận biết được lợi ích của việc rèn luyện kĩ năng về mọi mặt: cho bản
thân, gia đình, xã hội và đất nước, đồng thời biết quan tâm chia sẻ đến mọi
người.
+ Đổi mới trong cách tổ chức lớp. Với các chức danh: lớp trưởng, lớp phó, tổ
trưởng, tổ phó, nhóm trưởng, tơi thay đổi theo từng tháng để mỗi học sinh biết
được các công việc của người lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và cách xử lí cho
phù hợp. Đồng thời các em biết cảm thơng với cơng việc của người chỉ huy. Qua

đó, rèn cho các em những kĩ năng chỉ huy, lãnh đạo cần thiết.
+ Tôi luôn chú trọng đổi mới phương pháp trong việc thực hiện công tác chủ
nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh rèn luyện và tự rèn luyện. Coi trọng tự rèn
luyện của học sinh và động viên kịp thời. Vì vậy tơi đã thiết kế quyển sổ dặn dò
cho các em (kết hợp ghi dặn dò những việc các em cần làm để chuẩn bị cho buổi
học sau với ghi nhớ lại những thành công mà các em đạt được trong ngày).
Hằng tuần các em tự tổng kết lại những việc mình đã làm tốt.
+ Rèn kĩ năng cho học sinh kết hợp với rèn học sinh thực hiện các nề nếp
hàng ngày. Yêu cầu đi học đúng giờ: buộc học sinh phải có thói quen dậy sớm,
có tác phong nhanh nhẹn (rèn kĩ năng khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu); Yêu
cầu xếp hàng ra vào lớp ngay ngắn, không xô đẩy nhau trong hàng (rèn cho học
sinh kĩ năng kiềm chế bản thân, kĩ năng vận động); Yêu cầu học sinh đến lớp
phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập (rèn học sinh kĩ năng tự kiểm tra).
+ Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường,
lớp học, chăm sóc cây trên sân trường. Các em được rèn một số kĩ năng như:
cầm chổi quét, hót rác, tưới cây... qua đó biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao
động.
+ Xây dựng các nhóm bạn cùng tiến. Trong q trình hoạt động của các
nhóm, học sinh được rèn kĩ năng hợp tác, chia sẻ, biết đối xử, ứng xử với bạn
hài hoà phù hợp.
+ Thường xuyên liên hệ với cha mẹ học sinh, kịp thời nắm bắt thông tin, cùng
kết hợp với cha mẹ rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử văn hoá, kĩ năng đọc, kĩ
năng vết, kỹ năng học ở nhà…
Hằng tuần, tơi đều gửi tới phụ huynh mẫu bảng thành tích để kết hợp hỗ trợ
rèn cho các con những thói quen tốt. Vào buổi học cuối tuần, các em sẽ nộp lại
phiếu cho giáo viên. Từ đó, tơi có hình thức khen thưởng (tặng ngôi sao thành
công cho những học sinh thực hiện tốt) hay động viên, nhắc nhở học sinh và tư

17



vấn kịp thời với phụ huynh học sinh (với những học sinh chưa xây dựng được
thói quen tốt).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau một năm áp dụng “Một số giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp
2 ở trường Tiểu học Nga Phượng 1”. Học sinh lớp tơi có chuyển biến rõ rệt về
kĩ năng sống. Các em luôn tự giác trong các công việc cá nhân, học tập, ý thức
tự quản được phát huy tối đa. Phong trào của lớp luôn được Ban thi đua đánh giá
cao. Đa số phụ huynh có những phản hồi tích cực với những biện pháp của tơi.
Từ tâm lí vui vẻ khi học mà các em đã tiến bộ rất nhiều, kĩ năng tự học ngày một
hình thành rõ nét.
Sau đây là bảng kết quả thực nghiệm vào thời điểm đầu tháng 4/2021 sau khi
áp dụng sáng kiến:
Sĩ số
33

Sĩ số

33

Tắm gội, vệ sinh cá nhân,
mặc quần áo
Tự giác làm
Cần người nhắc
SL
%
SL
%

Tự giác làm

SL
%

23

21

66,7

10

30,3

Học ở nhà

63,6

Cần người nhắc
SL
%
12

36,4

Ứng xử trong tình huống trị
chơi tập thể
Chưa biết lắng Biết ứng xử hài Khơng tham gia,
nghe, khơng tham hịa, khá phù tranh giành, cãi
gia
hợp

cọ, xơ đẩy nhau
SL
%
SL
%
SL
%

Thực hành thảo luận nhóm
Lắng nghe
tích cực, hợp
tác
SL
%
24

72,7

9

27,3

25

75,6

8

24,4


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Để các em sau này trở thành con người phát triển toàn diện phù hợp với sự
phát triển của đất nước thì việc giáo dục kĩ năng sống cho các em ngay từ những
năm đầu cấp học là vô cùng quan trọng, cần thiết. Thực hiện giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh phải cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên, các bậc phụ
huynh và mọi người trong xã hội.
Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tơi đã rút ra
được những bài học q giá để bổ sung kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ năm học như sau:
Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế
hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng học
sinh trong lớp .
Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực hiện
một cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng thời

18


điểm. Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía
học sinh.
Phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong nhà trường, phụ huynh học
sinh. Luôn lắng nghe những ý kiến về những khó khăn của học sinh.
Giáo viên phải phát huy vai trị của bản thân, thường xun thay đổi các
hình thức sinh hoạt lớp. Tạo mọi điều kiện để các em được luân phiên điều hành.
Chẳng hạn, luân phiên làm lớp trưởng, quản ca, tổ trưởng... Đồng thời, giáo viên
chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với các đồng chí giáo viên bộ mơn để góp
phần nâng cao chất lượng rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Hàng tháng, tổ chức tốt hoạt động ngồi giờ lên lớp bằng nhiều hình thức
như: trò chơi dân gian, văn nghệ, kể chuyện,… một cách có hiệu quả. Ngồi ra

cịn tổ chức nhiều sân chơi bổ ích cho các em (chơi mà học, học mà chơi). Từ đó
nâng cao việc rèn luyện kĩ năng sống cho các em.
Mơ hình này rất dễ dàng thực hiện dành cho học sinh tiểu học với các hình
thức phong phú nêu trên, làm cho các em cảm nhận được kỹ năng sống, giá trị
sống là những kỹ năng chuẩn mực trong một xã hội văn minh. Nó có thể xem
là hành trang hết sức cần thiết cho các em trong cuộc sống, là những vốn sống
không thể thiếu đối với các em, trong thời kỳ đất nước ta đang hội nhập với
nền kinh tế thế giới, đang tiến hành cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trước mắt giúp cho các em đổi mới phương pháp, tích cực học tập, có
năng lực tự học và biết tự điều chỉnh hành vi, tự giác chấp hành tốt nội qui nhà
trường.
Cùng với phụ huynh học sinh đoàn kết, phối hợp với nhau để đưa các em
trở thành những học sinh có đủ đức và tài qua sự kết hợp giáo dục tồn diện về
đức, trí, thể, mỹ, giúp các em biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý những tình
huống xảy ra trong cuộc sống, một cách có hiệu quả thiết thực và có hiệu quả
cao trong phong trào giáo dục tồn diện. Tồn khối nói chung, lớp 2A nói riêng
quyết tâm thực hiện các tiêu chí thi đua xây dựng phong trào, gương tốt việc tốt
và học tấp tốt năm điều Bác Hồ dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy theo sức của
mình. Chính vì vậy mà các em đã thực hiện được một cách tích cực” theo các
quy định của trường, lớp. Hình thành và phát triển các kỹ năng ứng xử hợp lý
các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt .
3.2. Kiến nghị:
* Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kĩ năng sống:
Khơng doạ nạt: vì mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ
hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hồn tồn có hại cho đứa trẻ và sẽ không
giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
Không hạ thấp các em: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng
các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của học
sinh. Khơng nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng khơng nên nói
những lời khơng hay đối với trẻ.

Khơng nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự
phục tùng một cách thái quá khơng có sự thoả thuận giữa các bên, khơng tạo
điều kiện phát triển tính tự lập ở các em.

19


Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận
của não bộ.
Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, những phương pháp mới
trong giảng dạy nhằm nâng cao nhiều kỹ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường
giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống
lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui,
hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ của bản thân
về việc nghiên cứu “Một số giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 ở
trường Tiểu học Nga Phượng 1”.
Rất mong được nhận sự giúp đỡ góp ý bổ sung của đồng nghiệp và ban
lãnh đạo các cấp để đề tài hoàn thiện hơn.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Nga sơn, ngày 9 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, khơng sao chép của người khác
Người thực hiện

Mai Thị Hường

Khương Thị Tới

20




×