Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tài liệu thi Triết (Có đáp án)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.99 KB, 38 trang )

Câu 1: Quan điểm tồn diện là gì? Đồng chí hãy vận dụng quan điểm toàn
diện để đề xuất giải pháp nhằm “ phịng và chống suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa tại cơ quan”
Quan điểm tồn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu sự vật phải xem
xét tất cả các mặt, các yếu tố tạo thành nó và các mối liên hệ giữa sự vật ấy và
sự vật, hiện tượng khác.
- Quan điểm toàn diện yêu cầu phải nhìn nhận sự vật như 1 chỉnh thể, phải
phân biệt giữa cái chính và cái phụ, đánh giá đúng vị trí và vai trị của từng mối
liên hệ, tránh xem xét 1 cách đồng đều, bình quân.
- Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm tồn diện địi hỏi phải sử dụng đồng
bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi sự
vật.
- Cấn phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn
đề do thực tiễn đặt ra, phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử đã làm phát
sinh vấn đề, bối cảnh hiện thực khách quan và chủ quan.
- Nghiêm khắc phê phán quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, thuật
ngụy biện khi quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Liên hệ các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa tại cơ quan, đơn vị:
Song song với 14 năm hình thành và phát triển của huyện Đam Rơng,
cơng tác đồn và phong trào thanh thiếu nhi huyện Đam Rơng đã đạt được nhiều
kết quả quan trọng. Đoàn viên, thanh niên trên địa bàn huyện tích cực tham gia
xung kích tình nguyện vì cộng đồng, hưởng ứng hiến máu tình nguyện, cơng tác
đền ơn đáp nghĩa... Tích cực phối hợp tổ chức các hoạt động tư vấn, hỗ trợ thanh
niên tiếp cận, sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi phát triển kinh tế, xóa đỏi giảm
nghèo. Tuy nhiên, trong thời kì quá độ lên CNXH và bị ảnh hường tiêu cực từ
cơ chế thị trường, các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa đã xuất hiện tại một số cơ sở đoàn và trong
một bộ phận đoàn viên thanh niên.
Suy thối về tư tưởng chính trị:
- Phai nhạt về lý tưởng, hoài nghi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ


Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối
cách mạng của Đảng; không thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, khơng
có lối sống trong sáng, chính trực.
- Ngại học tập lý luận chính trị, ngại tham gia các tổ chức đoàn thể, các
phong trào thi đua, phong trào cách mạng; không báo cáo đúng sự thật, không
trung thực, thẳng thắn trong phê bình và tự phê bình, thiếu dân chủ hoặc dân chủ
hình thức, giả tạo; sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng khơng bảo vệ, thấy sai
không đấu tranh; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của
Đảng


- Nói và làm khơng nhất qn, khơng đúng đường lối, quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, phụ họa theo các quan điểm lệch lạc; xa rời mục tiêu, lý
tưởng của Đảng,
- Quan liêu, khơng làm trịn bổn phận, chức trách được giao; xa dân, lãnh
đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và u cầu, địi hỏi chính đáng của
nhân dân.
- Thiếu gương mẫu trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt
hằng ngày.
Suy thoái về đạo đức, lối sống:
- Chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, bng thả, hưởng thụ, thiếu lý
tưởng, thiếu ý chí phấn đấu; hành động cơ hội, vì lợi ích cá nhân, đua đòi...
- Cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ hòa vi quý, a dua, nịnh bợ, lấy
lòng lãnh đạo; bệnh thành tích, bè phái, cục bộ địa phương, lợi ích nhóm, mất
đồn kết; lối sống xa hoa, hưởng lạc.
- Đạo đức của người đảng viên, cán bộ đoàn và đạo đức nghề nghiệp sa sút,
tham nhũng, hối lộ, bịn rút của cơng, lãng phí, quan liêu, chạy chức, chạy
quyền, chạy chỉ tiêu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng.
- Có các hành vi vi phạm đạo đức, thuần phong, mỹ tục trong quan hệ gia

đình và quan hệ giữa cá nhân với xã hội như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu, mê
tín, dị đoan
- Có hành vi vi phạm trật tự, an tồn xã hội; lối sống vơ tổ chức, vô kỷ luật,
tùy tiện vô nguyên tắc.
Các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa:
Tự diễn biến và tự chuyển hóa trong cán bộ, đảng viên, đồn viên thanh
niên được biểu hiện như sau:
- Suy giảm về nhận thức, về tư tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, xa rời Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xa rời đường lối
của Đảng. Thể hiện ở việc phản bác, phủ định “sạch trơn” học thuyết Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng
lãnh đạo, nhân dân thực hiện.
- Suy giảm niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của công
cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thể hiện ở việc ca
ngợi, tán dương hình mẫu chủ nghĩa tư bản, tự do tư sản, đồng thời xuyên tạc,
bịa đặt, áp đặt ý chí chủ quan khi đánh giá về Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
nhân dân ta đang xây dựng.
- Suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên nhất
là cán bộ chủ chốt. Thể hiện bằng thái độ bất mãn, dao động, cực đoan trước


những vấn đề của xã hội, thực trạng của đất nước, về vai trò lãnh đạo của Đảng,
tương lai của dân tộc. Trong đấu tranh phê bình và tự phê bình thể hiện sự cực
đoan, thái quá hoặc lợi dụng các diễn đàn để bày tỏ thái độ “đấu tranh” một cách
bất mãn, chống đối và trục lợi cho bản thân
- Suy giảm về phẩm chất đạo đức, lối sống, ngày càng xa rời những phẩm
chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN, trượt dần sang đạo đức, lối sống tư
sản, quay về với những thói hư, tật xấu của đạo đức, lối sống phong kiến. Thể

hiện thái độ “ba phải”, gió chiều nào theo chiều đó, khơng có chính kiến, thờ ơ,
im lặng trước những vấn đề ở cơ quan và của đất nước; chạy chức, chạy quyền,
tham ô tham nhũng, đề cao tư lợi, đề cao lợi ích nhóm, làm giàu một cách bất
chính; lối sống cục bộ địa phương, thực dụng, buông thả, sa đọa, chia rẽ làm mất
đoàn kết nội bộ; phong cách làm việc cửa quyền, hách dịch, tự mãn, nói nhiều
làm ít, thiếu sự gắn bó với tập thể, cộng đồng.
Nguyên nhân:
a) Nguyên nhân khách quan
- Do tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ và tác động tiêu cực của cơ chế
kinh tế thị trường. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đất
nước trải qua nhiều năm chiến tranh, hậu quả để lại nặng nề. Vì vậy, việc khắc
phục những dấu vết của xã hội cũ, trong đó có đạo đức phong kiến, đạo đức tư
sản địi hỏi phải có thời gian, khơng thể chủ quan, nóng vội. Tại Đại hội XI,
Đảng ta xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam "là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen". Tính phức tạp này là một trong những nguyên
nhân khách quan dẫn đến tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, đoàn viên thanh niên hiện
nay.
- Do sự tác động của đạo đức, lối sống, hưởng thụ tư sản du nhập vào
nước ta trong điều kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cơng nghệ thông tin.
- Do sự chống phá của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch, phản
động chống phá quyết liệt trên mặt trận tư tưởng, chính trị; tuyên truyền, ca ngợi
lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ lãnh đạo và gia đình họ, đảng
viên, đoàn viên thanh niên, đây là một trong những biện pháp thực hiện "diễn
biến hịa bình" của chúng.
b) Ngun nhân chủ quan

- Do chưa làm tốt cơng tác chính trị, tư tưởng, công tác tuyên truyền, giáo
dục. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa cao; công tác quản lý đảng
viên, đoàn viên chưa chặt chẽ; sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt
nhìn chung cịn nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu; động cơ phấn đấu vào
Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc; kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức


đảng không nghiêm;... Đặc biệt, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, tính chiến
đấu, tính đảng ở nhiều cán bộ, đảng viên giảm sút.
- Do chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn
định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến đạo đức xã
hội.
Giải pháp
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đoàn viên thanh niên về mục đích, ý nghĩa của việc thường xuyên
học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây là giải
pháp quan trọng hàng đầu, nhằm nâng cao trình độ nhận thức chính trị, bản lĩnh
vững vàng, năng lực tư duy toàn diện của cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh
niên đủ sức tự giải đáp và tự đề kháng mọi sự cám dỗ của cuộc sống vật chất
đơn thuần, khơng rơi vào tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cá
nhân, đạo đức giả, lối sống thực dụng. Đây cũng là cơ sở để xây dựng nền tảng
đạo đức, tinh thần, văn hóa của xã hội, tạo môi trường tốt để ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống của cán bộ, đảng
viên hiện nay.
Hai là, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI gắn với đẩy mạnh
việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; trọng tâm là cơng tác giáo dục
chính trị tư tưởng, cơng tác tổ chức, cán bộ và thực hiện các nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt đảng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương. Tăng cường cơng tác quản lý đảng
viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Xây dựng tiêu chuẩn các chức danh cán bộ và các
tiêu chí đánh giá cán bộ, lấy hiệu quả hồn thành nhiệm vụ để đánh giá cán bộ.

Với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, ngoài việc phải gương mẫu thực hiện, còn
phải trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện ở cơ quan, đơn vị, cơ sở
đồn do mình phụ trách. Theo dõi, kiểm tra việc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm
sau kết luận thanh tra, kiểm tra; chỉ đạo xử lý nghiêm các cá nhân và đảng viên vi
phạm.
Ba là, thực hiện nghiêm túc cơng tác tự phê bình và phê bình. Tự phê bình
và phê bình cần có ý chí và quyết tâm cao, dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
sát đúng sự thật, không nể nang, né tránh trước những vấn đề nhạy cảm về đạo
đức lối sống của cán bộ, đảng viên. Đây là việc làm đụng chạm đến uy tín, danh
dự, lịng tự trọng của cá nhân. Nhưng nếu sợ mất lòng, “dễ người, dễ ta”, dĩ hòa
vi quý thì tự phê bình và phê bình sẽ khơng phát huy tác dụng, thậm chí mất thời
gian và cơng sức mà không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp tốt nhất để phát huy ưu điểm và sửa
chữa những sai lầm, khuyết điểm, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ; chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối
sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi, nói khơng đi
đơi với làm, nói nhiều, làm ít.
Khi tự phê bình, phê bình cần khắc phục biểu hiện “dĩ hịa vi q”, đánh
giá nhận định chủ quan, chung chung, thiếu cụ thể. Cần nhận diện đầy đủ biểu


hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; chỉ rõ từng bộ phận, từng
đối tượng nào suy thoái, suy thoái mặt nào, ở mức độ nào để có biện pháp khắc
phục hiệu quả. Cũng cần khắc phục tâm lý chủ quan cho rằng chi bộ, đảng bộ
được cấp ủy cấp trên đánh giá, công nhận đạt trong sạch vững mạnh, nên khơng
có sự suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.
Khi tiến hành tự phê bình, phê bình, phải có sự chuẩn bị chu đáo, chặt
chẽ, vừa đảm bảo nguyên tắc, quy trình, vừa linh hoạt, mềm dẻo về phương
pháp, cách thức. Quá trình tự phê bình, phê bình cần đảm bảo dân chủ, nghiêm
túc, thẳng thắn với tinh thần đấu xây dựng vì tình u thương đồng chí lẫn nhau;

bí thư cấp ủy và thủ trưởng cơ quan đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực
hiện và nêu gương tự phê bình trước cấp ủy và chi bộ. Đây là nhân tố quan trọng
quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình.
Bốn là, thực hiện tốt cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân, phản ánh của
của báo chí, dư luận xã hội vể phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên. Khi phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm, sai phạm về đạo đức, lối sống,
phải xử lý kịp thời, nghiêm minh quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Câu 2: Giai cấp Cơng nhân là gì? Có sứ mệnh lịch sử gì? Vì sao có sứ mệnh
LS đó? Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp công nhân: là sản phẩm và là chủ thể của q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày
càng cao và là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội; là giai
cấp có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ TBCN, xây dựng thành công CNXH và
CNCS trên toàn thế giới
Nội dung sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân: là người
tổ chức lãnh đạo xã hội thơng qua đội tiền phong của mình là đảng cộng sản;
đấu tranh giải phóng mình và giải phóng tồn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bất
cơng; xóa bỏ CNTB, xây dựng CNXH và CSCN. Sứ mệnh này dc thể hiện ở 3
nội dung
- Nội dung kinh tế: giai cấp cơng nhân dù ở chế độ chính trị nào, cũng là
chủ thể của quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức sản xuất cơng nghiệp
mang tính chất xã hội hóa cao, sản xuất ngày càng nhiều của cải, đáp ứng những
nhu cầu ngày càng tăng của con người. Qua đó, họ tạo ra tiền đề vật chất kỹ
thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết và quy
mơ phạm vi tồn thế giới về sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân đối với q
trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội
dung này cũng là điều kiện vật chất để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư
bản.
- Nội dung chính trị - xã hội: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao

động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị lật đổ


chế độ tư bản chủ nghĩa với tư cách là một chế độ chính trị cịn áp bức, bất cơng,
để xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu tối
thượng là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột và được tạo điều kiện phát
triển tồn diện.
Giai cấp cơng nhân giải quyết đúng đắn vấn đề chính trị xã hội đặt ra trong
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như liên minh giai cấp, tầng lớp, đoàn kết
các dân tộc, xây dựng xã hội mới, con người mới, v.v.
- Nội dung văn hóa tư tưởng: giai cấp cơng nhân trong tiến trình cách
mạng của mình xác lập hệ giá trị, tư tưởng của giai cấp công nhân để thay thế
cho hệ giá trị, tư tưởng tư sản và “những hệ tư tưởng cổ truyền” lạc hậu khác.
Thực chất đó là một cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải tạo cái
cũ, xây dựng cái mới trong sự kế thừa những tinh hoa của và giá trị truyền thống
của văn hóa dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và con người được phát triển tự do
và tồn diện trong xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu hàng
đầu của cuộc cách mạng này.
Sở dĩ giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử này là do các điều kiện
khách quan và chủ quan quy định:
* Về điều kiện khách quan:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân:
- Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất có trình độ XH hóa cao và
phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại.
- Trong quá trình sản xuất vật chất trong lĩnh vực cơng nghiệp và dịch vụ
công nghiệp hiện đại, họ là lực lượng tạo ra phần lớn của cải cho xã hội, lao
động thặng dư của họ là nguồn gốc chủ yếu đem lại sự giàu có và thúc đẩy xã
hội phát triển.
- GCCN bị bóc lột giá trị thặng dư trong quá trình làm th cho nhà tư bản.

Do đó, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi ích cơ bản
của giai cấp tư sản.
=>Vì vậy, giai cấp cơng nhân phải đấu tranh nhằm xóa bỏ sự áp bức, bóc
lột của giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội mới mà ở đó giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động được giải phóng, được phát triển toàn diện, một xã hội nhân
văn, tiến bộ và phát triển bền vững.
Thứ hai, do đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp cơng nhân quy định.
- Với tư cách chủ thể trực tiếp của q trình sản xuất cơng nghiệp hiện đại,
trình độ chun mơn, kỹ thuật, trình độ học vấn và ý thức chính trị của giai cấp
cơng nhân ngày càng được nâng cao. Xét về góc độ chính trị, các cuộc đấu tranh
địi dân sinh, dân chủ đã tơi luyện và cung cấp cho GCCN những tri thức chính
trị- xã hội cần thiết để giai cấp công nhân trở thành giai cấp tiên tiến trong xã
hội.


- Chính mơi trường sản xuất cơng nghiệp hiện đại đã tơi luyện cho giai cấp
cơng nhân tính tổ chức kỹ luật cao và tác phong công nghiệp hiện đại.
- Giai cấp cơng nhân có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận tiền
phong là chủ nghĩa Mác - Lê nin và có chính đảng của mình là đảng cộng sản
lãnh đạo. Do đó, họ có khả năng tổ chức, lãnh đạo, đồn kết chính giai cấp
mình và đồng thời đoàn kết với các GC, tầng lớp khác trong cuộc dấu tranh vì
mục tiêu chung: hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tinh thần triệt để cách mạng thể hiện ở hai điểm: Một là, phương thức đấu
tranh: xóa bỏ tận gốc chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với tư cách là
chế độ áp bức, bóc lột. Hai là, ở mục têu cuối cùng: phải giải phóng tồn bộ xã
hội khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột.
Thứ ba: Bản thân các mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản khách quan
quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Xét về mặt kinh tế,
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và q trình

vận động của nó. Đó là xung đột giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của LLSX
với tnh1 chất nhân hóa của QHSX tư bản chủ nghĩa. Đây là mâu thuẫn cơ bản
của Chủ nghĩa tư bản tất yếu khách quan đặt ra nhu cầu thay đổi quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa mở đường cho LLSX phát triển. Đây là quá trình khách
quan và được quá trình sản xuất hiện đại vạch ra.
Xã hội hiện đại với xu thế xã hội hóa, dân chủ hóa mạnh mẽ hiện nay cũng
đang làm chín muồi những tiền đề khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân.Nhìn chung, khơng chỉ chủ nghĩa tư bản mà cả quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đều cần đến những tiền đề vật chất từ lực
lượng sản xuất ở trình độ xã hội hóa cao. C.Mac coi đó là " tiền đề thực tiễn
tuyệt đối cần thiết.
- Xét về mặt chính trị - xã hội, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản. Biểu hiện:
Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã làm cho lợi ích cơ bản của GCCN và
GCTS đối lập nhau. Mâu thuẫn này khơng thể điều hịa và đó là động lực chính
của cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại. Giải quyết mâu thuẩn này là tất yếu khách
quan nhằm xóa bỏ cơ sở chế độ người bóc lột người cuối cùng trong lịch sử.
Muốn thực hiện điều dó phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất chủ yếu với mục tiêu giải phóng người lao động. Đối tượng xóa
bỏ ở đây là chế độ sở hữu tư bản tư nhân tư bản chủ nghĩa với tư cách là nguồn
gốc sinh ra áp bức, bóc lột.
Tuy nhiên, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân cần được hiểu là một quá trình
“lịch sử - tự nhiên” chứ khơng thể duy ý chí. Xét đến cùng, sự nghiệp này cũng
chịu sự quy định của trình độ lực lượng sản xuất. Nhưng muốn xóa bỏ nó thì
phải xóa bỏ chế độ chính trị - là cái đang bảo vệ quan hệ sản xuất ấy.
Lật đổ chế độ tư sản, nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của
giai cấp công nhân là tất yếu trong quá trình cách mạng kinh tế.


Như vậy, cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết triệt để

trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản và tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa do giai cấp công nhân tiến hành dưới sự lãnh đạo và tổ chức của chính
đảng của giai cấp cơng nhân.
=>Đó là sự quy định khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
* Về điều kiện chủ quan:
Sự phát triển về số lượng của giai cấp công nhân.
Sự phát triển về lượng của giai cấp công nhân bao gồm sự phát triển số
lượng lao động công nghiệp trong tổng số lao động xã hội, tỷ lệ lao động công
nghiệp trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và cơ cấu của giai cấp công nhân.
Thông qua sự phát triển về lượng của công nhận có thể thấy dc trình độ,
quy mơ của cơng nghiệp hóa và sự tự chuẩn bị của giai cấp đang làm sứ mệnh
lịch sử.
Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân.
Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của LLSX hiện đại, năng lực làm
chủ công nghệ hiện đại của công nhân xác nhận vị thế đại diện cho phương thức
sản xuất tiên tiến. Trình độ văn hóa và tay nghề tương xứng với cơng nghệ hiện
đại là thước đo trình độ phát triển của cơng nhân.
Với tư cách là chủ thể của sứ mệnh lịch sử, giai cấp cơng nhân cần phải đạt
tới trình độ giác ngộ cao về chính trị. Phẩm chất này được thể hiện trước hết ở
trình độ giác ngộ về giai cấp.
Trong xã hội hiện đại, giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho lợi ích chân
chính của dân tộc và cùng với dân tộc để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử
trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc là phẩm chất chính trị cần tu
dưỡng với giai cấp cơng nhân và chính Đảng của nó.
Đảng cộng sản - nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân muốn thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình
phải thơng qua sự lãnh đạo của đội tiền phong là tổ chức Đảng cộng sản - hạt
nhân chính trị của giai cấp cơng nhân.

Đảng Cộng Sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân. Sự thâm nhập
của chủ nghĩa Mác, sự hình thành Đảng Cộng sản đánh dấu trình độ đấu tranh tự
giác, tính chất chính trị của phong trào, làm cho phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân chuyển từ phong trào đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc, vì mục đích
kinh tế trước mắt, thành cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, vì mục
đích chính trị rộng lớn.
Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản
định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh; là người tổ chức,
động viên sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong trào công nhân.


Đảng có khả năng thu hút đơng đảo quần chúng nhân dân hướng theo giai cấp
công nhân, tiến hành cuộc đấu tranh lật độ ách thống trị của giai cấp tư sản, xây
dựng CNXH và CNCS.
Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp cơng
nhân và của dân tộc. Tính tiên phong của Đảng Cộng Sản là đòi hỏi khách quan
của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân lao động tiến hành. Do vậy, đội tiền phong lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa phải là tổ chức của những con người ưu tú nhất trong giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, có lý luận khoa học dẫn đường; có ý chí và
hành động cách mạng kiên định phù hợp với tư tưởng, lý luận; có tổ chức chặt
chẽ, khoa học, dân chủ và thống nhất; tính tiền phong còn bao gồm cả phẩm chất
hi sinh, gương mẫu của tổ chức Đảng và đảng viên.
Giai cấp công nhân coi Đảng Cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và sự
ra đời của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân. Đảng
coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa Đảng
Cộng sản và giai cấp cơng nhân là quan hệ máu thịt và bất cứ sự chia rẽ, xa rời
nào cũng đều làm tổn hại cả hai nhân tố này và làm ảnh hưởng tiêu cực đến q
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử.
Giai cấp cơng nhân và Đảng của nó phải là trung tâm đồn kết tồn dân,

đồn kết quốc tế, ý chí, nhận thức và hành động thống nhất, đồng thời kiên
quyết đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, phản động
chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam:
- GCCNVN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm cơng hưởng lương trong các loại hình sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có
tính chất cơng nghiệp”. Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ: giai cấp công nhân
nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:
+Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN
+Giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH – HĐH đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,cơng bằng, văn minh;
+Lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Cùng với quá trình CNH, GCCNVN ko ngừng tăng nhanh về số lượng,
chất lượng, cơ cấu đa dạng
+ Trước đổi mới, số lượng CN nước ta là 3,7 triệu, đến năm 2013 tăng lên
gần 11 triệu và đến nay là gần 15 triệu, chiếm 21% tổng số lao động và 11% dân
số cả nước. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có 2 triệu CN, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi có 1,6 triệu CN, số còn lại là doanh nghiệp tư nhân. Hàng


năm cơng nhân và cơng nghiệp đống góp hơn 60% tổng sản phẩm XH và 70%
ngân sách nhà nước.
+ Phát huy vai trị lãnh đạo cách mạng thơng qua Đảng cộng sản.
+ Tiên phong trong xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong CNH-HĐHhội nhập kinh tế thế giới;
+ Là lực lượng nịng cốt trong liên minh cơng nơng trí và đại đồn kết dân
tộc
- Tuy nhiên, GCCNVN vẫn cịn nhiều hạn chế, bất cập cần được sớm khắc

phục
+ Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp CNH – HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế
+ Chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp;
+ Thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề;
+ Tác phong cơng nghiệp và kỹ luật lao động cịn nhiều hạn chế;
+ Phần lớn công nhân xuất thân từ nơng dân, chưa được đào tạo cơ bản và
có hệ thống. Một bộ phận cơng nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.
+ Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của cơng nhân khơng đồng đều;
+ Sự hiểu biết về chính sách pháp luật cịn thiếu
+ Việc làm, đời sống vật chất và tình thần của cơng nhân đang có nhiều khó
khăn, bức xúc .
Những thách thức của GCCN VN hiện nay
- Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên CNXH đang có mâu thuẩn giữa
yêu cầu tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước đi lên CNXH với
hiện trạng còn nhiều bất cập về trình độ văn hóa, tay nghề và giác ngộ chính trị
trong một bộ phận lớn cơng nhân nước ta.
- Đối với vai trò đi đầu trọng sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển tri
thức và hội nhập quốc tế, năng lực làm chủ khoa học công nghệ của công nhân,
năng lực lãnh đạo, tổ chức quản lý của Đảng và Nhà nước, năng lực quản lý và
kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN chưa hoàn thiện.
- Đối với vai trò là hạt nhân của khối liên minh cơng –nơng –trí thức và đại
đồn kết dân tộc, giai cấp cơng nhân nước ta hiện nay cũng cịn nhiều bất cập
trước hai lực cản lớn là mặt trái của cơ chế thị trường và năng lực tổ chức quản
lý của bản thân.
- Đối với quá trình trình xây dựng và phát triển giai cấp công nhân nước ta
hiện nay,vấn đề đặt ra là mâu thuẫn giữa thực trạng hiện có với nhu cầu tăng
cường vị thế và vai trị của giai cấp cơng nhân để có thể thực hiện sứ mệnh lịch

sử.


Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân việt nam
Xây dựng GCCN lớn mạnh , có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững
vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa
văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của
tình hình trong nước; có tinh thần đồn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế;
thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN lãnh đạo cách mạng thông qua ĐCS VN.
Xây dựng GCCN lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng,
có cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước; ngày càng được tri thức hóa;có
trình độ học vấn chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và
lảm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế
tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có
gác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong cơng nghiệp và kỷ
luật lao động cao
Phương hướng đến năm 2020 phấn đấu đạt:
-Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân
gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
-Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN.
-Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước.
-Nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong CN
-Tăng tỷ lệ đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
Phát triển đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp. Đổi mới
nội dung phương thức hoạt động của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp phù hợp
với từng thành phần kinh tế
-Đẩy mạnh phát triển đồn viên và tổ chức cơng đồn, đoàn thanh niên.. tại
các doanh nghiệp

Giải pháp xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam
- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công
nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước tri thức hóa
giai cấp cơng nhân.
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh
thần dân tộc cho giai cấp công nhân
- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách,
pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm
lo đời sống tinh thần vật chất cho công nhân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức cơng
đồn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.


Câu 3: Tại sao nói quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản tuyệt
đối của chủ nghĩa tư bản? Liên hệ sự vận động quy luật giá trị thặng dư nền
kinh tế ở nước ta?
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngồi giá trị sức lao động, do
cơng nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Giá trị thặng dư là lao động
không công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy,
các nhà tư bản dùng hai phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng
dư. Đó là:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài
thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao
động, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không thay đổi.
Vd: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra

trong thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu
ngày lao động kéo dài thành 10 giờ, trong khi năng suất lao động, thời gian lao
động tất yếu và giá trị sức lao động không đổi, giá trị thặng dư tuyệt đối được
tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư là
150%.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Bất cứ nhà tư bản nào
cũng muốn kéo dài ngày công lao động của cơng nhân, nhưng việc kéo dài đó
khơng thể vượt qua giới hạn sinh lý của cơng nhân. Bởi vì, người cơng nhân cần
có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Do vậy, việc kéo
dài thời gian lao động gặp sự phản kháng gay gắt của giai cấp cơng nhân địi
giảm giờ làm.
Khi độ dài ngày lao động khơng thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình,
nhà tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người cơng nhân. Vì tăng
cường độ lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng
thời gian nhất định. Nên tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như
kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay tăng cường độ lao
động đều để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Phương pháp này chủ yếu áp
dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản, với việc phổ biến sử dụng lao động
thủ công và năng suất lao động thấp.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn
thời gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi
ngày cơng lao động có thể khơng đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Vd: Ngày lao động có độ dài 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời
gian lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%. Nếu ngày
lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 3 giờ, thì tỷ suất
giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%. Nếu ngày lao động rút ngắn còn 7 giờ,


thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn 2 giờ, thì tỷ suất gá trị thặng dư sẽ

tăng lên thành 250%.
Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải hạ thấp giá trị sức lao động.
Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho
công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản
xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cho
ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
phát triển. nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện khoa học,
kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng suất lao
động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà tư bản đều cải tiến
kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ khơng cịn. Tất cả sẽ thu được giá trị
thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối.
Ngoài GTTD tuyệt đối và GTTD tương đối, nhà tư bản cịn có cả
GTTD siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng
công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa
thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà vẫn
bán được với giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng dư cao
hơn. Khi số đơng các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và cơng nghệ một cách phổ
biến thì giá trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ khơng cịn nữa.
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa
tư bản. Nó tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của XHTB, quyết định tồn bộ q
trình phát sinh, phát triển của CNTB và thay thế CNTB bằng một xã hội mới,
cao hơn. Phản ánh mục đích của nền sản xuất và phương tiện đạt mục đích. Sản
xuất giá trị thặng dư phản ánh quan hệ giữa tư bản và lao động, đây là quan hệ
cơ bản trong Xh tư bản, nó tác động mạnh mẽ đến XH TBCN.
Liên hệ sự vận động quy luật giá trị thặng dư và nền kinh tế ở nước ta
hiện nay:

1. Thực trạng
Về tực trang hiện nay, ta thấy: Trong học thuyết của C. Mác, có hai phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất
giá trị thặng dư tương đối. Tuy nhiên, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa, nên phương thức tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối không được sử dụng,
thời gian lao động không bị kéo quá 8 tiếng một ngày hay 48 tiếng một tuần theo
bộ luật Lao Động. Gạt bỏ đi mục đích và tính chất của tư bản thì có thể áp dụng
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và biến tấu của nó – giá trị
thặng dư siêu ngạch vào nền kinh tế Việt Nam.


Trước đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp nhà nước
được nhà nước bao cấp hoàn toàn. Sản phẩm làm ra theo định lượng của nhà
nước, thậm chí là cịn khơng cần biết đến việc sản phẩm đó tạo ra có đúng theo
nhu cầu của thị trường hay khơng, vì thế mà nền kinh tế trì trệ.
Sau đổi mới năm 1986, các doanh nghiệp nhà nước không cịn hồn tồn
được nhà nước bao cấp nữa mà bắt đầu phải tự chủ, bước vào nền kinh tế thị
trường, đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên cũng ra đời. Tiếp đến, sự
tràn vào của hàng hóa các nước khác, đặc biệt là hàng Trung Quốc giá rẻ đã tạo
nên một áp lực lớn đối với các doanh nghiệp trong nước. Áp lực này buộc họ
phải đổi mới cơng nghệ nhằm tăng sức cạnh tranh để có thể tồn tại và đứng vững
trong nền kinh tế thị trường.
Để tạo ra được nhiều giá trị thặng dư, các doanh nghiệp bắt đầu chun
mơn hóa trong việc sản xuất sản phẩm, phân chia công đoạn chi tiết, đầu tư vào
việc mua lại cơng nghệ và máy móc, áp dụng các phương thức quản lí mới. Ban
đầu, với lượng kinh phí cịn hạn hẹp, họ mua lại những cơng nghệ và máy móc
cũ đã lỗi thời ở các nước phát triển với giá thành rẻ, rồi dần dần chuyển đổi sang
những công nghệ mới hiện đại hơn. Đồng thời, khi Việt Nam cịn chưa có nguồn
nhân lực tri thức cao, các chuyên gia nước ngoài cũng được mời về để chuyển
giao công nghệ.

Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các
đối thủ mới (các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, cơng
nghệ, kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao), phải cạnh tranh quyết liệt trong
điều kiện mới. Vì vậy, việc đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lại
càng trở thành nhu cầu cấp bách khi cạnh tranh để tạo ra nhiều giá trị thặng dư
hơn.
2. Kết quả đạt được
Để tạo ra giá trị thặng dư nên các doanh nghiệp đã từng bước đầu tư công
nghệ vào sản xuất do đó sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều, chất lượng được nâng
cao phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nước ngoài.
KT tư nhân góp phần quan trọng trong PT KT.
Có thể nói, điều kiện điểm xuất phát nền kinh tế Việt Nam thấp, nhưng qua
khoảng thời gian sau đổi mới, áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã có rất nhiều chuyển biến tích cực. Tiếp tục vận dụng những
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, đồng thời học tập từ những nước phát
triển, các doanh nghiệp của nước ta có thể đẩy mạnh kích thích sản xuất, tăng
năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lí, tiết
kiệm chi phí sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp đất nước thốt
khỏi tình trạng nước nghèo, vững mạnh hơn và giàu đẹp hơn.
3. Hạn chế


Công nghệ VN tuy đã được đầu tư nhiều nhưng vẫn còn lạc hâu so với các
nước trên thế giới. Nguyên nhân là máy móc thiết bị hiện đại chi phí lớn nên các
doanh nghiệp thường mua máy móc thiết bị cũ.
Trình độ theo kịp khoa học kỹ thuật của nhân lực VN cịn hạn chế.
Cơ chế chính sách PT Kinh tế nhưng chưa đảm bảo giữ gìn mơi trường.
4. Giải pháp
Một, các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong việc thay đổi
cơng nghệ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành hợp tác với

các doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi, vừa giúp doanh
nghiệp nước ngồi làm quen nhanh chóng hơn với nền kinh tế trong nước, vừa
tạo điều kiện giúp doanh nghiệp trong nước có được những công nghệ tiên tiến
để phát triển sản xuất.
Hai, nâng cao chất lượng dạy và học, giảm dần khoảng cách giữa lý thuyết
và thực tế là vô cùng cần thiết để tránh hiện trạng có cầu mà khơng có cung như
hiện nay.
Ba, trong nền KT thị trường VN phải chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư
nhưng phải đảm bảo ở mức sao cho mức lương trả cho người lao động khơng
được dưới giá trị thực của nó.
Bốn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sao cho bỏ ra ít vốn nhất
nhưng giá trị bán ra đạt KQ cao.
Năm, phân phối lại thu nhập quốc dân bằng cách lấy của người giàu chia
cho người nghèo bằng cách thông qua việc đánh thuế hợp lý cho từng đối tượng,
từng loại hình doanh nghiệp sẽ đảm bảo cơng bằng hơn trong phúc lợi XH.
Sáu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và chủ doanh
nghiệp bằng Luật và các chế tài cụ thể để đảm bảo công bằng, minh bạch, bền
vững.
Trong nền KT thị trường hàng hóa nhiều thành phần của nước ta hiện nay
các doanh nghiệp tư nhân khơng phải hồn tồn áp dụng quy luật giá trị thặng
dư giống CNTB và cũng không phải hoàn toàn chịu sự ảnh hưởng của quy luật
giá trị thặng dư. Chính vì thế sự thừa nhận tiến bộ, hợp pháp của KT tư nhân và
khuyến khích PT là tạo điều kiện PT XH chứ khơng phải khuyến khích bóc lột
giá trị thặng dư. Đó là cách vậy dụng sáng tạo CN Mác – Lenin trong điều kiện
KT nước ta hiện nay.


Câu 4: Trình bày đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ?
Liên hệ sự vận dụng của Đảng ta.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH là sự tồn tại

khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với các giai cấp, tầng
lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu, tính chất của các giai cấp, tầng lớp
này có sự biến đổi sâu sắc.
Liên hệ sự vận dụng của Đảng ta
- Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kém phát triển
trải qua thời kỳ chiến tranh, kết cấu hạ tầng và vật chất của nước ta cịn ở trình
độ thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, trình độ cơng nghệ lạc hậu, máy
móc cũ kỹ, quy mơ sản xuất nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất
còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng.
- Trong thời kỳ bao cấp: đây là thời kỳ thực hiện chế độ quản lý tập trung
quan liêu bao lấy kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu điều nàyđã
kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Chế độ công hữu được
thiết lập một cách nóng vội khơng những ko tạo ra được động lực mà cịn kìm
hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở hữu tư nhân không được thừa nhận, khơng
phát huy được sự sáng tạo, trí tuệ của nhân dân điều này tạo ra nhiều lực cản đối
với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Chế độ phân phối và bình qn đã khơng gắn được kết quả sản xuất với
năng suất lao động và hiệu quả lao động, triệt tiêu động lực của người lao động.
Phân phối thời bao cấp cũng tạo nên sự nghịch lý trong xã hội: Người có nhu
cầu chưa hẳn được phân phối, còn người được phân phối chưa hẳn có nhu cầu;
khơng khai thác được vai trị, sức mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền tệ để phát
triển đất nước. Chính vì vậy, việc đối mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu
cầu cấp thiết cần thực hiện ngay.
Đại hội VI năm 1986 đã khẳng định rõ tính tất yếu khách quan của sự tồn
tại nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội cho rằng: “Xuất phát từ sự đánh giá
những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân cả về sức lao
động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương : đi đôi với
việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường tích lũy tập trung
của Nhà nước và tranh thủ vốn ngồi nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế khác”. Đồng thời chỉ ra: “ở nước ta các thành

phần đó là: kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực
tập thểcùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn với thành phần đó. Các thành phần
kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế
tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao là công tư hợp doanh;
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Kế thừa và phát huy quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần của Đại
hội VI, Đại hội VII nêu rõ: Trong nền kinh tế thị trường với quyền tự do kinh
doanh được pháp luật bảo đảm từ ba loại hình sở hữu cơ bản (Sở hữu tồn dân,


sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với
những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng.
Kinh tế quốc doanh được cũng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh
vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những hoạt động
mà các thành phần kinh tế khác khơng có điều kiện đầu tư kinh doanh. Khu vực
kinh doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh
doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai
trị chủ đạo và chức năng của một cơng cụ điều tiết vĩ mộ của nhà nước.
Kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là HTX, đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa dạng trọng các ngành, nghề với quy mô
và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp sức của
những người lao động. Tổ chức và hoạt động của HTX không phụ thuộc vào địa
giới hành chính. Một gia đình có thể tham gia các HTX khác nhau và có quyền
rút ra khỏi HTX theo điều lệ.
Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả
thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại
độc lập, tham gia các loại hình HTX, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng
nhiều hình thức.
Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn

hoạt động trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
Kinh tế gia đinh không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được
khuyến khích phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể liên kết thành các
liên hiệp hoặc tập đoàn kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện trên cơ sở hiệu
quả kinh tế và cùng có lợi; Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách: kinh tế
nhiều thành phần, không phân biệt, đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp,
khơng gị ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, khơng áp đặt hình thức kinh doanh,
khuyến khích các hoạt động có lợi quốc kế dân sinh.
Tại đại hội VIII tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, lấy việc giải phóng sức
sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngồi cho cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống
của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh… thực hiện các chủ trương
chính sách sau đối với các thành phần kinh tế:
Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai
trò chủ đạo, tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những
ngành, những lĩnh vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống
tài chính,…; đổi mới và tăng cường hoạt động kinh tế nhà nước trong lĩnh vực
phân phối lưu thông. Phát huy vai trị trung tâm kinh tế , khoa học – cơng nghệ,
văn hóa – xã hội của doanh nghiệp nhà nước trong nông, lâm, ngư nghiệp, nhất
là ở vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người.


Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
để huy động thêm vốn, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX được chú trọng phát triển với nhiều
hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã; tuân thủ
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lới, quản lý dân chủ.

Kinh tế tư bản nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm
năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý,…
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: có vị trí, vai trị quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh
tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ,…
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích đầu tư vào sản xuất, yên tâm
làm ăn lâu dài,…
Đại hội IX cũng chỉ rõ: 6 thành phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này
bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản
tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Trong Đại hội X, Đảng ta xác định còn 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi.
Đại hội XI: chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội thứ XII nhấn mạnh: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị quan trọng của nên kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 5 khóa 12 khẳng định: Kinh tế tư nhân
là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền
vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mơ, chất lượng và
tỉ trọng đóng góp trong GDP. Khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn,
mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá hoặc Nhà nước
thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung
cấp hàng hoá, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư
nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ

tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu
thụ…
Như vậy, kế thừa quan điểm của chũ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH, Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo vào hồn cảnh đất nước, trên cơ sở phân tích đặc điểm của từng
bước quá độ. Từ đó qua từng kỳ đại hội, khơng những nhất q thực hiện chính


sách kinh tế nhiều thành phần, mà còn xác định rõ các thành phần kinh tế, tạo cơ
sở cho hoạch định và thực thi đúng đắn các chính sách với các thành phần kinh
tế.
Câu 5: Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam:
Để thực hiện đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản theo Chủ nghĩa
Mac-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn vậy trong thời kỳ quá độ chúng ta
cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau:
- Thực hiện phát triển lực lượng sản xuất:
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác
định xây dựng chủ nghĩa xã hội là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước phát quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
Về nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất, Đảng ta xác định: Phát triển lực
lượng sản xuất thơng qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi
trường; xây dựng cơ cấu hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành cơng nghiệp có lợi thế;
phát triển nơng, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ cơng nghệ cao, chất
lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thơn mới. Bảo đảm
phát triển hài hịa giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh
tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới tiến bộ, phù hợp với yêu
cầu phát triển trình độ lực lượng sản xuất mới:
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về nhiệm vụ
từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới. Đảng ta chủ trương thực hiện phát
triển kinh tế nhiều thành phần thông qua phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ này là vì: Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng cơ cấu
kinh tế và tất yếu phải có nhiều thành phần mới có thể hội nhập được với nền
kinh tế khu vực và thế giới.


Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được cũng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu

hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng
phát triển. Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc tận dụng mọi nguồn lực bên ngồi để
phát triển nội lực, lấy nội lực làm chính để xây dựng nền kinh tế.
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước
được xây dựng, phát triển vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa bảo
đảm tính định hướng XHCN. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của
người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế
đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân
phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được
phân phối theo chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế
độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế định hướng, điều tiết,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, tích cực, chủ động
hội nhập kinh tế:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác
và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Trên đây là 3 nhiệm vụ kinh tế cơ bản mà Đảng ta đã đặt ra trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước, nhân dân ta cần phải đồng tâm,
hiệp lực nhằm thực hiện tốt 3 nhiệm vụ kinh tế cơ bản trên nhằm khẳng định chủ
trương đúng đắn của Đảng khi trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê
Nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Liên hệ địa phương:
Đặc điểm và thực trạng phát triển kinh tế tại địa phương


Huyện Đam Rông được thành lập từ năm 2004 từ 5 xã của huyện Lâm Hà
và 3 xã của huyện Lạc Dương. Theo số liệu của Chi cục Thống kê tỉnh Lâm
Đồng năm 2017, sau 13 năm hình thành và phát triển, huyện Đam Rông đã đạt
dc những kết quả khả quan:
- Vụ đông xuân gieo trồng 1.036,8 ha. Vụ hè thu và một số cây vụ mùa
gieo trồng 2.083 ha. Trồng mới 130 ha cây lâu năm nâng tổng diện
tích lên 10.428,7 ha. Tái canh 400 ha cà phê và chuẩn bị giống trồng mới đúng
thời vụ. Hiện đã thu hoạch sản phẩm một số loại cây như: xoài, chuối, dứa, mít,
chanh dây, bưởi, chơm chơm...Đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định; cơng tác
phịng chống dịch bệnh được chú trọng triển khai; tổng đàn gia súc hiện có
20.868 con; tổng đàn gia cầm 109,2 nghìn con. Diện tích ni thả các loại thủy
sản 83,1 ha.
- Kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2017, tồn huyện có 58 doanh nghiệp;
trong đó có 44 doanh nghiệp đang hoạt động, 1 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt
động, 14 doanh nghiệp đang đầu tư chưa đi vào SXKD.
- Đến nay có 886/4.105 hộ đăng ký thoát nghèo; giải quyết cho hộ thoát
nghèo các năm được vay vốn Ngân hàng CSXH và trợ cấp cho 4.813 học sinh
với kinh phí 2.406 triệu đồng.
Tuy vậy phát triển kinh tế tại địa phương vẫn còn tồn tại một số hạn chế
nhất định
- Đam Rông là địa bàn có trên 74% dân cư là người dân tộc thiểu số, đời
sống cịn nhiều khó khăn, trình độ dân trí hạn chế. Người dân vẫn cịn giữ quan
niệm chú trọng vào việc tăng diện tích sản xuất mà ít chú trọng vào việc nâng
cao năng suất cây trồng nên vẫn cịn tình trạng phá rừng làm rẫy.
- Kĩ thuật canh tác nông nghiệp lạc hậu, tập quán canh tác chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác nên năng suất nông nghiệp không

cao. Mức độ, phạm vi áp dụng cơ giới hóa, khoa học kĩ thuật vào sản suất còn
thấp.
- Thanh niên trong độ tuổi lao động chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Chưa có
sự chuyển đổi về cơ cấu nghề nghiệp nên dẫn đến tình trạng thiếu đất sản xuất.
Giải pháp:
- Trong trồng trọt tập trung vào phát triển chiều sâu theo phương châm giữ
vững cây trồng chủ lực gắn với từng bước đầu tư hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ
tầng phục vụ sản xuất (hệ thống dường giao thông, hệ thống tưới tiêu) để góp
phần đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và thu nhập.
Hướng dẫn, vận động nông hộ canh tác đồng trà, đồng vụ. Chuyển đổi diện tích
các loại cây năng suất thấp sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như:
rau, đậu các loại...
- Áp dụng khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa vào sản xuất, chú trọng cơng
tác bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Đầu tư phát triển các loại cây trồng xen
canh để nâng cao giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích.


- Tăng cường mở các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kĩ thuật, hỗ trợ
ứng dụng công nghệ, giống cây trồng nhằm nâng cao tri thức về sản xuất nông
nghiệp cho bà con nhân dân. Mở các lớp đào tạo nghề, phiên chợ việc làm nhằm
phát triển thị trường lao động,
- Có cơ chế phù hợp thu hút đầu tư từ ngoài huyện (tạo điều kiện về cơ sở
hạ tầng, các thủ tục hành chính), tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong huyện phát triển (giúp tiếp cận nguồn vốn, hỗ trợ ứng dụng công nghệ
cao). Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào việc phát triển hệ thống đào
tạo nghề và sử dụng lao động tại chỗ nhằm chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp,
khắc phục tình trạng thất nghiệp và thiếu đất sản xuất.
- UBND huyện cần có các chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách quản
lý kinh tế để kích thích sản xuất, giải phóng sức lao động, phát huy mặt tích cực,
hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.

Câu 6: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật mác xít về vai trị của thực tiễn đối
với nhận thức lý luận? Liên hệ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật mác xít về vai trị của thực tiễn đối
với nhận thức lý luận
Thực tiễn là hoạt động vật chất - cảm tính, mang tính lịch sử, có mục
đích của con người nhắm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các
sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống các nguyên lý,
quy luật, phạm trù.
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận
- Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật,
làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người
hiểu biết về chúng. Vd: Việc đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở
Hy Lạp – La Mã cổ đại là cơ sở cho các định lý về tốn học của Talet, Pitago...
- Thơng qua các hoạt động thực tiễn, các giác quan của con người ngày
càng hoàn thiện hơn tạo cơ sở cho con người nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn
hơn, Vd: Thông qua quá trình chiến đấu, những cơ quan cảm giác như thính
giác, thị giác...dc rèn luyện và ngày càng phát triển.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, con người bộc lộ những hạn chế về nhận
thức đối với thế giới khách quan. Đồng thời, cũng nhờ hoạt động thực tiễn, con
người đã chế tạo ra các cơng cu, máy móc ngày càng hiện đại hơn, từ đó thúc
đẩy nhận thức của con người. Vd: nhờ chế tạo ra kính thiên văn mà con người


có thể quan sát sự chuyển động của các hành tinh từ đó bác bỏ quan điểm trái
đất là trung tâm của hệ mặt trời.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức lý luận

- Mục đích của nhận thức là giúp cho con người trong các hoạt động biến
đổi thế giới, cải tạo hiện thực khách quan nhằm phục vụ đời sống vật chất và
tinh thần của con người và xã hội loài người.
- Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi vận
dụng vào thực tiễn phục vụ con người.
Thực tiễn là cơ sở để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận
- Thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo tri thức đạt được trong nhận thức.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người biết được tri thức đạt được là đúng
hay sai. Mọi sự biến đổi của nhận thức khơng thể vượt ra ngồi sự kiểm tra của
thực tiễn.
- Thực tiễn cần được hiểu là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa
là vừa có tính tương đối và tính tuyệt đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ thực tiễn
ở giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân
lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ thực tiễn luôn vận động và phát
triển. Khi thực tiển thay đổi thì nhận thức thay đổi theo nghĩa là những tri thức
đã đạt dc trước đây vẫn phải kiểm tra thông qua thực tiễn hiện tại.
Liên hệ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đổi mới 1986
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc đến năm 1960 cơ bản hoàn thành. Đảng cho
rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến
phân hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp. Làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ
giải quyết được những vấn đề kinh tế xã hội của cộng đồng nông thôn. Do vậy,
hợp tác xã hoá được thực hiện đồng nhất với tập thể hoá, xoá bỏ sản xuất kinh tế
đơn lẻ, mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao động tập trung dưới
sự chỉ huy điều hành của ban chủ nhiệm hợp tác xã và phân phối theo ngày
công. Do tác động của chiến tranh chống Mỹ cứu nước và có nguồn viện trợ
khơng hồn lại từ các nước xã hội chủ nghĩa, hợp tác xã tập trung bao cấp có tác
dụng tích cực. Bởi nó có thể huy động tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến
đấu, “thóc khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu một người”, tất cả cho tiền
tuyến, cho chiến thắng. Hợp tác xã cịn hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có người

đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm bảo thực hiện chính sách hậu phương
quân đội. Những tiêu cực vốn có bên trong chưa bộc lộ ra
Tuy nhiên, năm 1975, miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước
thống nhất, cả dân tộc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh cuộc
chiến tranh lạnh và cấm vận kinh tế. Điều kiện thực tiễn đã thay đổi, mơ hình
kinh tế hợp tác xã dần dần bộc lộ những mâu thuẫn, nền kinh tế nước ta lâm vào
khủng hoảng ngày càng trầm trọng.
Sau đổi mới 1986


Tại Đại hội VI năm 1986, Đảng nhận định:
+ Trong nhận thức: Chúng ta đã nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong chủ
trương xây dựng sớm một nền kinh tế XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở hữu
là SH nhà nước và SH tập thể, trong khi trình độ của LLSX cịn thấp kém, phát
triển khơng đồng đều.
+ Trong chỉ đạo thực tiễn, chúng ta đã:
- Xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về TLSX một cách ồ ạt, trong khi chế độ
đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển của LLSX.
- Xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan, trong khi trình
độ LLSX cịn thấp kém và phát triển khơng đồng đều. Đời sống nhân dân cực
khổ….
Đảng đã dũng cảm công khai thừa nhận “những sai lầm nói trên là những
sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” đã mắc “bệnh chủ quan, duy ý chí… vừa
“tả khuynh, vừa hữu khuynh”. Đảng đã xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, xác định nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập
thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hố (thợ thủ

cơng, nơng dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể);
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình
thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận
đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Tại Đại hội VII năm 1991, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Nếu như Đại hội VI năm 1986, Đảng ta mới chủ trương thay cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp bằng cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch
tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thì tới Đại hội VII năm 1991, việc điều tiết
nền kinh tế đất nước cịn có sự tham gia của cơ chế thị trường. Trong cơ chế này,
các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh
tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện. Thị trường có vai trị trực tiếp
hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức
sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhằm tạo ra một môi trường kinh tế sơi động.
Trước thời kì đổi mới, việc nhận thức, vận dụng lý luận Mac – Lênin về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ dừng lại ở những nét
khái qt nhất. Mơ hình chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta xây dựng thực chất là rập
khn mơ hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xơ. Điều này phản ánh những hạn chế
trong lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, qua Đại hội VI
và Đại hội VII, việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần và việc điều
tiết nền kinh tế đất nước có sự tham gia của cơ chế thị trường thể hiện sự nhận


thức đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Đảng về thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Để vận dụng tốt liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta phải có quan
điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nhận thức sự vật phải
gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát từ thực tiễn địa phương, đất
nước.
Việc nghiên cứu lý luận phải gắn liền với thực tiễn, học phải gắn với hành.

Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ
khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để
kiểm tra sự đúng sai của lý luận.
Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh
nghiệm, giáo điều. Thực hiện phương châm nói đi đơi với làm.
Câu 7: “Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình, do đó khi
xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa ta cần kế thừa tất cả những tư tưởng,
phong tục, tập quán của xã hội cũ để lại” quan điểm này đúng hay sai? Vì
sao? Để xây dựng ý thức xã hội mới xã hội chủ nghĩa, theo đồng chí cần phải
làm gì?
“Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình, do đó
khi xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa ta cần kế thừa tất cả những tư
tưởng, phong tục, tập quán của xã hội cũ để lại” quan điểm này là sai vì đó là
sự kế thừa máy móc, khơng sáng tạo.
- Bởi vì ý thức xã hội của mỗi thời đại được xuất hiện trên cơ sở kế thừa
những yếu tố của ý thức xã hội thời đại trước. Khi xây dựng xã hội mới xã hội
chủ nghĩa, ta cần kế thừa những ý thức tốt đẹp của xã hội cũ như truyền thống
yêu nước, yêu lao động, yêu thương con người…Đồng thời phát huy, nâng tầm ý
thức tốt đẹp của xã hội cũ để phủ hợp với xã hội mới như phát huy ý thức “trung
với vua, hiếu với cha mẹ” của xã hội phong kiến trở thành ý thức” trung với
nước, hiếu với dân” trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Kiên quyết bài trừ, xóa bỏ những ý thức xã hội lạc hậu của xã hội cũ như
mê tín, đị đoan, lề lối, phong cách sản xuất nhỏ, không tuân thủ giờ giấc…bởi
chúng tác động tiêu cực tới tồn tại xã hội, cản trở xã hội phát triển; hủy hoại môi
trường sống tự nhiên, làm mất cân bằng về dân số, mật dộ dân cư…
Để xây dựng ý thức xã hội mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay:
Chúng ta phải kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại đồng thời
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực
sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển; thành nền tảng tinh thần của xã

hội. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII Đảng ta đã khẳng định “trong q trình
xây dựng nền văn hóa mới, chúng ta khơng chỉ chú ý giữ gìn, kế thừa những giá
trị và bản sắc văn hóa dân tộc, mà cịn phải chú trọng tiếp thu, kế thừa tinh hoa


×