Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

“Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào xây dựng nền văn hoá việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.25 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật
phủ định của phủ định ln là nền tảng lí luận, kim chỉ nam cho hoạt động nhận
thức cũng như hoạt động thực tiễn của những người mác xít.Việc thiết kế, xây
dựng được một xã hội mới về chất trên nền tảng vốn có của xã hội cũ, về thực chất,
đó là q trình vận dụng và thực hiện quan điểm phủ định biện chứng trong thực
tế. Phủ định biện chứng là q trình phủ định bao hàm trong nó những nhân tố tích
cực của cái bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa những yếu
tố tích cực và gạt bỏ những yếu tố khơng phù hợp với sự phát triển của cái mới.
Song, khi vận dụng quan điểm phủ định của phủ định vào đời sống thực tiễn để
xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng đã có những quan điểm xem xét sự vật và
hiện tượng một cách cứng nhắc, siêu hình hoặc là xóa bỏ tất cả hoặc là kế thừa một
cách nguyên si. Hơn bất cứ lĩnh vực nào, lĩnh vực văn hóa ở nước ta trước đổi mới
đã có những quan điểm chỉ đạo và cách làm chưa đúng. Và hệ quả là nhiều di sản
văn hóa của dân tộc bị xâm hại và phá hỏng, nền văn hóa đân tộc bị tổn thất lớn.
Chúng ta nói về phủ định biện chứng, song chưa hiểu và chưa nắm được thực chất
của nó. Vì vậy, làm rõ quan điểm phủ định biện chứng và vận dụng một cách đúng
đắn, thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta là điều hết sức cần thiết. Hiện nay,
bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải xây dựng một nền văn
hóa mới, phù hợp với yêu cầu của thời đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Ngày nay trước xu thế tồn cầu hóa,hợp tác hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội giúp cho chúng ta có cơ hội để tiếp thu những tinh hoa văn hóa của
nhân loại, làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc mình. Hơn nữa, trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thì vấn đề giữ gìn
nền văn hóa mang đậm tính dân tộc ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bên
cạnh những mặt tích cực, mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang làm chao đảo


nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số
giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng vốn có vị trí quan trọng trong hệ thống giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị mai một và tha hóa.


Với lí do trên tơi chọn đề tài: “Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào
việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” làm đề tài
cho bài tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Vị trí, vai trị của quy luật
- Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều
kiện cho sự phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời
thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự
vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật,
hiện tượng, là “mắt xích” trong sợi dây chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.
- Kế thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ việc sự vật, hiện tượng mới ra đời
vẫn giữ lại có chọn lọc và cải tạo yếu tố cịn thích hợp để chuyển sang chúng, loại
bỏ các yếu tố khơng cịn thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở cho
sự phát triển của sự vật, hiện tượng mới. Đặc điểm của kế thừa biện chứng là duy
trì các yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng vượt bỏ, các
yếu tố chọn giữ lại sẽ được cải tạo, biến đổi để phù hợp với sự vật, hiện tượng mới.
Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự quy định bởi vai trò của yếu tố phù hợp
được kế thừa, do vậy, việc giữ lạo yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ
định làm cho sự vật, hiện tượng mới có chất giàu có hơn, phát triển cao hơn, tiến
bộ hơn. Kế thừa biện chứng đối lập với kế thừa siêu hình – là việc đối tượng giữ lại


ngun si những gì bản thân nó đã có ở giai đoạn phát triển trước, khơng tự mình
rũ bỏ những yếu tố đã tỏ ra lạc hậu hết thời, không cịn phù hợp, thậm chí cịn
ngáng đường, ngăn cản sự phát triển tiếp theo của chính nó, của đối tượng mới.
Kế thừa biện chứng đảm bải mối dây liên hệ thông suốt bền chặt giữa đối tượng
mới với đối tượng cũ, giữa nó với q khứ của chính nó. Trong trường hợp này
những yếu tố còn tỏ ra phù hợp với đối tượng mới từ đối tượng cũ nhưng vẫn phải

chịu sự cải tạo mạnh mẽ cho phù hợp với bản chất mà đối tượng mới đang tạo lập
và những yếu tố mới hẳn mà đối tượng mới đang ra sức xây dựng, bổ sung, là nội
dung của khâu trung gian, của cái giới trung gian, của bước chuyển, của sự quá độ
từ cũ sang mới. Trong cái trung giới chứa đựng những yếu tố cũ, lỗi thời đang dần
mất đi và những yếu tố mới đang xuất hiệ, đang trưởng thanh và sẽ dần được
khẳng định.
- Đường xốy óc là khái niệm dùng để chỉ sự vận động của những nội dung mang
tính kế thừa có trong sự vật, hiện tượng mới nên không thể đi theo đường thẳng,
mà diễn ra theo đường trịn khơng nằm trên một mặt phẳng tựa như đường xốy ốc.
Đường xốy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng của quá trình phát triển biện
chứng ở tính kế thừa qua khâu trung gian, tính lặp lại, nhưng khơng quay lại và
tính tiến lên của sự phát triển. V.I.Lênin lưu ý chúng ta: “Sự phát triển hình như
diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ
cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trịn ốc
chứ khơng theo đường thẳng”. Như vậy, sự phát triển dường như lặp lại, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ
định.
1.2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định


Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do mâu
thuẫn bên trong của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh
và chuyển hóa giữa những mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Phủ định lần thứ
nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó,
phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật hiện tượng mới mang nhiều nội
dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ, nhưng cũng đã mang không ít nội dung
đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới
(ra đời do phủ định của phủ định), nhưng về nội dung, không phải trở lại giống y
như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn. Phủ định
biện chứng chỉ là một giai đoạn trong q trình phát triển vì chỉ thơng qua phủ định

của phủ định mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy, phủ
định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển, đồng thời tạo ra
điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo. Số lượng các lần phủ định trong
một chu kỳ phát triển có nhiều hơn hai, tùy theo tính chất của q trình phát triển
cụ thểm nhưng ít nhất cũng phải qua hai lần mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới, hoàn thành được một chu kỳ phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng
thực hiện xong sẽ mang thêm những yếu tố tích cực mới; do vậy, sự phát triển
thơng qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển
không ngừng của sự vật, hiện tượng. Do đó sự kế thừa nên phủ định biện chứng
khơng phải là phủ định sạch trơn, không loại bỏ tất cả các yếu tố của sự vât, hiện
tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và gìn giũ, lặp lại một số yếu tố
tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn lọc, cải tạo cho phù hợp
và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ đạo tiến lên như đường
xốy ốc.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh một liên hệ, sự kế thừa thông
qua khâu trung gian giữa cái bị phủ định với cái phủ định; do đo kế thừa cho sự


phát triển, nó lưu giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc
điểm chủ yếu của cái ban đầu trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tích
chất tiến lên khơng hẳn theo đường thẳng mà theo đường xốy trịn ốc.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật,
hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển, sau
khi đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng
của sự phát triển.
Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là q
trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, khơng va vấp, khơng
có những bước thụt lùi.
Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời

phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao hơn về chất trong sự phát
triển. Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát;
nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới đó gắn với việc nhận thức và hành động có ý
thức của con người.
Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời
gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ cịn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện
tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hơn quy luật; biết kế thừa có chọn lọc
những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với
xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
III. VẬN DỤNG QUY LUẬT CỦA PHỦ ĐỊNH VÀO XÂY DỰNG NỀN VĂN
HÓA DÂN TỘC TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
3.1. Đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam


Nếu con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên thì văn hóa là sản phẩm đặc sắc
nhất của con người. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hịa giữa cá nhân và
cộng đơng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả
trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Nền văn hóa dân tộc là nền văn hóa gắn với dân tộc, có gốc về từ dân tộc là diện
mạo dân tộc và mang tâm hồn dân tộc. Biểu hiện của diện mạo dân tộc chính là
bản sắc dân tộc, bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử. Đó
là lịng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý chí cộng
đồng gắn kết cá nhân, gia đình làng xã, tổ quốc, lịng nhân ái, khoan dung trọng
nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm thông minh
trong chiến
đấu, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống, tình nghĩa thủy chung với

người thân, bạn bè…”
Nói tóm lại, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng hợp các giá trị tinh thàn của
dân tộc, tiêu biểu là lòng yêu nước yêu quê hương, tinh thần bất khuất cho độc lập
tự do, cần cù trong lao động, lịng khoan dung sống có trước có sau, tơn trọng lẽ
phải… Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm sự thống nhát trong tính đa dạng và
phong phú của nền văn hóa Việt Nam, tức là bao gồm các sắc thái và các giá trị
văn hóa của các dân tộc anh em trong đất Việt, cuarmoij vùng, mọi địa phương
trong cả nước.


3.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc
Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã
hội lồi người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát
triển bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội
và mọi hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người.
Trong suốt chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai
cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị
của văn hóa và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối
với sự phát triển bền vững của đất nước. Ý thức sâu sắc về sức mạnh văn hóa đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc thốt khỏi ách áp bức thống trị của thực dân Pháp
xâm lược, ngay từ tháng 2 năm 1943, Đảng ta đã ban hành “Đề cương văn hóa Việt
Nam". Đây là bản Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng ta, đặt nền tảng lý luận
cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và soi đường cho sự phát triển nền văn hóa Việt Nam
trong suốt hơn 70 năm qua. Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận:
kinh tế, chính trị, văn hóa", vì vậy, "phải hồn thành cách mạng văn hóa mới hồn
thành được cơng cuộc cải tạo xã hội" và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa

tiên phong"; đồng thời, đề ra ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc,
đại chúng, khoa học. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ba nguyên tắc của cuộc vận động
văn hóa mới đã trở thành ngọn cờ cổ vũ, động viên, tập hợp đơng đảo đội ngũ trí
thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu quốc và soi đường cho các hoạt động của
đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn, động viên, cổ vũ
nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945


thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ - lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Trong hơn 20 năm kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức quán triệt sâu
sắc nguyên tắc tính dân tộc, tính đại chúng, tính khoa học của Đề cương Văn hóa
Việt Nam; kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
qua mấy nghìn năm dựng và giữ nước, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa
của nhân loại, sáng tạo ra những tác phẩm văn hóa nghệ thuật kiệt xuất, phục vụ
kịp thời cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sức mạnh nội sinh của văn
hóa đã được phát huy mạnh mẽ, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc, trở thành niềm cổ
vũ, động viên to lớn đối với quân và dân hai miền Nam - Bắc; nâng cao tinh thần
yêu nước, thôi thúc mạnh mẽ phong trào thi đua giữa tiền tuyến và hậu phương,
quyết tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào”, góp phần giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau chiến thắng vĩ đại Mùa xuân năm 1975, cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập trung tiến hành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa nhằm xây dựng nền văn hóa mới và
con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện và thực hiện lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “ Muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, phải có những
con người mới xã hội chủ nghĩa ”. Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với tư duy
đổi mới toàn diện, Đảng đã chủ trương đổi mới tư duy trên lĩnh vực văn hóa.
Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị (Khóa VI) đã ban hành Nghị quyết số 05NQ/TW về lãnh đạo văn hóa - văn nghệ trong cơ chế thị trường. Nghị quyết đã xác

định những định hướng lớn chỉ đạo việc đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình
văn học - nghệ thuật; cơng tác quản lý văn học - nghệ thuật và một số nhiệm vụ
văn hóa - văn nghệ. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ


lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng xác định một trong sáu đặc trưng của xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc văn hóa dân tộc. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí, vai
trị chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Đồng thời, kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người; chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Quán triệt nguyên tắc tính dân
tộc, tính đại chúng, tính khoa học, Cương lĩnh đã chỉ rõ những định hướng về xây
dựng nền văn hóa mới gồm: Tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú, đa
dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Phát huy vai trò văn học, nghệ thuật
trong nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn Việt Nam; khẳng định và biểu dương những
giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, thiện, mỹ theo quan điểm tiến bộ; đấu tranh
phê phán những cái phản văn hóa, lỗi thời, thấp kém; bảo đảm quyền được thông
tin, quyền tự do sáng tạo của công dân; phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích. Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, đã ra Nghị
quyết chuyên đề về: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", xác
định những quan điểm cơ bản: Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm
chỉ rõ vai trị to lớn của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất
nước. văn hóa khơng phải là kết quả thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh
hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hồn tồn vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa
vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy kinh tế. “Văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời

sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất


nước ta đời sống tinh thần cao đẹp". Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ,
trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự
phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm
những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đó là, lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lịng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng
xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
chống giặc ngoại xâm … Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và
nhân văn, phù hợp với thực tiễn của cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt
Nam và xu thế chung của cộng đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một cơng
ước quốc tế về đa dạng văn hóa hiện nay. Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là
sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan
trọng. Quan điểm xác định trách nhiệm của mọi người dân Việt Nam đều tham gia
sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà; cơng nhân, nơng dân, trí thức
là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời là nền tảng của sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn
nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ vai trò quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Năm là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng
và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí
cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Quan điểm chỉ rõ: Cuộc đấu tranh giai cấp trên

lĩnh vực tư tưởng - văn hóa hiện nay đang diễn ra hết sức nóng bỏng, quyết liệt,


phức tạp. Văn hóa là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và khác với các hoạt động
kinh tế. Tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất, nhưng các hoạt động văn hóa
ln mang ý nghĩa chính trị - xã hội, có tác động sâu sắc đối với đời sống tư tưởng,
tình cảm, tâm lý, tập quán cộng đồng. Vì vậy, cần phải tiến hành một cách kiên trì,
thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát huy tinh thần tự nguyện, tính
tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong xây dựng và phát triển văn hóa;
đẩy mạnh phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”, làm cho văn
hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động của xã hội, vào từng con người,
từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, cũng như mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan
hệ con người trong xã hội.
3.3. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc
a, Thành tựu
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã tiến thêm một bước
về khẳng định vai trò của văn hóa: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng
cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba
lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và
bền vững của đất nước". Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục
nhấn mạnh, phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao chất lượng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; quan tâm chăm lo xây
dựng, hoàn thiện những phẩm giá nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, để chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
và ngăn chặn "luồng văn hóa độc hại" xâm nhập vào nước ta từ nhiều con đường



khác nhau, Bộ Chính trị (khóa X) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TƯ
“Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, định
hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ "bản sắc
văn hố dân tộc” trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bộ Chính trị u cầu cấp ủy,
chính quyền, Mặt trận, đồn thể các cấp và đội ngũ đảng viên, cán bộ tăng cường
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và chung tay góp sức, kiên quyết ngăn
ngừa, phịng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng
đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội. Kế thừa ba nguyên tắc cuộc vận động
văn hóa mới của “Đề cương Văn hóa Việt Nam” và phát triển tư tưởng văn hóa của
Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết
chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao” . Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm
đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư
tưởng, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có những chuyển
biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn hóa, chuẩn mực đạo đức được khẳng định
và nhân rộng trong xã hội. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa" và Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
các phong trào thi đua yêu nước ngày càng được mở rộng và từng bước đi vào thực
chất trong đời sống xã hội. Công cuộc bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của
dân tộc đã đạt được nhiều tiến bộ Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể được


bảo vệ và phát huy giá trị. công tác xã hội hố đã thu hút được đơng đảo các tổ

chức và cá nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hố, góp phần tích
cực gìn giữ bản sắc văn hóa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong kho
tàng di sản văn hóa dân tộc, dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu. Tuy nhiên, do
những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, lĩnh
vực văn hóa cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, tác động khơng nhỏ đến văn
hóa truyền thống của dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Văn hóa
phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ,
báo chí, xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu
lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm
nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh,
thiếu niên, rất đáng lo ngại". Đây là những nguy cơ tiềm ẩn làm xói mịn các giá trị
văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gây mất trật tự an ninh xã hội,
cản trở sự phát triển bền vững của đất nước. Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định các chủ
trương, biện pháp sau:
Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, phong phú,
đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào
chiều sâu, thiết thực hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu
dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào
mọi mặt đời sống. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có
văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội. Sớm có chiến
lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển


những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục
thế hệ trẻ. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, chú trọng nâng cao đời sống văn hóa
ở nơng thơn, vùng khó khăn, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các

vùng, các nhóm xã hội, giữa đơ thị và nơng thơn...
Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hóa truyền thống, cách mạng. Tiếp tục phát triển nền văn học nghệ thuật Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện
đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và cơng cuộc đổi mới đất
nước. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong
cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng
lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong
sáng của tiếng Việt, khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục
của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ
thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật... Ba là, phát
triển hệ thống thơng tin đại chúng. Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy
mạnh mẽ chức năng thông tin, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện
thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng
thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập
trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng
về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt, yêu cầu của thời kỳ
mới. Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý,
hạn chế mặt tiêu cực,... Bốn là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về
văn hóa; đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ
thuật, đất nước con người Việt Nam với thế giới; mở rộng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, báo


chí, xuất bản. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước;
giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng
Việt Nam; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ,
quyền tác giả...
b, Hạn chế

Những hạn chế trong thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa, xây dựng con
người Việt Nam là vấn đề thời sự trước thềm Đại hội XIII. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trong xây dựng nền văn hóa là chính sách và
việc triển khai thực hiện của hệ thống các cơ quan quản lý trong hệ thống quản lý
nhà nước chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống và tính chất của văn hóa, chưa
tương ứng với quyết tâm chính trị của Đảng. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII xác
định nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém “chủ yếu là do nhiều cấp uỷ, chính
quyền nhận thức chưa đúng tầm quan trọng và chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này;
lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của
Đảng cịn chậm, thiếu đồng bộ. Cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được
đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí bng lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn
hóa chưa tương xứng và cịn dàn trải”. Đối với việc xây dựng con người Việt Nam,
nhiều ý kiến thống nhất rằng nguyên nhân quan trọng là do hệ thống giáo dục chưa
đáp ứng được yêu cầu. “Xét cho đến cùng, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế
của con người Việt Nam nói chung đều là do những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế
của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này mà ra”. Con người là kết quả
q trình xã hội hóa thơng qua giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội, mà như
ta biết, những gì được học trong quá trình đó sẽ là nền tảng để tạo nên con người
văn hóa. Và, với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, mỗi cá nhân trong cộng đồng
sẽ góp phần tạo nên văn hóa của cộng đồng. Có thể nói, nền văn hóa dân tộc được
hình thành và phát triển như thế nào là do mỗi con người với tư cách là con người


văn hóa được hình thành thơng qua giáo dục quyết định. Vấn đề là ở chỗ, sự giáo
dục nhân cách con người hiện đang bị coi nhẹ trong xã hội và ngay cả hệ thống
giáo dục cũng có hạn chế như Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội
XII đã chỉ ra: “... giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu,
thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với
yêu cầu”.
3.4. Những giải pháp nhằm thúc đẩy việc xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên

tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính
quyền, các tổ chức xã hội và người dân về vị trí, vai trị của văn hóa đối với sự phát
triển đất nước; tuyên tuyền gương người tốt, việc tốt, xây dựng gia đình văn hóa,
mơi trường văn hóa xã hội lành mạnh; coi trọng giáo dục truyền thống, tự hào, tự
tôn dân tộc; phát triển văn hóa cũng là để xây dựng con người có nhân cách và xây
dựng con người cũng là để phát triển văn hóa bền vững, tiếp tục cụ thể hóa đặc
trưng văn hóa, đặc tính con người Việt Nam trong điều kiện mới, hoàn thiện hệ giá
trị chuẩn mực văn hóa, con người; phát huy tốt vai trị của văn hóa với tư cách là
hệ điều tiết phát triển xã hội.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, coi trọng
xây dựng luật pháp, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa phù hợp với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; bổ sung, hoàn thiện một số cơ
chế, chính sách mang tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật, nhất là đối với đồng
bào dân tộc thiểu số; một số quy định pháp luật về những vấn đề liên quan đến
quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với luật pháp quốc tế; xử lý hài hòa
mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Hồn chỉnh hệ
tiêu chí về văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cụ thể hóa nội dung


văn hóa trong chính trị và kinh tế, coi trọng việc đánh giá các tác động của các
chính sách kinh tế đối với văn hóa và ngược lại xây dựng tiêu chí văn hóa cho cấp
ủy đảng các cấp. Tăng cường đấu tranh phịng, chống các biểu hiện suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa.
Ba là, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nâng
cao khả năng dự báo, định hướng phát triển văn hóa, con người. Tiếp tục mở rộng
hợp tác quốc tế về văn hóa theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả; khuyến
khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá các tác
phẩm văn học nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân và giới thiệu
văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Huy động các nguồn lực xã hội, đẩy mạnh

xã hội hóa các hoạt động văn hóa; coi trọng bảo tồn các di sản văn hóa vật thể, phi
vật thể, các giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số. Có các chính sách mới, phù hợp
nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hưởng thụ văn hóa ở các vùng khó khăn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Phát triển các thiết chế văn hóa, đảm bảo tính hiệu
quả trong sử dụng, phù hợp với vùng miền, tập quán dân tộc. Đầu tư có trọng tâm,
trọng điểm, minh bạch, cơng khai và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển
văn hóa, đầu tư cho văn hóa phải tương đương với tăng trưởng kinh tế. Phát triển
cơng nghiệp văn hóa.
Bốn là, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa phù hợp với yêu cầu mới,
đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm cơng tác văn hóa, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, nhất là
cán bộ đầu đàn, chuyên gia đầu ngành, doanh nhân trong lĩnh vực văn hóa, nghệ
nhân. Có chính sách phù hợp thu hút cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số trong các
lĩnh vực văn hóa ở cơ sở. Quy hoạch lại hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, trong đó vừa đảm bảo nhu cầu đào tạo các lĩnh vực văn hóa quần chúng,
vừa chú trọng đào tạo chuyên sâu. Xây dựng một số trường đại học nghiên cứu về


văn hóa mang tầm khu vực. Tiếp tục hồn thiện chính sách tơn vinh, đãi ngộ, trọng
dụng những người tài, đặc biệt là những lĩnh vực văn hóa đặc thù.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con
người. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò
nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện các quy định về văn hóa, đạo đức,
lối sống. Đẩy mạnh và đưa vào chiều sâu việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, coi trọng hiệu quả, chất lượng; thực hiện phong trào
toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn
hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, hồn thiện các tiêu chí đánh giá cán bộ
chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược về các nội dung liên quan đến đạo
đức, văn hóa. Gắn kết ngay từ đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
văn hóa. Triển khai thực hiện có lộ trình đặt ngang hàng văn hóa với chính trị, kinh

tế, xã hội về nhiệm vụ, đầu tư kinh phí, trách nhiệm chính trị của các cấp ủy đảng,
chính quyền, tổ chức xã hội và người dân; phát huy vai trò các phương tiện truyền
thống đại chúng trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai
đoạn mới.
KẾT LUẬN
Như đã nói, văn hóa ln mang tính đa dạng và biến đổi. Thế nhưng, cho đến nay
các chính sách về văn hóa của Nhà nước ta lại chưa quan tâm đúng mức đến sự đa
dạng văn hóa ở một đất nước vốn có nhiều dân tộc và nhiều vùng địa lý mang
những đặc điểm khác biệt. Bên cạnh đó, việc triển khai các hoạt động liên quan
đến chính sách cũng chưa phù hợp khi nhà nước, chứ không phải người dân, lại
được coi là chủ thể hoạt động và như vậy là chưa đúng với tinh thần xây dựng nền
văn hóa đại chúng - nền văn hóa thuộc về nhân dân với những biến đổi tự thân
không ngừng.


Thực tiễn xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam đặt ra nhiều thách thức
trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, triển vọng cũng không hề nhỏ khi mà Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định quan điểm coi văn hóa là mục tiêu và động lực phát
triển, coi con người là trung tâm trong chiến lược phát triển. Chủ trương của Đảng
về văn hóa trong các kỳ Đại hội sẽ là nền tảng vững chắc để tạo ra những chuyển
biến tích cực. Vấn đề cịn lại là quyết tâm chính trị của tồn bộ hệ thống quản lý
nhà nước có liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Triết học Mác – Lênin, tr.109 – tr.112
-

/>
tien-dam-da-ban-sac-dan-toc-208817.html
-


/>
Viet-Nam-tu-sau-Doi-moi-den-nay-2



×