Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG
VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện : Đặng Thị Thơm
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Đông Hải 1
SKKN thuộc lĩnh vực : Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2021


MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................1
2. NỘI DUNG.......................................................................................................2
2. 1. Cơ sở lí luận..................................................................................................2
2.1.1. Vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu và nội dung của phân môn tập làm văn lớp 2.....2
2.1.2. Tâm lí học sinh lớp 2 khi học Tập làm văn...............................................3
2.2.Thực trạng của việc dạy học phân mơn tập làm văn....................................3
2.2.1. Đặc điểm tình hình.....................................................................................3


2.2.2.Thực trạng dạy học Tập làm văn ở trường................................................3
2. 3. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh................6
2.3.1. Biện pháp 1: Phân loại học sinh................................................................6
2.3.2. Biện pháp 2: Nghiên cứu kĩ tài liệu và bổ sung hệ thống câu hỏi phù
hợp với học sinh:..................................................................................................6
2.3.3. Biện pháp 3: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, hình thức tổ
chức học tập cho học sinh....................................................................................8
2.3.4. Biện pháp 4: Tăng cường vốn từ cho học sinh.........................................9
2.3.5. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn và nắm được
trình tự các bước khi viết một đoạn văn ...........................................................11
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân và học sinh..................................................................................................13
2.4.1. Với bản thân.............................................................................................13
2.4.2. Đối với học sinh:.......................................................................................14
2.4.3. Kết quả......................................................................................................15
2.4.4. Bài học kinh nghiệm:...............................................................................14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................15
3.1. Kết luận:.......................................................................................................15
3.2. Kiến nghị:....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................17


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho
sự phát triển tồn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông.
Tại Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 đã khẳng định:
“Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”

Nghị quyết 29 khoá 11 của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phải phát triển toàn
diện giáo dục và đào tạo”
Vậy nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo ra những con người mới có kiến
thức, kĩ năng, phẩm chất đạo đức, năng động, sáng tạo để đáp ứng với yêu cầu
phát triển của xã hội.
Trong chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, mơn Tiếng Việt là mơn học
giữ vị trí vơ cùng quan trọng. Thơng qua học mơn Tiếng Việt, học sinh có được
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, giúp các em có khả năng giao tiếp và
phát triển ngơn ngữ. Làm tiền đề cho việc học các môn học khác.
Môn Tiếng Việt có nhiều phân mơn. Trong đó, phân mơn Tập làm văn là
phân mơn tổng hợp tồn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân môn: Tập
đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu.Với mục tiêu rèn học sinh ở
cả bốn kĩ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ năng viết “ một đoạn văn ngắn” là
yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Tập làm văn lớp 2.
Nội dung phân môn Tập làm văn lớp Hai cung cấp cho học sinh các kĩ
năng nghe, nói, viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các bài về nghi
thức tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày thì phân
mơn Tập làm văn lớp Hai cịn rèn cho học sinh có kĩ năng diễn đạt lời nói, suy
nghĩ bằng cách viết thành đoạn văn ngắn. Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt
học âm – vần, các em đã được luyện nói từng câu ngắn. Tuy nhiên do vốn từ của
các em cịn ít nên việc diễn đạt cịn rất hạn chế. Thực tế sang đầu năm lớp Hai,
hầu hết các em chỉ nói được các câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt câu còn rời
rạc. Học sinh còn viết sai lỗi chính tả, chưa biết sử dụng dấu câu trong khi viết
đoạn văn. Vì vậy việc dạy tốt Tập làm văn trong giai đoạn hiện nay là việc hết
sức cần thiết. Chính bởi các lí do trên mà tôi chọn đề tài“ Một số biện pháp rèn
kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và điều tra thực tế nhằm đề ra các biện pháp
rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh, qua đó từng bước nâng cao kĩ năng
diễn đạt khi giao tiếp, khi viết câu văn, đoạn văn. Đồng thời, giúp các em say

mê, hứng thú khi học Tập làm văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
1


2. NỘI DUNG
2. 1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu và nội dung của phân môn
tập làm văn lớp 2.
2.1.1.1. Vị trí :
Ở tiểu học nhất là lớp 2, Tập làm văn là một trong những phân mơn có tầm
quan trong đặc biệt (ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh mới bắt
đầu được học, được làm quen ).
Môn Tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt được phát
triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết thành bài văn
theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ có những hiểu biết
sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng, hồn thiện nhân cách
cho các em.
2.1.1.2. Nhiệm vụ của dạy tập làm văn:
Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân mơn Tập
làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ “
văn bản” được dùng để chỉ sản phẩm hồn chỉnh của lời nói trong một hồn
cảnh giao tiếp cụ thể. Đó khơng nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu, nhiều
đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là loại văn kể
chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Đối với lớp 2, dạy Tập làm văn

là trước hết là rèn luyện cho học sinh kỹ năng phục vụ học tập và giao tiếp hàng
ngày, cụ thể là:
- Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn,
xin lỗi, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành...
- Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như :khai bản tự thuật
ngắn, viết những bức thư ngắn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học
sinh, …
Cuối cùng cũng như các phân môn và môn học khác, phân môn Tập làm
văn, thơng qua nội dung dạy học của mình, có nhiệm vụ trao dồi cho học sinh
thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong cơng việc, bồi dưỡng
những tình cảm lành mạnh cho các em.
2.1.1.3. Những yêu cầu cần đạt được sau khi học tập làm văn lớp 2 :
- Rèn luyện các kỹ năng nói, viết, nghe phục vụ cho học tập và giao tiếp
hàng ngày.
- Nắm được các nghi thức lời nói tối thiểu: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn,
xin lỗi….
- Nắm được các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, như: viết
bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, …
- Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược về người vật xung quanh theo gợi ý
bằng tranh, bằng câu hỏi
- Nghe hiểu được ý kiến của bạn,có thể nêu ý kiến bổ sung,nhận xét.
2.1.1.4. Nội dung của phân môn tập làm văn lớp 2:
Trong quá trình tìm hiểu sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, tôi nhận thấy
rằng các bài tập làm văn được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn
2


khác. Các bài tập làm văn được bố trí cuối mỗi tuần. Mỗi tuần thường có 2 đến 3
bài tập. Cụ thể:
Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm

ơn, xin lỗi….
Thực hành về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, như : viết
bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, ……….
Thực hành rèn kỹ năng diễn đạt (nói, viết), như: kể về người thân, tả biển,
tả cây cối, ……
2.1.2. Tâm lí học sinh lớp 2 khi học Tập làm văn
- Đối với học sinh lớp 2, vì các em mới từ lớp 1 lên do đó các em có trí nhớ
trực quan - hình tượng chiếm ưu thế. Các em dễ thích nghi và dễ tiếp nhận cái
mới nhưng lại thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định
chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ
nhớ nhanh, quên cũng nhanh. Các em vừa chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi
sang học tập. Vì vậy, tư duy của các em nặng về trực quan cụ thể, tư duy trừu
tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học tôi luôn sử dụng linh hoạt,
sáng tạo các phương pháp dạy học.
2.2.Thực trạng của việc dạy học phân mơn tập làm văn
2.2.1. Đặc điểm tình hình
* Địa phương :
Đông Hải là một phường đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân ngày
một ổn định, dân trí ngày một nâng cao, đa số phụ huynh quan tâm đến học sinh.
* Nhà trường:
- BGH nhà trường đều là những người có năng lực quản lí, lãnh đạo. Ln
quan tâm, chỉ đạo sâu sát tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên làm tốt nhiệm vụ
được giao; quan tâm tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, xây dựng các tiết
dạy minh họa về rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh, giúp các giáo viên có
cơ hội trao đổi chuyên môn, nâng cao năng lực sư phạm.
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn.
- Chất lượng nhà trường ngày một nâng cao.
- Trường đã đạt chuẩn quốc gia mức độ 2
2.2.2.Thực trạng dạy học Tập làm văn ở trường
* Về phía giáo viên:

- Việc phân bố thời gian trong tiết tập làm văn còn chưa hợp lý.
- Năng lực viết và cảm thụ văn của giáo viên còn hạn chế, cịn đơn điệu, ít
sáng tạo, chưa thật sự linh hoạt trong việc phối kết hợp các phương pháp dạy
học và thay đổi hình thức dạy học nên chưa cuốn hút được học sinh. Đơi khi
dạy vẫn có phần khn mẫu. Ví dụ: Khi dạy học sinh bài Tập làm
văn tuần 20 “ Tả ngắn về bốn mùa ". Giáo viên đã hướng dẫn
gợi mở các câu hỏi theo sách giáo khoa: + Mùa hè bắt đầu từ
tháng nào trong năm ? (Mùa hè bắt đầu từ tháng tư trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào? (Mặt trời mùa hè rất chói
chang).
3


+ Cây trái trong vườn như thế nào? (Cây trong vườn có rất
nhiều hoa quả ).
+ Học sinh thường làm gì trong dịp
nghỉ hè? (Học sinh thường được vui chơi trong dịp nghỉ hè).
- Giáo viên chưa vận dụng kỹ năng tả “Mùa Xuân" của bài
tập 1 vào hướng dẫn bài tập 2. Sự dập khn máy móc như vậy
dẫn đến bài viết của học sinh là bốn câu thiếu lơgíc và sáng tạo,
khơng phát huy được tính tích cực của học sinh. Vì vậy, cách
hướng dẫn học sinh làm bài tập "Viết đoạn văn ngắn", thường
là:
Bước 1: Học sinh đọc yêu cầu bài .
Bước 2: Giáo viên nêu yêu cầu của bài: Viết đoạn văn từ 3
đến 5 câu, các câu phải liên kết với nhau .
Bước 3 : Học sinh viết vào vở .
Bước 4 : Chấm chữa lỗi.
+ Gọi 1 hoặc 2 học sinh đọc bài viết.
+ Giáo viên chấm bài, chữa một số lỗi sai về câu từ .

- Với cách hướng dẫn như trên học sinh khó có thể nhận ra
nội dung đoạn viết cần có những gì? Liên kết câu như thế nào?
Cách diễn đạt làm sao cho thoát ý… Đến bước 4 chấm lỗi như
vậy chưa có kết quả thiết thực đối với học sinh vì đối tượng học
sinh lớp 2 các em dễ nhớ nhưng nhanh quên. Do đó, cái sai của
học sinh vẫn được lặp lại trong bài
* Về phía học sinh:
Trong mấy năm gần đây, tôi được phân công chủ nhiệm và dạy lớp 2 nên
tôi thấy rằng:
Các em học sinh lớp 2 vốn sống cịn ít, vốn hiểu biết về
Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn
câu văn đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về
nghĩa cịn chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có
mức độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả.
- Học sinh có hứng thú trong giờ Tập làm văn song chủ yếu
tập trung vào các bài tập làm miệng với các yêu cầu nói lời cảm
ơn, xin lỗi, đáp lại lời khẳng định, phủ định. Song vốn từ các em
còn chưa nhiều, kỹ năng diễn đạt bằng ngơn ngữ viết của học
sinh cịn hạn chế nên đôi khi các em chưa nhận ra được sự khác
biệt giữa các ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết. Học sinh thường
viết theo ý hiểu bằng ngơn ngữ của mình cho nên câu văn chưa
giàu hình ảnh, dùng từ chưa phù hợp Ví dụ: Khi học bài tập làm
văn tuần 10: Dựa theo lời kể bài 1 hãy viết một đoạn văn ngắn
(từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc người thân của em. Bài viết
của học sinh: "Bà em đã lên 65 tuổi rồi. Da mịn màng. Tóc dài
óng ả. Bà cho em ăn bánh. Bà rủ em đi chợ sau đó hai bà cháu
lại đi chơi." .
4



Một số bài viết của học sinh còn lộn xộn về câu, ý, dùng từ
chưa đúng vào văn cảnh, câu rời rạc thiếu sự liên kết. Ví dụ: Có
học sinh khi viết đoạn văn tả về một loài chim mà em thích (Tập
làm văn tuần 21) như sau: " Những ngày đi học về em cảm thấy
rất nhớ nó. Mỏ nó mượt và nó hót rất hay. Em rất thương nó và
nó đẹp. Bộ lơng nó mượt. Hình dáng của con bồ câu rất thích
thú". Đơi khi học sinh viết câu dùng cụm từ so sánh để diễn tả
nội dung song sự so sánh ấy rất khập khiễng. Ví dụ: Khi viết
đoạn văn kể về bà có em viết: "Da mặt bà em nhăn nheo như
quả bưởi héo".
Năm 2020- 2021, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2B với tổng số học
sinh là 40 em, trong đó nam 19 em, nữ 21 em.Với thực trạng chung như trên nên
ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng viết đoạn văn ngắn ( 3- 5
câu) của học sinh lớp tôi, với đề bài như sau:
Đề bài : Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1
của em.
Qua việc chấm chữa bài, tôi thấy kết quả làm bài của lớp tơi có những ưu và
nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
- Hầu hết các em đã xác định được yêu cầu của đề bài.
- Trình bày đúng hình thức, viết đoạn văn.
- Một số em chữ viết đẹp, câu văn đủ ý, đúng nội dung.
* Nhược điểm
Một kết quả kiểm tra cho thấy số học sinh ở lớp tôi viết đoạn văn cịn hạn
chế. Trong q trình làm bài, tơi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm
bài chưa đạt yêu cầu. Một số em viết sai lỗi chính tả, lặp lại câu đã viết, dùng từ
sai, cách chấm câu còn hạn chế, sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn văn còn rời
rạc, nhiều em diễn đạt câu văn cịn lủng củng, thiếu hình ảnh, cảm xúc .
Hay có một số em cịn trả lời câu hỏi theo kiểu lắp đi nên câu văn thiếu
hình ảnh, cảm xúc.


5


2.2.2.3. Nguyên nhân :
1. Do học sinh chưa có kỹ năng quan sát. Do tâm lý lứa tuổi,
do chưa được rèn luyện thường xuyên nên các em chưa có cách
quan sát cụ thể chi tiết. Các em chỉ quan sát thống qua, hời
hợt, thậm chí có em cịn khơng để ý đến đối tượng cần quan
sát. Thêm vào đó khả năng tưởng tượng còn hạn chế, thiếu vốn
sống thực tế. Do vậy khi viết đoạn văn cịn có những câu văn
lạc lõng không sát thực với yêu cầu của đề bài.
2. Chưa biết dùng từ, đặt câu,. Vốn từ của học sinh lớp 2 còn
nghèo nàn, chưa hiểu hết nghĩa của từ, chưa hiểu nhiều về cấu
tạo của câu nên khi viết đoạn văn các em còn nhiều hạn chế.
3. Chưa có kỹ năng sắp xếp câu thành đoạn. Từ chỗ nói chưa
thành câu, nói câu cộc lốc nên khi viết các em bị chi phối nhiều.
Hơn nữa các em cịn khơng biết viết câu nào trước, câu nào sau,
viết chưa thành câu đã chấm hết câu, viết xuống dòng tùy tiện
do vậy nhiều bài văn của các em viết không thành đoạn theo
dung yêu cầu.
4. Nguyên nhân không nhỏ nữa là một số em học sinh về nhà do bố mẹ cịn
bận cơng việc nên chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em
2. 3. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh
Để đạt được mục tiêu, yêu cầu môn học, học sinh phải trải qua một quá
trình rèn luyện và phải có sự chỉ đạo, phối hợp giữa giáo viên với gia đình học
sinh và giữa học sinh với nhau. Vì vậy, tơi đã áp dụng các biện pháp sau:
2.3.1. Biện pháp 1: Phân loại học sinh
Đây là việc làm cần thiết trong q trình giảng dạy. Tơi phân học sinh
thành 3 loại để có biện pháp rèn phù hợp:

Loại 1: Viết chưa đủ câu, diễn đạt lủng củng, sai lỗi chính tả.
Loại 2: Viết đoạn văn đủ câu, đủ ý theo yêu cầu đề bài.
Loại 3: Bài viết hay, sáng tạo, sinh động giàu hình ảnh, cảm xúc.
Cách rèn ba loại như sau:
- Đối với học sinh viết chưa đủ câu, diễn đạt lủng củng, sai lỗi chính tả:
Tâm lí các em rất ngại viết, ngại suy nghĩ, nhất là các bài dài, vì thế tơi
khơng ép các em viết nhiều. Luyện nói và trả lời từng câu hỏi sau đó viết từng
câu theo câu hỏi gợi ý. Tơi đã động viên các em viết tốt từng câu mỗi bài, sau đó
nâng dần lên sắp xếp các từ trong câu cho hợp lí và có nghĩa, từ đó viết thành
đọan văn hồn chỉnh, đúng chính tả.
- Đối với học sinh viết đoạn văn đủ câu,đủ ý theo yêu cầu đề bài:
6


Tâm lí các em ngại thể hiện, các em nghĩ biết viết là được. Tơi đã khuyến
khích như khen, động viên để các em tìm hiểu và suy nghĩ kĩ hơn yêu cầu đề bài
để các em tự mình tìm ra những từ ngữ hay, giàu cảm xúc từ đó các em viết
được những câu văn hay ngoài những câu đã trả lời theo gợi ý.
- Đối với học sinh viết câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc. Bài viết hay.
Tâm lí các em thích bộc lộ, tự tin. Tơi yêu cầu các em ở mức độ cao hơn
như viết câu có cảm xúc, tình cảm hay có hình ảnh sinh động. Tôi thường cho
các em này đọc bài viết mẫu để học sinh khác noi theo.
2.3.2. Biện pháp 2: Nghiên cứu kĩ tài liệu và bổ sung hệ thống câu hỏi phù
hợp với học sinh:
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. Tôi đã
tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ
bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với
những bài khơng có câu hỏi gợi ý, tơi chuẩn bị những câu hỏi cho các em. Đồng thời
cho các em quan sát một số bức tranh, hình ảnh có thật liên quan đến bài dạy để các
em có thêm vốn sống tạo cho bài văn thêm sinh động.

Ví dụ:
*Bài viết về gia đình: Tơi đã chuẩn bị hệ thống câu hỏi như sau:

- Gia đình em gồm những ai?
- Những người đó làm cơng việc gì?
- Tình cảm của những người trong gia đình như thế nào ?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
* Bài viết về cô giáo (hoặc thầy giáo) của em
Tôi cũng chuẩn bị các câu hỏi sau:

7


- Cô giáo (thầy giáo) lớp 1 của em tên gì?
- Dáng người cơ, mái tóc cơ như thế nào?
- Giọng nói của cơ như thế nào?
- Tình cảm của cô (hoặc thầy) đối với học sinh như thế nào?
- Em nhớ nhất điều gì ở cơ (hoặc thầy)?
-Tình cảm của em đối với cô (hoặc thầy) như thế nào?
*Bài viết về một lồi cây :

- Đó là cây gì, trồng ở đâu ?
- Hình dáng cây như thế nào?
- Cây có lợi ích gì ?
* Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm :
- Em (Bạn em ) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em (Bạn ấy) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm (thấy bạn làm) việc tốt đó?
Như vậy tuỳ theo mỗi loại bài mà tôi lựa chọn và chuẩn bị hệ thống câu hỏi
cho phù hợp thông qua một số bức tranh đưa ra làm ví dụ như ở trên.


8


2.3.3. Biện pháp 3: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, hình thức
tổ chức học tập cho học sinh.
Muốn rèn kĩ năng viết cho học sinh thì giáo viên phải tạo nhiều cơ hội cho
học sinh hoạt động. Vì vậy, địi hỏi giáo viên phải sử dụng và kết hợp linh hoạt
nhiều phương pháp dạy học nhằm phát huy hết khả năng nói và viết của học
sinh. Do đó, trong các tiết dạy tập làm văn, trước khi cho học sinh làm bài viết
tơi ln tìm tịi và sử dụng nhiều phương pháp dạy học như: quan sát, phân tích
ngơn ngữ, thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau, đàm thoại với chính cơ giáo
hoặc độc thoại về đề bài cần hồn thành. Bên cạnh đó tơi cũng thường tổ chức
cho các em các hoạt động học tập như: Đóng hoạt cảnh, chơi trị chơi, thi tiếp
sức, làm phiếu học tập hoặc cho học sinh trực tiếp ra ngoài quan sát tiếp cận
thực tế sau đó khuyến khích học sinh nói với bạn, với cơ giáo từ đó tự bản thân
tích lũy vốn từ và kiến thức cần trình bày.
Ví dụ: Bài Tập làm văn tuần 9, tiết 10.
Đề bài: Hãy viết một đoạn văn ngắn ( từ 3 – 5 câu ) kể về ông bà hoặc một
người thân của em dựa vào các gợi ý sau:
1. Ông, bà (hoặc người thân ) của em bao nhiêu tuổi?
2. Ông, bà (hoặc người thân ) của em làm nghề gì?
3. Ơng, bà (hoặc người thân ) của em u quý, chăm sóc em như thế nào?
Nếu dạng bài này mà học sinh khơng có sự chuẩn bị và tìm hiểu thì các con
sẽ khơng biết viết như thế nào. Vì nhiều em cịn chưa biết người thân mà các em
định kể nghề nghiệp chính xác là gì và nó có ích như thế nào? Chính vì vậy mà
tơi đã giao một phiếu bài tập cho học sinh thảo luận nhóm đơi như sau:
Phiếu bài tập
Năm
Hằng

Những Tình cảm
Người
Hình dáng,
Em sẽ làm
nay bao
Làm ngày, làm việc ấy có của em
thân em
nước da,
gì để người
nhiêu
nghề gì? những ích như dành cho
tên là gì?
trang phục
thân vui?
tuổi?
việc gì? thế nào? người thân?
............... ........... .............. ............. ............

.............

............

...............

Có phiếu giao việc như vậy cũng chính là cách giúp con thu thập thông tin
về người thân một cách chính xác và đầy đủ để khi viết các con có vốn mà viết.
Từ thơng tin đó, tơi cho các em chia sẻ hỏi và trả lời theo nội dung phiếu với
bạn, với cơ giáo. Vì đã được chuẩn bị kĩ các thông tin nên các con tự tin trao đổi
với nhau, trao đổi với cô giáo về người thân mình định viết. Khơng cịn sự lúng
túng hay cái gãi đầu, gãi tai vì khơng biết nói gì về người thân của mình.

Như vậy, qua thảo luận nhóm học sinh được rèn kĩ năng giao tiếp từ mức đơn
giản (giao tiếp trong nhóm, lớp, cơ giáo) đến mức cao hơn là giao tiếp ngồi
cuộc sống.
Ví dụ: Khi tả về con chim mà em u thích, có em lớp tơi nói: “Chim chích
ch cứ sáng sớm, trên cây dừa nhà em nó đậu rồi nó hót”.
9


Tơi đã phân tích cho học sinh trong lớp, ý bạn nói: Cứ vào thời điểm buổi
sáng, ở trên cây dừa nhà bạn ấy có một con chim chích ch đến và hót. Vậy các
em cần sắp xếp từ ngữ sao cho rõ ý, để nội dung em định viết trở thành câu văn
hay, giàu hình ảnh. Cơ sửa thành:
“ Sớm nào cũng vậy, chim chích choè lại bay đến đậu trên cây dừa nhà em,
cất tiếng hót líu lo”.
Hoặc tơi cho học sinh khác nói để phát huy tính sáng tạo của các em.
2.3.4. Biện pháp 4: Tăng cường vốn từ cho học sinh
* Phối hợp với phụ huynh học sinh
Muốn học sinh có vốn từ tốt thì người giáo viên phải biết phối hợp với phụ
huynh học sinh để giúp các con có khơng gian sống giao lưu với thiên nhiên và
con người như cho các con đi công viên, đi dã ngoại, múa hát để các em có
nhiều trải nghiệm cũng là cách giúp các con nhìn nhận thế giới, thay đổi nhận
thức cũng như khả năng quan sát. Từ đó mà các con có thêm vốn sống thì vốn từ
sẽ phong phú hơn khi kể và tả.
Tư vấn cho phụ huynh cùng con đọc sách và cùng đi nhà sách để mua
những cuốn truyện hay như truyện cổ tích, truyện văn học, ... để con đọc và học
được cái hay trong các cuốn truyện từ cách viết câu, từ ngữ phong phú. Đọc
nhiều các con sẽ có nhiều hơn vốn từ cho bản thân. Hoặc trước khi đi ngủ , bố
mẹ có thể đọc cho con nghe một câu chuyện cổ tích, vừa giúp các con ngủ ngon
lại tăng khả năng học hỏi của các con.
* Phối hợp với thư viện trường.

Thư viện là nơi có rất nhiều đầu sách hay và bổ ích cho các con. Giáo viên
nên kết hợp với thư viện để lựa chọn cho các con những đầu sách hay có liên
quan đến tiết Tập làm văn. Tôi dành thời gian hợp lý cho các con đi thư viện đọc
sách. Để tích lũy vốn từ, tơi u cầu mỗi học sinh có một cuốn sổ tay mà trong
đó các em sẽ ghi lại các từ ngữ các con thấy hay thấy sáng tạo và các từ được cô
giáo cung cấp thêm để khi viết các con sẽ có vốn từ phong phú, câu văn giàu
hình ảnh nhờ cuốn cẩm nang này
Ví dụ: Khi quan sát tranh tả biển, các em có thể viết: Tranh vẽ cảnh biển
vào buổi sáng bình minh. Sóng biển nối đuôi nhau xô vào bờ. Trên mặt biển
những chiếc thuyền buồm đủ màu sắc. Trên bầu trời ông mặt trời tỏa ánh nắng
rực rỡ xuống mặt đất. Những đám mây trắng trôi bồng bềnh. Những chú chim
hải âu đang chao liệng trên bầu trời thỉnh thoảng lại sà xuống mặt biển như đùa
giỡn với sóng. Em rất yêu biển.
Mặc dù chỉ là quan sát tranh và trả lời câu hỏi nhưng học sinh cũng vận
dụng vốn từ và hiểu biết của mình để cho bức tranh trở nên sinh động bằng
những từ ngữ giàu hình ảnh.
Học sinh hiểu biết sâu sắc về thực tế cuộc sống và văn học nhằm giúp trí tưởng
tượng và cảm xúc của các em ngày càng thêm phong phú, chân thực. Đây chính là
điều quan trọng để bài văn đạt kết quả cao. Mặt khác, phải giúp học sinh làm giàu
vốn từ. Một số học sinh do vốn từ nghèo nàn nên thường dùng từ sai.
*Chú trọng lồng ghép, tích hợp các phân mơn khi dạy phân mơn tập làm văn
Trong q trình giảng dạy, tơi nhận thấy rằng tích hợp các phân môn Tiếng
Việt: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu sẽ cung cấp cho các con vốn từ
10


phong phú đa dạng, tạo đà cho học sinh học tốt phân môn Tập làm văn. Mối
quan hệ này thể hiện rất rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa, các bài học được
biên soạn theo chủ đề nhằm cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật,
hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, khơng bỡ ngỡ khi

gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết
về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ:
Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” (từ tuần 10 đến tuần
16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình,
cùng với những tiết học của phân môn Luyện từ và câu, cung cấp, mở rộng vốn
từ ngữ cho học sinh, ngoài việc giúp các em hiểu rõ và nắm chắc người thân của
mình là những ai, ngồi việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thơng
qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung
bài, hướng cho học sinh liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tơi
cịn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các
từ ngữ phù hợp với đề tài (ông bà, cha mẹ, anh em) để chuẩn bị cho bài làm văn
sắp tới (viết về người thân), tơi ln nói với các em sự cần thiết phải lựa chọn
những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn, khơi gợi và kích
thích tinh thần học tập của các em như:
*Những từ chỉ hình dáng :
+ Dáng ơng, bà: hơi cịng, lưng khơng cịn thẳng nữa,...
+ Dáng bố, mẹ: cao to, dong dỏng cao, nhỏ nhắn,...
+ Dáng anh ( chị, em): cao, gầy, bầu bĩnh,...
*Từ ngữ về mái tóc,nước da:
+ Mái tóc ông bà: tóc điểm nhiều sợi bạc, bạc trắng như cước,...
+ Tóc mẹ: mượt mà, óng ả, bơng bềnh, xoăn,...
+ Tóc bố: ngắn, cắt tỉa gọn gàng,...
+ Tóc em: ngắn, lơ thơ, tết thành hai bím,...
+ Nước da: đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, đỏ đắn, ngăm đen…
Tuỳ theo từng bài, mà tôi yêu cầu học sinh đưa ra và lựa chọn một số từ
phù hợp với văn cảnh.
Ví dụ: -Tả nắng của mùa hè: nắng chói chang, nắng gắt gỏng, nắng như
thiêu như đốt….
-Tả về tiếng hót của chim: hót líu lo, hót véo von, hót vang lừng…

Hơn nữa, tôi cũng nhắc nhở học sinh lưu ý giữa ngơn ngữ nói và ngơn ngữ
viết. Khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác em phải cho trong ngoặc kép.
Về mặt phân tích ngơn ngữ, học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ
pháp. Các khái niệm từ và câu được hình thành thơng qua thực hành luyện tập.
Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ rất cần
thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để tơi có cơ sở giúp
học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Ví dụ:
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân mơn Luyện từ và câu: “ Ai – là
gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, tôi đã hướng dẫn HS nhận biết
những vấn đề sau:
11


- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi Ai? (hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/
như thế nào? (Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt nghĩa )
Trên cơ sở đó , tôi hướng dẫn và nhắc nhở học sinh viết dấu chấm khi hết câu.
2.3.5. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn và nắm được
trình tự các bước khi viết một đoạn văn .
2.3.5.1. Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý
cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Bước 2: Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng; cung cấp và gợi
ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu
các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn.
Khuyến khích học sinh khá giỏi vận dụng, khơng bắt buộc tất cả các đối tượng
học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, nên tôi hướng dẫn mẫu và
cung cấp các thành ngữ so sánh, cách nhân hóa nhưng khơng đưa những thuật

ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp
lý để hoàn chỉnh bài làm miệng.
Bước 4: Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh
viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
Bước 5: Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm
kích thích tinh thần học tập của học sinh.
2.3.5.2. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn:
Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. Có thể diễn đạt bằng một câu
Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có
thể diễn đạt 2 đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật: Tôi hướng dẫn học sinh bằng những câu hỏi
gợi ý sau:
- Con vật em định kể là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó? ( Tình cảm của em đối với con vật như thế nào)

12


Từ đó, tơi cho học sinh viết
như sau:
Câu mở đầu:
- Giới thiệu về chim sáo
(Con vật em định kể là con
vật gì? )

Các câu phát triển:
(Kể về chim sáo)
- Nó sống ở đâu? Hình dáng
nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi
bật?

theo trình tự tương ứng với các câu hỏi trên
- Trong thế giới loài chim, em thích nhất là
chim sáo .
Chim sáo được ơng em ni đã hai năm rồi.
Mỏ nó vàng. Lơng màu nâu sẫm. Nó hót suốt
ngày. Đơi khi cịn nói được cả tiếng nguời.
Có lẽ nó vui vì được mọi người chăm sóc,
ni trong một cái lồng rất to, bên cạnh một
cây hoa lan rất cao toả bóng mát.

Câu kết thúc:
Em rất yêu chú chim sáo này vì nó là con vật
- Tình cảm của em đối với hiền lành, dễ thương.
loài chim này
Tơi đã giúp học sinh hiểu được có nhiều cách diễn đạt để bài làm của các
em được phong phú, khơng để tình trạng học sinh làm theo bài văn mẫu. Tơi
cũng chủ động hình thành kỹ năng từng bước cho học sinh ở từng thời điểm
thích hợp. Khơng áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ
năng mới được hình thành. Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn kiên nhẫn tái hiện
và lặp lại kiến thức cho học sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền
móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân và học sinh

2.4.1. Với bản thân.
- Qua việc tìm tịi nghiên cứu tài tiệu, sách báo, sách giáo khoa, sách giáo
viên... bản thân tơi đã có thêm một số kiến thức, hiểu biết về quan điểm, đường
lối chỉ đạo của Đảng, của ngành đối với giáo dục. Tôi đã nắm bao quát và vững
hơn về nội dung chương trình Tập làm văn lớp 2 cũng như những yêu cầu học
sinh cần đạt được sau khi học phân môn Tập làm văn lớp 2.
13


- Trong quá trình giảng dạy, mối quan hệ của cơ và trị trở nên gần gũi, thân
thiện hơn.
- Bản thân tôi đã nắm vững hơn về phương pháp dạy phân môn Tập làm
văn và cảm thấy tự tin, thoải mái, hứng thú hơn khi dạy phân môn này trên lớp
hàng ngày cũng như khi có đồng nghiệp hay mọi người đến dự giờ thăm lớp.
2.4.2. Đối với học sinh:
- Học sinh viết bài tốt. Khơng cịn học sinh viết chậm, ngại viết, viết sai lỗi
chính tả, dùng từ sai, hay diễn đạt lủng củng nữa. Các đối tượng học sinh đều
tham gia làm văn rất tự tin, hứng thú trong mỗi giờ tập làm văn.
-Nhiều em viết bài văn hay, sáng tạo, giàu cảm xúc. Các em rất tự tin khi
trả lời văn miệng hay viết bài vào vở (kể cả những lúc có đơng người dự). Lớp
học sơi nổi, học sinh tích cực, chủ động khi tham gia vào các hoạt động học qua
các giờ Tập làm văn và các giờ học khác đạt kết quả tốt.
- Không còn trường hợp viết qua loa cho xong chuyện. Các em đã thấy
được giá trị của việc tìm tịi tài liệu và ham thích đọc sách, truyện,…để cung cấp
cho các em vốn từ phong phú khi làm văn.
2.4.3. Kết quả
Qua gần một năm áp dụng các biện pháp trên, kết quả tôi thu được qua các
bài làm văn của học sinh lớp tơi thì tỉ lệ học sinh viết đúng chính tả, dùng từ
trong đoạn văn phù hợp, diễn đạt ý rõ ràng liền mạch, câu văn giàu hình ảnh
cảm xúc của lớp cao hơn rất nhiều, khơng cịn học sinh viết sai lỗi chính tả hay

dùng từ sai, lặp ý nữa. Tôi nhận thấy phương pháp tôi thực nghiệm đã đạt được
kết quả đáng mừng. Điều đó được thể hiện qua những bài văn của các em trong
năm học như sau:

1.Kể về một mùa trong năm

14


2.Kể về con vật

Thực tế trên lớp tôi dạy, học sinh tiến bộ hẳn lên không những ở phân môn
Tập làm văn mà cịn ở những phân mơn học khác nữa. Các em cảm thấy mạnh
dạn, tự tin phấn khởi hơn khi vào tiết học. Đây chính là nền tảng vững chắc cho
các em học lớp cao hơn.Từ kết quả trên tơi khẳng định con đường tìm tịi,
nghiên cứu và áp dụng qua nghiên cứu là đúng, đem lại kết quả khả quan trong
giảng dạy.
Đó cũng là sự cố gắng không nghỉ của học sinh và sự đầu tư trăn trở của
tơi, cho thầy trị chúng tơi một kết quả đáng mừng như vậy.
2.4.4. Bài học kinh nghiệm:
Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo, người giáo viên là một
kĩ sư của tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà làm nghệ thuật. Và việc dạy học ngày
nay ln dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Chính vì
thế nó địi hỏi người giáo viên phải ln có sự sáng tạo, tự cải tiến phương pháp
dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi mơn học ở
Tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho
trẻ những kiến thức cần thiết.
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Bất kỳ một tiết dạy Tiếng Việt nói chung cũng như tiết tập làm văn nói riêng,
chúng ta phải biết lựa chọn, sử dụng thay đổi các hình thức tổ chức hoạt động,

các phương tiện học tập, các hình thức trình bày kết quả, nhận thức phù hợp
khác nhau để tránh sự đơn điệu, nhàm chán và giúp học sinh hứng thú tích cực
tham gia hoạt động học tập.
- Giáo viên phải nghiên cứu kỹ các tài liệu có liên quan, đọc kỹ văn bản,
cảm nhận thấu đáo nội dung trọng tâm, ý nghĩa cũng như dấu hiệu nghệ thuật.
Xác định rõ các kĩ năng trọng tâm, mục tiêu cần đạt của mỗi bài học.
- Khơng nên phụ thuộc hồn tồn vào sách giáo viên hay sử dụng cứng nhắc
hệ thống câu hỏi SGK, cũng như khơng máy móc thực hiện các hình thức dạy học
15


mà sách giáo viên đưa ra. Phải tuỳ theo đối tượng học sinh, điều kiện dạy học để
thiết kế các hoạt động luyện viết đoạn văn thật thiết thực và phong phú.
- Hướng dẫn cho học sinh thật tỉ mỉ, dễ hiểu, gần gũi với học sinh; luôn
động viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh nhằm hình thành cho các em thói
quen học tập, làm việc một cách khoa học.
- Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh ln suy nghĩ, tìm tịi để phát
triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức.
Khi dạy giáo viên phải nắm vững kiến thức cơ bản, chuyện môn nghiệp vụ;
không ngừng trau dồi đạo đức, chuyên mơn nghiệp vụ phục vụ tốt cho dạy học.
Phải có tâm huyết với nghề, ln phục tùng và hồn thành nhiệm vụ, trách
nhiệm được giao phó. Nắm vững và biết phân loại đối tượng học sinh để lựa
chọn phương pháp dạy học tốt nhất để nâng cao chất lượng dạy học. Đầu tư
nhiều thời gian và có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và phải chuẩn bị cả
về đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy...
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu để tìm ra một số giải pháp nâng cao chất
lượng giảng dạy tập làm văn và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh khơng những giúp học sinh rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn mà còn tạo

điều kiện cho học sinh học tốt các mơn học khác. Muốn làm được điều này địi
hỏi người giáo viên phải luôn trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp
vụ, đáp ứng nhu cầu của người học trong thời kỳ đổi mới. Giáo viên biết lựa
chọn và áp dụng linh hoạt những biện pháp phù hợp với từng bài, áp dụng cơng
nghệ thơng tin, trình chiếu hình ảnh sống động để học sinh quan sát trước khi
viết văn.
Đứng trước vai trị, vị trí và tầm quan trọng của việc dạy Tập làm văn cho
học sinh Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp Hai nói riêng, tơi thấy việc
hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Tập làm văn là hết
sức cần thiết.
Mỗi bài Tập làm văn là một dịp cho các em có thêm kiến thức, kĩ năng chủ
động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường ngày. Vì vậy giáo viên cần hết sức
linh hoạt để làm cho tiết Tập làm văn trở thành tiết học hứng thú và bổ ích. Điều
quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình
độ học sinh và sở trường của giáo viên, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của từng trường, từng lớp mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và
hình thức dạy học một cách hợp lý và đúng mức.
Mặc dù cịn khó khăn trong q trình thực hiện phương pháp nhưng nếu khắc
phục được, tơi nghĩ đây là một việc làm rất thiết thực trong quá trình nâng cao chất
lượng viết văn cho học sinh, góp phần lớn vào mục tiêu giáo dục tiểu học.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng dạy Tập làm văn của lớp tôi
đã được nâng lên rất nhiều. Điều đó chứng tỏ những biện pháp mà tơi đã áp
dụng là hoàn toàn đúng đắn và dễ áp dụng, mang lại hiệu quả cao. Với những
biện pháp này không chỉ áp dụng ở lớp tơi, trường tơi mà có thể áp dụng cho tất
cả các trường Tiểu học khác. Hy vọng nó sẽ là tài liệu tham khảo cho các giáo
viên đang dạy ở các trường Tiểu học.
16


3.2. Kiến nghị:

Nhằm giúp học học tốt phân môn tập làm văn tơi xin có một số đề xuất như sau:
* Đối với Phòng GD&ĐT
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề về kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn
cho học sinh lớp 2.
- Xây dựng và tổ chức các tiết dạy minh họa phân môn Tập làm văn lớp 2, chú
trọng những bài rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2 để giáo viên toàn thành
phố có cơ hội giao lưu học hỏi kinh nghiệm của nhau, từ đó giúp nâng cao chất lượng
các tiết rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
* Với nhà trường:
Tổ chức chun đề mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn
nói riêng nhiều hơn nữa để cho đồng nghiệp học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau và
nâng cao chất lượng giờ dạy.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về các biện pháp rèn kỹ năng
viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2. Rất mong được các cấp lãnh đạo, đồng
nghiệp đóng góp ý kiến .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 31 tháng 3 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Đặng Thị Thơm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
1
2
3

4
5

Tên tác giả
Nhiều tác giả

Tên sách
Sách giáo khoa Tiếng Việt Lớp 2
tập 1, tập 2
Nhiều tác giả
Sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 2
tập 1, tập 2
Tác giả:
Phương pháp dạy học Tiếng Việt
Lê Phương Nga - Tiểu học 2
Nguyễn Trí
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá 8, khoá 11
Nghị quyết 29 khoá 11 của Đảng

NXB- năm
NXBGD
năm 2012
NXBGD
năm 2003

17


18




×