MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
- Lý do chọn đề tài
- Mục đích nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng
Giải pháp đã sử dụng để giải quyết các vấn đề.
Giải pháp 1: Quan tâm chú trọng phát triển kĩ năng giao tiếp…
Giải pháp 2: Rèn kĩ năng thích nghi với cuộc sống ………..
Giải pháp 3: Rèn kĩ năng tự chăm sóc, tự phục vụ………
2. Giải pháp 4: Phát triển kĩ năng hoạt động theo nhóm……
Giải pháp 5: Công tác phối kết hợp……………
3
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
3.2 Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Trang
1
1
2
2
3
3
3-4
5
5
7-8
9-10
11-12
13
15
16
16
17
18
1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đang là nhu cầu cấp
thiết đối với thế hệ trẻ và đối với trẻ mầm non. Bởi đây là giai đoạn đặt nền
móng đầu tiên để trẻ tự tin bước vào cuộc sống. Nếu giáo dục kĩ năng sống tốt
cho trẻ thì trẻ sẽ tích cực, chủ động , sáng tạo , tự tin, vững vàng trước mọi thử
thách , từ đó trẻ phát triển toàn diện và bền vững sau này. Vì vậy, mà trong mục
tiêu Giáo dục và Đào tạo ghi rõ hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của
nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa: Khỏe mạnh, nhanh nhẹn, phát triển
1
hài hòa, cân đối, tự tin, sáng tạo, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đỡ mọi
người, biết yêu thích và giữ gìn cái đẹp, thông minh, ham hiểu biết, thích khám
phá, và trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc
bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của xã hội và của mỗi gia
đình: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là
vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không
nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người
là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế
hệ trẻ. Trong những năm gần đây, giáo dục Mầm non đang nhận được sự quan
tâm rất lớn của các cấp các ngành và của toàn xã hội điều đó chứng minh giáo
dục mầm non là nền tảng vững chắc trong tương lai của đất nước.
Chính vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đóng một vai trò quan
trọng và rất cần thiết trong sự hình thành và phát triển tâm hồn của trẻ thơ một
cách có định hướng, giúp trẻ biết quý trọng bản thân mình, từ đó nuôi dưỡng
những giá trị cuộc sống, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trong các lĩnh vực: Nhận
thức, thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống
biết hoà nhập với môi trường xung quanh.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần thiết cho hành vi đẹp lành mạnh. Kỹ
năng sống chính là chiếc chìa khoá vàng cho sự sống còn, sự phát triển và sự
thành công của mỗi con người. Có thể nói “Kỹ năng sống chính là phương tiện
không thể thiếu để giúp trẻ tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước
mọi khó khăn thử thách” [1]. Dạy kỹ năng sống cho trẻ là dạy những thói quen
sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử giữa trẻ với con người và sự
vật xung quanh trẻ. Đó cũng là những cảm nhận, những cảm xúc của con người
trước sự thay đổi của môi trường xung quanh.
Là một giáo viên mầm non, bản thân luôn quan tâm, gần gũi, động viên,
khích lệ, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, đến việc làm thế nào để dạy
cho trẻ những kỹ năng sống hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho
trẻ. Thực tế tại lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi tôi được phân công phụ trách,các cháu rất
mạnh dạn, tự tin, thích đến trường lớp và thích tham gia vào các hoạt động…
Song, để trẻ có kỹ năng sống trong môi trường tập thể thì còn nhiều hạn chế:
chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh; kỹ năng học tập và
làm việc theo nhóm bạn trong lớp, kỹ năng thích nghi với những điều kiện học
tập ở môi trường mới còn nhiều bỡ ngỡ và quan trọng là kỹ năng tự giải quyết
các vấn đề thực tế, kỹ năng tự phục vụ của trẻ còn thiếu chủ động bởi trẻ được
sự quan tâm bao bọc rất lớn của bố mẹ... một số trẻ chưa tự mặc quần áo, tự cất
đồ dùng khi đến lớp, tự xúc ăn, đánh răng, rửa mặt… Chính vì vậy, cần phải làm
gì? Làm như thế nào và giáo dục trẻ ra sao? Bằng những biện pháp nào? để hình
thành kỹ năng sống tốt nhất cho trẻ là điều mà bản thân tôi luôn băn khoăn và
suy nghĩ. Với vai trò là người mẹ thứ hai của các cháu tại trườngmầm non tôi
luôn luôn trăn trở và quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp
2
rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trường mầm non Thiệu Nguyên
huyện Thiệu Hóa”.
- Mục đích nghiên cứu.
Nhằm hình thành và cũng cố cho trẻ những kỹ năng cơ bản trong cuộc
sống hàng ngày tại trường mầm non, từ đó giúp trẻ có thêm vốn kinh nghiệm,
được trải nghiệm, được tích lũy để làm cơ sở cho trẻ có khả năng lĩnh hội những
giá trị của cuộc sống, của con người giúp trẻ được phát triển toàn diện về các
mặt đức, trí, thể, mỹ...
- Đối tượng nghiên cứu.
Trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi lớp A4 Trường Mầm non Thiệu Nguyên.
- Phương pháp nghiên cứu.
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp dùng lời.
- Phương pháp dùng trò chơi, trải nghiệm.
- Phương pháp phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non là một nội dung giáo dục vô cùng
quan trọng và cần thiết đối với chúng ta, dạy kỹ năng sống cho trẻ là nhằm giúp
trẻ có những kinh nghiệm trong cuộc sống sau này của trẻ, trẻ biết được những
điều mình nên làm và những điều mình không nên làm, trẻ biết được điều hay lẽ
phải, biết được cái thiện, cái ác hướng tới chân, thiện, mỹ. Khi trẻ đã có kỹ năng
sống ngay từ buổi đầu đời, sẽ là hành trang tiếp bước trong tương lai của trẻ.
Câu thành ngữ: “Tiên học lễ, hậu học văn” của cha ông ta từ ngàn xưa đã
để lại đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn. Lễ phép là nét đẹp văn hóa
được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người. Trong thời đại hiện nay,
sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối
với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người
“phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong sáng
về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là cốt lõi của nền tảng giáo dục.
Trẻ lứa tuổi mầm non là lứa tuổi đang dần hình thành và phát triển về mọi
mặt, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng, đặc biệt với trẻ độ
tuổi 5- 6 tuổi, ở độ tuổi này, nhận thức cũng như về mặt giao tiếp, khả năng làm
việc theo nhóm và ý thức tự biết tham gia vào các hoạt động cùng với các bạn
trong lớp. Tuy nhiên hiện nay do sự phát triển nền kinh tế nhiều gia đình rất
quan tâm đến con cái nhưng lại không có thời gian để trò chuyện vui chơi cùng
con hoặc hạn chế việc tiếp xúc giao tiếp của con với mọi người xung quanh dẫn
đến một số trẻ bị tự kỷ, thiếu tự tin, không mạnh dạn khi tham gia các hoạt động
cùng các bạn trong lớp và trẻ có thể còn chưa tự mình làm một số việc đơn giản
như tự thay quần áo, đánh răng rửa mặt…Vì vậy, “Việc dạy kỹ năng sống cho
trẻ đang trở thành vấn đề cấp bách và cần thiết trong hệ thống giáo dục nói
chung và giáo dục mầm non nói riêng” [2].
3
Ngày nay, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đang được xã hội quan tâm.
Tuy nhiên thực tế việc rèn kỹ năng sống cho trẻ chưa có sự phối kết hợp chặt
chẽ giữa giáo viên với các bậc phụ huynh tạo cơ hội cho trẻ phát triển.
Từ những cơ sở lý luận trên là một giáo viên đứng lớp chịu trách nhiệm
trước nhà trường về công tác chăm sóc - giáo dục của trẻ 5-6 tuổi tại trường
Mầm non Thiệu Nguyên bản thân tôi nhận thấy rằng tôi luôn cố gắng tìm tòi học
hỏi, đúc rút kinh nghiệm, tìm biện pháp để thực hiện cho có hiệu qủa việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm mục đích phát triển khả năng giao tiếp, khả năng
thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, với môi trường tự nhiên và xã hội. Trẻ biết
tự phục vụ và tự bảo vệ bản thân, biết giải quyết những vấn đề cần thiết mà trẻ
cần làm. Từ đó nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ góp phần thực
hiện nhiệm vụ giáo dục chung của nhà trường.
2.2 Thực trạng
a. Thuận lợi:
Năm học 2016-2017 tôi được ban giám hiệu nhà trường giao cho phụ
trách lớp mẫu giáo lớn A4. Học tại Thôn Nguyên Thành, lớp tôi có 30 cháu
trong đó nữ 13, nam 17.
Trường mầm non Thiệu Nguyên là một trường nằm trong vùng có điều kiện
kinh tế tương đối ổn định. Nhân dân phần lớn sinh sống bằng nghề sản xuất
nông nghiệp, kinh doanh. Các bậc phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của
con em mình, trong đó sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ luôn được phụ huynh ủng hộ và thống
nhất cao.
Các bậc phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình, trong đó sự
phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ luôn được phụ huynh ủng hộ và thống nhất cao.
BGH luôn chỉ đạo sát sao tới giáo viên để thực hiên tốt kế hoạch nhà
trường đặt ra trong năm học, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện tốt chương
trình mầm non mới. Ban giám hiệu cũng như đồng nghiệp trong trường tôi luôn
cố gắng hoàn thành tốt mọi kế hoạch của nhà trường, phòng đề ra trong việc
nâng cao sự phát triển sự nhận thức của trẻ với các hoạt động của trẻ ở trường
nói chung và hoạt động góc nói riêng. Tôi luôn học hỏi đồng nghiệp, tham khảo
tài liệu chuyên môn, tham gia các lớp học chuyên đề.
Là giáo viên phụ trách lớp 5- 6 tuổi bản thân có trình độ chuyên môn
vững vàng, tâm huyết yêu nghề mến trẻ, tận tụy với công việc được giao. Đặc
biệt là luôn quan tâm phối hợp cao trong việc thống nhất áp dụng các biện pháp
giáo dục trẻ tại nhóm lớp đạt hiệu quả.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên trong quá trình giáo dục trẻ tôi còn gặp
không ít những khó khăn sau:
Trong những năm gần đây nhà trường đã tập chung tại một điểm nhưng 2
năm học 2015 - 2016 đến 2016 - 2017 UBND huyện có thông báo đóng cửa
trường do ô nhiễm môi trường nên địa phương và nhà trường đã có kế hoạch
4
chuyển trẻ về học tại các nhà văn hóa thôn, chính vì vậy cơ sở vật chất khó
khăn, trang thiết bị chưa đầy đủ để phục vụ cho việc giảng dạy. Phòng học, sân
chơi không đảm bảo với điều lệ trường mầm non nên mọi hoạt động trong ngày
của trẻ gặp khó khăn, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi còn thiếu nhiều trong việc
tổ chức các hoạt động tập thể, các trò chơi... nhằm rèn luyện, giáo dục nề nếp,
thói quen, các kỹ năng sống cho trẻ, cũng như các điều kiện khác phục vụ cho
việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Phần lớn bố mẹ của các cháu làm ruộng chú trọng vào phát triển kinh tế,
lo làm giàu nên việc quan tâm đến con em còn hạn chế. Bên cạnh đó vì mục tiêu
của giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 nên số con trong mỗi gia đình ít đi, thì trẻ ngày
càng được nuông chiều thái quá.
Mặt khác chưa có nhiều tài liệu sách báo về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
để giáo viên nghiên cứu, tham khảo, giáo viên chưa được tập huấn về rèn kỹ
năng sống cho trẻ.
Số lượng trẻ nam trong lớp tương đối đông chiếm 2/3 tổng số trẻ cả lớp
nên việc rèn các kỹ năng sống cho trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn, một số các cháu
đang sống trong điều kiện gia đình khó khăn bố mẹ đi làm xa phải sống ở nhà
với ông bà nên việc giáo dục rèn luyện các cháu về kỉ năng sống và giao tiếp
còn hạn chế. Còn có một vài trẻ có biểu hiện của bệnh tự kỷ, do sự lạm dụng quá
nhiều vào internet, ti vi, các trò chơi điện tử, và điều kiện về thời gian để bố mẹ
dành cho con cái còn hạn chế. Một số trẻ được bố mẹ, người lớn trong gia đình
nuông chiều quá mức nên trẻ không có tính tự lập, ích kỷ và lãnh cảm với môi
trường xung quanh...
Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế chưa hiểu tầm quan trọng
của giáo dục lễ giáo cho con em ở lứa tuổi mầm non,
thường phó mặc cho giáo viên và có những phụ huynh lại quan tâm quá mức
khiến cho việc rèn kỹ năng sống cho trẻ bị lệch lạc. Chính vì vậy ảnh hưởng rất
nhiều đến sự hình thành và phát triển nhân cách ban đầu cho trẻ.
c. Kết quả thực trạng
Để áp dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã tiến hành
khảo sát theo các nội dung về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở lớp (5- 6 tuổi A4).
Cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát đầu năm học 2016 – 2017:
Đạt
Chưa đạt
Tổng
TT Nội dung khảo sát
Số
Tỷ lệ Số
Tỷ lệ
số trẻ
cháu
(%)
cháu
(%)
Kỹ năng giao tiếp tự tin,
mạnh dạn với bạn bè,
1
30
17
56,7
13
43,3
người thân và mọi người
xung quanh
Kỹ năng tự phục vụ và tự
2
22
73,3
8
26,7
30
bảo vệ bản thân trẻ
5
Kỹ năng hoạt động theo
nhóm và khả năng hợp 30
3
20
66,7
10
33,3
tác thông qua các hoạt
động của trẻ
Kỹ năng bộc lộ cảm xúc,
4
thái độ thông qua các 30
18
60
12
40
hoạt động tại nhóm lớp
Khả năng tự lập, chủ
động tự tin, tính đoàn kết,
5
20
66,7
10
33,3
nhường nhịn, biết chơi 30
cùng nhau trong lớp.
Từ kết quả khảo sát trên cho thấy kỹ năng sống của trẻ trong môi trường
mầm non còn có những hạn chế nhất định. Là giáo viên phụ trách lớp tôi đã có
kế hoạch và đề ra các biện pháp sau:
2.3. Các giải pháp.
Giải pháp 1: Quan tâm chú trọng phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ
Có thể nói rằng, kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng rất quan
trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, không chỉ quan trọng và cần thiết
đối với trẻ trong trường mầm non, mà ngay ở trong gia đình và toàn xã hội đều
rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ, trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt tạo
được sự tự tin trong mỗi người nói chung và đối với trẻ nói riêng, thông qua
giao tiếp trẻ có thể diễn đạt hết được nhu cầu và mong muốn của trẻ đến với mọi
người, đây chính là yếu tố thuận lợi để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.Vì thế
ngoài những kỹ năng sẵn có ở trẻ thì tôi luôn quan tâm áp dụng nhiều biện pháp
khác nhau để phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp với bạn bè:
Giáo dục kỹ năng giao tiếp với bạn bè là yếu tố cần thiết đối với trẻ thơ,
đây chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi đa văn
hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Môi trường này tạo cơ hội cho trẻ được
học tập, được giao lưu học hỏi và có cơ hội để khám phá những sở thích, những
mối quan hệ của trẻ với trẻ trong lớp, trong trường. Cụ thể, khi tôi tổ chức cho
trẻ học tập, vui chơi tôi đã tạo được nhiều cơ hội để trẻ được giao lưu với bạn
bè, theo nhóm theo tổ...
Ví dụ 1: Trong giờ hoạt động góc tôi tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi
bán hàng, trẻ này là người mua hàng, và những trẻ khác là người bán hàng, hay
đóng vai bác sĩ và bệnh nhân khám bệnh…
Thông qua những vai chơi trong trò chơi đóng vai tạo cơ hội cho trẻ được
giao tiếp với nhau trẻ thể hiện ngôn ngữ của mình một cách đầy đủ, trẻ biết chào
hỏi, biết cảm ơn, xin lỗi, thể hiện được cảm xúc vui buồn…Và với những trẻ
còn nhút nhát tôi có thể cùng trẻ thể hiện vai chơi của mình, luôn định hướng
ngôn ngữ giao tiếp hoặc có thể hướng cho những trẻ có khả năng giao tiếp tốt
hơn chơi cùng bạn, như vậy trẻ cảm thấy tự tin và dần dần trẻ có thể tự mình chủ
động giao tiếp cùng các bạn khác một cách dễ dàng.
6
Ví dụ 2: Khi dạy trẻ khám phá khoa học “ Dinh dưỡng cho trẻ” tôi yêu
cầu các nhóm tự thảo luận và cùng nhau tìm ra câu trả lời theo yêu cầu của cô
như các con có nhận xét gì về các loại thực phẩm này…tôi có thể khuyến khích
trẻ, đặt câu hỏi có vấn đề tại sao? như thế nào? có ý nghĩa gì?... Để trẻ cùng
nhau suy nghĩ và tìm cách giải quyết. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm một số câu
chuyện, bài thơ mang tính giáo dục. Giúp trẻ hiểu về các nhân vật trong câu
chuyện, bài thơ cách dùng từ ngữ để giao tiếp với nhau như thế nào?
Ví dụ 3: Trong quá trình tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn
học.
Bởi vì đọc thơ, kể chuyện ở đâu cũng giúp cho trẻ phát triển về tình cảm,
hình thành nhân cách con người và trẻ có khả năng cảm thụ được cuộc sống
xung quanh mình đang diễn ra, trẻ biết sống tự tin và sáng tạo, biết được cái đẹp,
cái xấu... Do vậy bản thân đã tổ chức cho trẻ đọc thơ, kể chuyện rất nhiều để
tinh thần hăng say của trẻ ngày càng được nâng lên. Qua những buổi thi kể
chuyện trẻ được trang phục, mặc những bộ quần áo đẹp làm cho bản thân của trẻ
cảm thấy mình được sung sướng, thông qua hội thi trẻ được thêm một dịp cũng
cố, rèn luyện các kỹ năng của bản thân. Đây cũng là dịp để trẻ được trải nghiệm
cảm xúc mới mẻ, tăng cường khả năng cảm thụ các tác phẩm, mở rộng nhận
thức cho trẻ. Tổ chức hội thi kể chuyện, đọc thơ còn giúp trẻ tăng thêm sự mạnh
dạn, tự tin, trình bày trước người khác cũng như sự phối hợp giữa các thành viên
trong
nhóm.
Hình ảnh đóng kịch truyện “ Ai đáng khen nhiều hơn”
Cho trẻ đóng kịch truyện “Ba cô gái”, “Chú dê đen”, “Ai đáng khen nhiều
hơn”…Thông qua nội dung, ngôn ngữ của các nhân vật trong chuyện trẻ hiểu sẽ
tạo được cảm xúc tình cảm thân thiện và từ đó giúp trẻ tự tin trong giao tiếp.
Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt động rất hiếu động nhưng
cũng có những trẻ chậm chạp, thụ động hoặc quá nóng nảy... Vì thế, tôi luôn
nắm rõ đặc điểm tâm lý của trẻ để có thể rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ theo
nhiều phương pháp khác nhau để tránh sảy ra những va chạm về tính cách của
mỗi trẻ.
7
Ví dụ 4: “Giao tiếp bằng nét mặt, bằng việc làm như giúp bạn nhặt đồ
chơi...hoặc nở một nụ cười thật tự nhiên”. Đây cũng chính là việc rèn kỹ năng
giao tiếp cho trẻ...Trong thực tế khi làm được điều này tôi nhận thấy kỹ năng
giao tiếp của trẻ linh hoạt hơn, năng động hơn và tự tin hơn trong bất cứ hoàn
cảnh nào trẻ cũng có thể nhận được sự thân thiện và gần gũi với bạn bè.
* Giáo dục kỹ năng giao tiếp với mọi người xung quanh
Trẻ không chỉ phát triển giao tiếp thông qua những người thân trong gia
đình mà chúng ta còn dạy trẻ giao tiếp tốt với mọi người xung quanh là yếu tố
để phát huy khả năng giao tiếp cho trẻ
Ví dụ 1: Thường xuyên cho trẻ giao tiếp với các cô, bác, bạn bè xung
quanh, biết chào hỏi lễ phép “Cháu chào bác ạ, cháu chào ông ạ” hay “Cháu cảm
ơn cô, cảm ơn chú” khi người lớn cho quà hay làm giúp trẻ một việc nào đó, khi
bạn bị ốm bố mẹ cần dạy trẻ biết quan tâm chia sẻ với bạn bè qua những lời nói
âu yếm tình cảm như: bạn có đau không? Bạn có mệt không...Đối với trẻ có biểu
hiện bệnh tự kỷ như cháu Linh Đan trong lớp, cháu thường chơi một mình,
giằng đồ chơi của bạn hay la hét tự do tôi cũng đã trao đổi với phụ huynh và
cùng phối hợp với phụ huynh,giáo viên phụ trách lớp thường xuyên gần gũi trẻ
cho trẻ tiếp xúc với bạn bè, uốn nắn những lời nói, cử chỉ của trẻ như: Con hãy
xin lỗi bạn và nhắc nhở trẻ biết chào cô, chào các bạn khi đến lớp và trước khi ra
về...
Khi tập trung rèn kỹ năng giao tiếp cho trẻ tôi nhận thấy rằng trẻ đã có
những kỹ năng giao tiếp với bạn bè, người thân...trẻ đã có những kỹ năng giao
tiếp chuẩn mực, ngôn ngữ của trẻ rõ ràng mạch lạc, ý thức trong giao tiếp của trẻ
được nâng lên, tình cảm của trẻ dành cho bạn bè, bố mẹ, người thân cũng trở
nên gần gũi và thân thiện hơn.
Giải pháp 2: Rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường
tự nhiên và xã hội
Rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự nhiên và
xã hội là kỹ năng cần thiết trong sự hình thành và phát triển nhân cách, phát
triển toàn diện của trẻ. Vì nếu kỹ năng giao tiếp là bước đệm thì thích nghi chính
là bước tiếp theo để hình thành kỹ năng sống với môi trường bên ngoài cho trẻ. ,
giúp trẻ cân bằng cuộc sống trong các lĩnh vực: nhận thức, thể chất, trí tuệ và
thẩm mỹ, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống biết hoà nhập với môi
trường xung quanh. Nếu trẻ có kỹ năng thích nghi tốt thì cuộc sống sau này của
trẻ sẽ hoàn toàn tự chủ, hướng tới một mục đích tốt đẹp và tương lai tự chủ đó là
những kết quả tốt cho cuộc sống của trẻ sau này.
Có thể nói, môi trường tự nhiên là môi trường quan trọng nhất trong sự
hình thành nhân cách cho trẻ, với độ tuổi này trẻ hoạt động nhiều chính vì vậy
để tạo cho trẻ thích nghi với môi trường thì trước hết môi trường sống phải là
một môi trường trong sạch, lành mạnh, thân thiện và gần gũi đối với trẻ.
Trước hết tôi luôn quan tâm hình thành và rèn kỹ năng tự lập cho trẻ.
Chẳng hạn như khi thời tiết thay đổi trẻ có thể tự lựa chọn các trang phục, mũ
8
nón phù hợp với thời tiết. Cô giáo là người trực tiếp hàng ngày cho trẻ trải
nghiệm với sự thay đổi của thời tiết.
Ví dụ 1: “Cho trẻ tắm nắng tập thể dục vào những buổi sáng”, Hoạt động
ngoài trời, kể cả thời tiết mùa đông và mùa hè cũng là một biện pháp giúp trẻ
thích nghi cao, có sức đề kháng cao trước mọi diễn biến phức tạp của thời tiết và
các hiện tượng tự nhiên. Đồng thời, tôi luôn chú ý nhắc nhở phụ huynh chú ý
giữ ấm cho trẻ về mùa đông, thoáng mát về mùa hè để đảm bảo sức khỏe cho
trẻ.
Hình ảnh cô và trẻ đang nhổ cỏ cho vườn rau.
Ví dụ 2: Tôi tổ chức cho trẻ tham gia nhặt lá cây, nhổ cỏ trong vườn, tưới
nước cho cây, chơi các trò chơi với cát, nước để cho trẻ được tiếp xúc với những
điều kiện tự nhiên. Đây là một hoạt động thường xuyên mà tôi và trẻ thường hay
làm ở trường, thông qua những hoạt động này trẻ tỏ ra rất thích thú, qua đây tôi
cũng giáo dục cho trẻ biết bảo vệ môi trường của mình, trẻ được thoả mãn nhu
cầu vui chơi và phát triển trí tò mò, óc sáng tạo ở trẻ. Trẻ có thể chơi với cát, đất
trong một chừng mực vừa phải vì điều đó giúp cho các bé vừa thỏa mãn được
tính năng động, vừa nâng cao khả năng đề kháng. Tuy nhiên, sự giám sát của
người lớn rất quan trọng và người lớn chỉ can thiệp khi có những dấu hiệu của
sự nguy hiểm không an toàn. Điều đó không chỉ giúp trẻ mạnh dạn và tự tin hơn
mà còn giúp trẻ sẽ hạn chế được tính ỷ lại sảy ra không đáng có ở trẻ.
9
Ngoài việc rèn cho trẻ thích nghi tốt với môi trường tự nhiên thì việc rèn
kỹ năng thích nghi với môi trường xã hội là quan trọng và cần thiết.
Ví dụ 3: Cô tổ chức cho trẻ đi thăm quan Trường Tiểu học, tượng đài liệt
sĩ... hoặc nhắc nhở khi trẻ đi chơi công viên với bố mẹ phải biết chào hỏi người
lớn lễ phép, biết bỏ rác đúng nơi quy định và có hành vi văn minh lịch sự nơi
công cộng.
Bằng những việc làm này chúng ta có thể giúp trẻ quen dần với nơi cộng
cộng, những nơi có đông người qua việc cho trẻ tham gia các giờ học dạo chơi
tham quan, tham gia các hoạt động ở trường. Ngoài ra, trong việc hòa nhập với
xã hội, chúng ta cũng cần tập cho trẻ những thói quen ứng xử với một phong
cách văn minh, lịch sự qua những hoạt động hằng ngày ở trường. Đây là một
thói quen mà hầu hết người lớn chúng ta không để ý khi cho trẻ tham gia vào
các hoạt động trong môi trường xã hội. Người lớn chúng ta cần phải làm gương
và rèn cho trẻ có thói quen ngay từ nhỏ về cách ứng xử văn hóa nơi công cộng
tạo cho trẻ có tính kỷ luật khi tiếp xúc với môi trường xã hội.
Có thể nói, rèn kỹ năng thích nghi với cuộc sống sinh hoạt, môi trường tự
nhiên và xã hội cho trẻ là điều kiện tốt nhất để hình thành các kỹ năng cơ bản
ban đầu cho trẻ, để trẻ có những hành trang kiến thức về môi trường tự nhiên và
xã hội khi trẻ tham gia và các hoạt động. Từ đó trẻ không bị xa rời với thực tế
mà còn biết ứng xử văn minh lịch sự và có kỷ luật, đoàn kết tương trợ và giúp
đỡ mọi người.
Giải pháp 3: Rèn kỹ năng tự chăm sóc tự phục vụ và bảo vệ bản thân
Việc dạy trẻ biết tự chăm sóc, tự phục vụ và bảo vệ bản thân chính là
chúng ta đã dạy trẻ, rèn cho trẻ tính chủ động, tính tự lập và biết mình phải làm
gì cho bản thân mà không phải phụ thuộc vào người khác trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống sau này.
Ví dụ: Dạy trẻ biết tự mặc quần áo, biết tự xúc cơm ăn, tự lau dọn bàn ghế
giúp cô, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh...Khi học tập trẻ biết tự lựa chọn
đồ dùng phù hợp như sách vở... hoặc khi người lớn giao việc thì trẻ biết cách sắp
xếp công việc đúng theo khả năng của mình...
Dạy cho trẻ khả năng tự chăm sóc, tự phục vụ và bảo vệ bản thân là dạy
trẻ tính kỷ luật, tính tự chủ biết giúp đỡ người thân trong gia đình và mọi người
xung quanh. Bởi vì nếu trẻ không biết tự chăm sóc mình thì sẽ không cảm nhận
được sự vất vả, sự quan tâm của mọi người dành cho mình, biết được điều này
thì trẻ sẽ biết chia sẻ, gắn bó và biết dành tình cảm mà người thân đã cho mình.
Có thể nói là việc dạy trẻ trong ăn uống cũng là một cách bảo vệ bản thân
trẻ tốt nhất.
Ví dụ như: Đôi khi trẻ có những sở thích đặc biệt về ăn uống, chỉ thích ăn vài
loại thực phẩm nhất định, uống vài loại sữa hay thức uống nhất định. Tôi đã
thường xuyên chú trọng giáo dục trẻ biết ăn nhiều loại thực phẩm, món ăn khác
nhau đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng thì cơ thể mới khỏe mạnh.
10
Ngoài việc dạy trẻ biết tự phục vụ chăm sóc bản thân thì tôi còn dạy trẻ
biết lao động tự phục vụ như trong các hoạt động học, hoạt động vui chơi, hoạt
động dạo chơi ngoài trời.
Ví dụ: Biết chọn trang phục phù hợp với thời tiết, như nắng thì đội mũ
(che ô ) Rét thì mặc thêm áo….
Ví dụ: Trong các hoạt động học Trẻ tự biết lấy và cất đồ dùng theo yêu cầu và
đúng nơi quy định.
Hình ảnh trẻ đang cùng cô cất đồ dùng.
Ví dụ: Với chủ đề bản thân giáo dục trẻ có một số kỹ năng tự phục vụ, kỹ
năng bảo vệ bản thân.
Dạy trẻ cách bảo vệ bản thân để tránh xảy ra tại nạn thương tích trong ăn uống
như sặc cơm, sặc cháo, các dị vật trong ăn uống... trong sinh hoạt đảm bảo an
toàn trong trường học, trong gia đình và mọi lúc mọi nơi, đây cũng là tạo cho trẻ
có ý thức tự giác và khả năng bảo vệ bản thân.
Ví dụ: Các mối nguy hiểm giáo viên cần giáo dục trẻ biết cách bảo đảm
an toàn cho bản thân như: Nhận biết được một số nguyên nhân gây nguy hiểm:
Không chơi gần khu vực gây nguy hiểm như ao, hồ, sông , suối, tránh xa các ổ
điện, gas, bàn là, điện, nước nóng, dao kéo......
11
- Kỹ năng sử lý tình huống : Khi bị ngã trẻ cần làm gì?
- Giáo dục trẻ cần làm gì khi bị lạc, khi tiếp xúc với người lạ trẻ cần làm gì?...
Ngoài ra tôi còn chú trọng giáo dục cho trẻ biết được các mối nguy hiểm
đối với môi trường tự nhiên và xã hội để trẻ có ý thức và cách phòng tránh khi
bắt gặp các mối nguy hiểm như: bắt cóc, bắt nạt, lạc đường... cần phải đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông để tránh tai nạn..Các mối nguy hiểm bất ngờ
như cháy nổ, chó cắn, ong đốt, ngô độc…biết về các hiện tượng tự nhiên như
động đất, lũ lụt, đuối nước….
Các mối nguy hiểm có thể sảy ra đối với trẻ, vì thế chúng ta cần chú trọng giúp
trẻ biết tránh xa và không đến gần những mối nguy hiểm đó, mặt khác các mối
nguy hiểm này đều có nguy cơ xảy ra nếu chúng ta không giáo dục trẻ kịp thời
để trẻ biết cách phân biệt và tự bảo vệ. Thông qua kỹ năng này nhà trường, giáo
viên và trẻ đã có thể phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong trường Mầm
non.
Giải pháp 4: Phát triển kỹ năng hoạt động theo nhóm và khả năng hợp
tác thông qua các hoạt động của trẻ.
Trong các hình thức tổ chức dạy học thì hình thức dạy trẻ hoạt động theo
nhóm hiện nay đang được rất nhiều giáo viên lựa chọn và sử dụng, đặc biệt đối
với trẻ 5 - 6 tuổi thì khả năng hoạt động theo nhóm của trẻ là rất lớn. Trẻ thường
yêu thích trò chơi do mình tự lựa chọn và tự đề ra cách chơi, tự phân nhóm. Vì
vậy để việc giáo dục mang tính hiệu quả cao, tôi đã tiến hành bài dạy thông qua
trò chơi giờ học, Trò chơi phân vai, diễn kịch…Với niềm say mê tự khám phá
trẻ đã tiếp thu kiến thức thực tế để vận dụng trong cuộc sống, mỗi trẻ sẽ giới
thiệu nhiều kết quả bất ngờ. Giáo viên đưa ra những bài tập, những thử thách,
trò chơi mang tính chất tập thể đòi hỏi trẻ phải tự tìm nhóm, tự hợp tác bàn luận
trong nhóm để hoàn thành yêu cầu của cô. Đây chính là ý thức tập thể, tính đoàn
kết khi trẻ tham gia hoạt động theo nhóm.
Ví dụ: Cho trẻ tham gia các trò chơi dân gian, mèo đuổi chuột, bịt mắt bắt
dê, câu chuyện cáo và thỏ, hay trong giờ học tôi đã đặt câu hỏi yêu cầu tổ, nhóm
trả lời, tự khắc trẻ sẽ tự tập hợp nhóm của mình để bàn bạc thống nhất để đưa ra
kết quả...
Như trong giờ học khám phá khoa học “Một số đồ dùng trong gia đình”
tôi đã tổ chức cho trẻ hoạt động theo nhóm ngoài việc phát huy tính tích cực,
chủ động và sáng tạo trong hoạt động của mình, trẻ có thể bàn nhau để tìm cho
tổ mình nhóm đồ dùng mà cô yêu cầu...Rồi trong hoạt động góc tôi hướng trẻ
chơi theo nhóm và trẻ có thể bầu nhóm trưởng để phân công công việc cho nhau,
tạo sự đoàn kết và ý thức trách nhiệm của từng thành viên khi được giao nhiệm
vụ.
12
Hình ảnh trẻ hoạt động nhóm.
Bằng những hình thức khác nhau tôi luôn khuyến khích trẻ hoạt động theo
nhóm để từ đó trẻ có những kỹ năng độc lập, nhanh nhẹn hoạt bát và có khả
năng làm thủ lĩnh độc lập trong cuộc sống sau này của trẻ. Khi trẻ tham gia vào
một hoạt động nhóm đòi hỏi trẻ phải có sự làm việc nghiêm túc, phải phân công
rõ ràng để đạt được kết quả. Tôi luôn động viên để trẻ thấy được sự nỗ lực của
cả nhóm trong quá trình trẻ làm việc theo nhóm. Khi nhận xét tôi đã chú trọng
để trẻ cảm nhận được mỗi thành viên trong nhóm đều rất quan trọng và đều đã
làm việc rất tốt. Dù kết quả đó có đạt yêu cầu hay không đạt yêu cầu thì trẻ vẫn
cảm thấy giá trị của sự đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm, tự biết động
viên và an ủi, tạo niềm vui cho nhau thông qua kết quả tập thể đạt được.
Việc dạy cho trẻ kỹ năng, hoạt động theo nhóm và tự giải quyết các vấn
đề cần thiết ở môi trường thực tế hiện nay là một điều hết sức cần thiết, đặc biệt
là ở lứa tuổi Mầm non.
Ví dụ: Khi cho trẻ cùng tập bài tập đồng diễn; ném vòng cổ chai; ném
bóng vào rổ… từ những kinh nghiệm truyền thụ về kiến thức cơ bản và lòng
nhiệt tình, tâm huyết mà tôi đã truyền đạt cho trẻ, trẻ đã biết phối kết hợp với
nhau trong các động tác ngoài ra còn biết tự mình giải quyết những tình huống
sảy ra, biết sáng tạo linh hoạt trong các phần thi, biết nhắc nhở bạn trong khi
thực hiện bài tập mà không có cô giáo.
13
Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những KNS cần thiết với
cuộc sống, có được kỹ năng sống trẻ cần phải có thời gian sống trong một quá
trình thường xuyên với sự hổ trợ của cô giáo, người lớn và bạn bè. Mỗi hoạt
động có xen lồng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ với những nội dung đơn giản,
gần gũi, thiết thực với cuộc sống của trẻ để cho trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng,
thoải mái mà giúp trẻ nhớ lâu và dễ dàng thực hiện.
Giải pháp 5: Công tác phối kết hợp giữa gia đình, giáo viên, nhà trường
và xã hội
Có thể nói, công tác phối kết hợp giữa gia đình, giáo viên, nhà trường và
xã hội là một trong những biện pháp quan trọng và là trách nhiệm của mọi người
trong sự hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Gia đình chính là cái nôi là tổ ấm, là
điểm tựa cho trẻ trong cuộc sống, chính vì vậy, ở trong gia đình, trẻ luôn được
ông bà, bố mẹ quan tâm chăm sóc từ miếng ăn đến giấc ngủ đồng thời cũng có
thể làm thay đổi những nhu cầu mà bản thân trẻ có thể làm được…
Ngay từ đầu năm học thông qua các buổi họp phụ huynh tôi đã phối kết
hợp với nhà trường để trao đổi nội dung kế hoạch giáo dục hình thành kỹ năng
sống cho trẻ, để phụ huynh hiểu và thống nhất biện pháp phối hợp cùng giáo
viên thực hiện nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ.
- Chúng tôi đã phối hợp tuyên truyền với các bậc phụ huynh xem các
chương trình trên ti vi liên quan đến giáo dục trẻ.
Ví dụ: Chương trình bố ơi chúng mình đi đâu thế….
Đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi việc giáo dục rèn luyện phải được
thực hiện ở cả nhà trường, gia đình và xã hội thì mới có hiệu quả cao. Tôi luôn
gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về sự tiến bộ hay
những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục rèn luyện cho
trẻ ở nhà. Đối với những trẻ có thể lực yếu, suy dinh dưỡng, trẻ thụ động, trẻ hay
nghịch... thì tôi luôn tranh thủ đến tận gia đình để trực tiếp gặp bố mẹ, người
thân của trẻ để trao đổi về đặc điểm tâm lý của trẻ và cùng với gia đình có biện
pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tốt hơn. Ngược lại, những cử chỉ và việc làm tốt
của trẻ ở trường và ở gia đình tôi thường nêu ra và tuyên dương trẻ trước lớp để
trẻ khác cùng học tập. Đồng thời phối hợp để phản ánh kết quả qua lại giữa gia
đình, nhà trường đều biết để cùng giải quyết.
Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá để giúp các bậc phụ
huynh có thể hiếu hơn những nội dung mà trẻ được tiếp thu lĩnh hội ở trường
Mầm non.
Ví dụ: Trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại nhóm lớp, tôi thường nhìn thấy
những ảnh hưởng của trẻ từ phía gia đình hay tiếp xúc với mọi người xung
quanh thì trẻ thường có những hành vi sai lệch trong quá trình giáo dục trẻ, và
tôi đã thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh thông qua các giờ đón trả trẻ
14
hoặc gặp trực tiếp tại gia đình để trao đổi tình hình học tập thông qua những kỹ
năng sống của trẻ.
Hình ảnh cô trao đổi với phụ huynh.
Tôi thường xuyên cần dành thời gian gần gũi, quan tâm đến trẻ nhiều hơn. Bố
mẹ phải xem trẻ như những người bạn, cùng trẻ chia sẻ cảm xúc vui buồn, từ
phía trẻ để trẻ sẵn sàng bày tỏ, trò chuyện bộc lộ khả năng, năng lực cảm xúc
của mình. Ở bên trẻ không có một áp lực nào, trẻ sẽ mạnh dạn hồn nhiên và
sống đúng với những suy nghĩ của mình. Đó là điều kiện không thể thiếu để trẻ
phát triển kỹ năng chủ động, tích cực, sáng tạo của trẻ.
Ví dụ: Trong bữa cơm hàng ngày tại gia đình, phụ huynh có thể đặt những
câu hỏi, gợi mở và trả lời với trẻ những câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của trẻ, có
như vậy thì trẻ cảm nhận được niềm vui trong bữa ăn cùng với bố mẹ người thân
trong gia đình.
Tuyên truyền thông qua các hội thi, các cuộc họp của các đoàn thể, các
ngày hội ngày lễ...để phụ huynh hiểu rằng mỗi người trong gia đình đều có trách
nhiệm trong việc giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ và đều phải làm tấm
gương để trẻ noi theo. Những kỹ năng sống tốt đẹp chỉ được hình thành trên nền
tảng là tình yêu thương, sự quan tâm, và tin tưởng lẫn nhau của các phụ huynh,
15
học sinh, cô giáo, nhà trường và toàn xã hội để đứa trẻ sẽ có đầy đủ những phẩm
chất tốt đẹp để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
2.4. Hiệu quả của các giải pháp
Từ những biện pháp thông qua việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thì
tôi đã có được những kinh nghiệm trong việc vận dụng các kỹ năng trong
hoạt động giáo dục, trong môi trường sinh hoạt của trẻ ở gia đình, nhà trường,
trong đó, môi trường giáo dục tại nhóm lớp mà tôi đã tâm huyết trong quá
trình chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ đầu năm đã giúp cho tôi có một hành
trang tạo dựng, rèn luyện cho trẻ có kỹ năng sống tốt đẹp, hành vi đúng đắn,
khả năng giao tiếp tốt và tự lập tự phục vụ, tự giải quyết những vấn đề khi
đến với trẻ.
Kết quả sau khi áp dụng một số biện pháp tôi đã tiến hành khảo sát đánh
giá cuối năm cụ thể như sau:
Bảng đánh giá kết quả cuối năm 2016 - 2017
Sau khi áp dụng biện pháp
Tổng Đạt
Chưa đạt
TT Nội dung khảo sát
số trẻ Số
Tỷ lệ Số
Tỷ lệ
cháu (%)
cháu (%)
Kỹ năng giao tiếp tự tin, mạnh
1
dạn với bạn bè, người thân và 30
30
100
0
0
mọi người xung quanh
Kỹ năng tự phục vụ và tự bảo
2
30
30
100
0
0
vệ bản thân trẻ
Kỹ năng hoạt động theo nhóm
3
và khả năng hợp tác thông qua 30
30
100
0
0
các hoạt động của trẻ
Kỹ năng bộc lộ cảm xúc, thái
4
độ thông qua các hoạt động tại 30
29
96,7
1
4,3
nhóm lớp
Khả năng tự lập, chủ động tự
5
tin, tính đoàn kết, nhường nhịn, 30
30
100
0
0
biết chơi cùng nhau trong lớp.
Nhìn vào bảng đánh giá kết quả trên chúng ta nhận thấy rằng: Các nội
dung đặt ra có sự chuyển biến rõ rệt. Điều này chứng tỏ rằng : GDKN sống đã
thấm dần vào các cháu, các cháu ý thức với bản thân và với mọi người và môi
trường xung quanh hơn, có ý thức xây dựng trường lớp tốt, phụ huynh rất phấn
khởi và tin tưởng. Đặc biệt có một số bé trước khi đến trường vì gia đình nuông
chiều nên có tính ích kỷ và chưa tự phụ vụ bản thân mình một số việc phù hợp
với lứa tuổi, nhưng đến nay các bé đã có ý thức lao động tự phụ vụ không ỷ lại
vào người khác và sống hoà đồng hơn và cho thấy việc rèn các kỹ năng sống cho
trẻ đã có những chuyển biến rõ nét. Trẻ rất tự tin trong giao tiếp, lời nói diễn đạt
từ ngữ mạch lạc, rõ ràng. Khả năng thích nghi với môi trường cũng như khả
16
năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng hợp tác hoạt động theo nhóm đã phát huy
tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong mọi hoạt động, trẻ đã tập trung vào các
mối quan hệ giữa bạn bè, cô giáo và người thân, trẻ đã có kỹ năng tự kiểm soát
cảm xúc và tạo niềm vui, đặc biệt là tính kỷ luật và mối quan hệ cá nhân của trẻ
đã được nhân lên. Khả năng giải quyết mọi vấn đề của trẻ đã được chủ động, trẻ
biết kiểm soát tình cảm của mình với các bạn và người thân. điều đó đã chứng
minh giáo dục kỹ năng sống ngay từ lứa tuổi Mầm non là nền tảng vững chắc để
phát triển toàn diện cho trẻ.
3. Kết luận, kiến nghị:
- Kết luận
Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của
con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non sẽ mang lại cho các cháu trí
tuệ, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, sớm đem lại cho trẻ có ý thức và khả
năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến
những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho xã hội. Qua quá trình thực
hiện đề tài bản thân tôi đã rút ra được những kết luận như sau:
- Cần phải nhận thức sâu sắc những quan điểm và nội dung giáo dục trong
thời kỳ đổi mới hiện nay để lựa chọn nội dung phù hợp trong quá trình rèn kỹ
năng sống cho trẻ.
- Cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, biết tổ chức linh hoạt và
vận dụng nhiều biện pháp, phân tích, giải thích khích lệ, quan tâm chú trọng trẻ
có đặc điểm tâm sinh lý khác thường để giáo dục phù hợp.
- Nội dung giáo duc kỹ năng sống cần phải phù hợp với khả năng kinh
nghiệm, gần gũi và thiết thực với cuộc sống của trẻ.
- Người lớn phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo và cư xử một cách
công bằng và tôn trọng, đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Việc học của trẻ luôn được người lớn khuyến khích, chia sẽ thì trẻ tự tin
vào năng lực bản thân.
- Tạo nhiều cơ hội cho trẻ được tương tác với bạn bè, với cô qua việc trẻ
tham gia vào các hoạt động giáo dục như vui chơi, âm nhạc, tạo hình, phát triển
ngôn ngữ...
- Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm một cách hứng thú, sáng tạo và tính
tích cực hơn trong các hoạt động hàng ngày.
- Tạo cơ hội để trẻ luyện tập KNS, thúc đẩy trẻ thay đổi các giá trị, thái độ
và hành vi trước đó của mình nhằm lựa chọn những giá trị, thái độ và hành vi
phù hợp. không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp
nhận của trẻ. Hãy giúp trẻ lớn lên từ chính nó.
- Giúp trẻ vận dụng kiến thức và kỹ năng mới vào các tình huống thực tế.
- Gần gũi, lắng nghe, tin tưởng ở trẻ.
- Kịp thời khen ngợi động viên trẻ khi trẻ thể hiện những kỹ năng sông phù
hợp
- Tích cực tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt nhằm
trang bị cho mình những kiến thức trong quá trình chăm sóc giáo dục.
17
- Mạnh dạn dám nghĩ, dám làm, khắc phục mọi khó khăn, trong mọi tình
huống để thực hiện thành công ý tưởng của mình trong việc rèn kỹ năng sống
cho trẻ.
- Phát huy công tác tuyên truyền, vận động với phụ huynh trong công tác
giáo dục và hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
- Tổ chức nhiều hoạt động tập thể, tạo mọi cơ hội cho trẻ được gần gũi,
tiếp xúc, được trải nghiệm để hình thành các kỹ năng sống.
- Công tác tham mưu tích cực với nhà trường và phối kết hợp với các
đoàn thể trong nhà trường, cần tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về tầm quan trọng
khi dạy kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non, thường xuyên phối hợp với
gia đình, cộng đồng xây dựng kế hoạch bàn bạc thống nhất để cùng thực hiện
đây cũng là biện pháp tốt nhất để rèn kỹ năng sống cho trẻ.
- Kiến nghị
Qua một thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở bậc học Mầm non là rất quan trọng và cần thiết.
Vì vậy kiến nghị các cấp lãnh đạo tiếp tục triển khai thực hiện rộng rãi nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở các trường mầm non.
- Mở lớp tập huấn chuyên môn, các hội thảo về nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho giáo viên đến từng cơ sở.
- Thường xuyên kiểm tra giám sát để kịp thời việc tổ chức thực hiện công
tác chăm sóc giáo dục, đặc biệt chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất cũng như kinh phí để tổ chức các
hoạt động giáo dục nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ.
Trên đây là “Một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi ở trường mầm non Thiệu Nguyên huyện Thiệu Hóa”, do kinh nghiệm và
khả năng còn có những hạn chế nhất định, bản thân luôn mong được tiếp thu ý
kiến đóng góp bổ sung của Hội đồng nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm các cấp
để sáng kiến được hoàn thiện và áp dụng vào thực tế đạt hiệu quả cao hơn./.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thiệu Nguyên, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
............................................................. viết, không sao chép nội dung của người
............................................................. khác.
.............................................................
Người viết
.............................................................
.............................................................
.............................................................
...........................................................
Nguyễn Thị Thủy
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- [1] Tài liệu hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu
giáo 5 -6 tuổi.
- [2] Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên hè cho cán bộ giáo viên hè 2015 - 2016.
- [3] Tài liệu dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
19
20