Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Dạy học tích hợp môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.41 KB, 5 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34

DẠY HỌC TÍCH HỢP MƠN NGỮ VĂN ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU
PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC HỌC SINH PHỔ THÔNG
Phạm Thanh Hùng - Trường Đại học An Giang
Ngày nhận bài: 12/06/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 27/07/2018.
Abstract: Integrated teaching and diferential teaching is one of the core issues in pedagogy which
is emphasized and clarified in General Education Program (July 2017) as well as the renovated
Draft Curriculum for general education in Literature (January, 2018). The article presents an
overview on integrated teaching and how to apply integrated teaching in literature to develop the
dignity and capacity of students (at secondary schools and high schools).
Keywords: integration, internal intergration, multi-subject integration, inter-subject integration,
cross-subject integration, Draft Curriculum for General education in Literature.
1. Mở đầu
Dạy học tích hợp là xu hướng chung của giáo dục phổ
thông các nước trên thế giới. Thông qua dạy học tích hợp,
giáo viên hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ
năng mới, phát triển những năng lực cần thiết, nhất là
năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc
sống. Trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thơng
mơn Ngữ văn trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ
thông (THPT) đổi mới lần này (tháng 01/2018), khi đề
cập phương pháp giáo dục, vấn đề dạy học tích hợp và
phân hóa đã được nhấn mạnh và làm rõ hơn so với các
lần cải cách giáo dục trước đây.
Bài viết phân tích những nội dung liên quan đến dạy
học tích hợp và dạy học tích hợp môn Ngữ văn nhằm đáp
ứng mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất cho học
sinh phổ thông.


2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm
2.1.1. Tích hợp
Tích hợp (tiếng Anh: Integration; tiếng Pháp:
Intégration) là một khái niệm rộng, khơng chỉ dùng trong
lí luận dạy học. Theo định nghĩa của UNESCO, tích hợp
là “Một cách trình bày các khái niệm và nguyên lí khoa
học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng
khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác
giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau” [1; tr 7]. Như vậy,
tích hợp có nghĩa là sự xác lập cái chung, cái toàn thể, cái
thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ. Trong giáo
dục, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ,
có hệ thống, ở những mức độ khác nhau các kiến thức,
kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần
của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ
sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến

30

trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ mơn đó.
Tích hợp là một trong những quan điểm dạy học nhằm
nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo những
người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các
vấn đề trong học tập và trong cuộc sống hiện đại.
2.1.2. Dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp (Integrated teaching) là một quan
niệm giáo dục tồn diện con người xuất hiện từ thời kì
Khai sáng (thế kỉ XVIII) nhằm chống lại hiện tượng phát
triển thiếu hài hịa, cân đối. Dạy học tích hợp là định

hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn
học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ
học tập, đời sống; từ đó hình thành những kiến thức, kĩ
năng mới, phát triển những năng lực cần thiết, nhất là
năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong cuộc
sống. Dạy học tích hợp cũng có nghĩa là đưa những nội
dung giáo dục có liên quan thuộc những mơn học, lĩnh
vực khác nhau vào q trình dạy học các mơn học như:
tích hợp văn học với lịch sử, địa lí, văn hóa, xã hội, đạo
đức, lối sống; tích hợp giáo dục cơng dân với giáo dục
pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo, an
toàn giao thơng; tích hợp vật lí, hố học, sinh học với giáo
dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ
mơi trường bền vững, chống biến đổi khí hậu, chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe…
Nhiều nước tiên tiến trên thế giới như Hoa kì, Anh,
Thụy Sĩ, Australia, Hàn Quốc, New Zealand, Nhật Bản,
Singapore,… đã thực hiện quan điểm tích hợp một cách
hiệu quả trong dạy học. Theo giáo sư (GS) Đinh Quang
Báo, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển
nhân lực, trong một nghiên cứu mới đây của Viện Khoa
học giáo dục Việt Nam về chương trình giáo dục phổ
thơng 20 nước đã cho thấy 100% các nước đều xây dựng
Email:


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34


chương trình theo hướng tích hợp. GS Nguyễn Minh
Thuyết, Tổng Chủ biên Chương trình giáo dục phổ thơng
mới, cho rằng: “Dạy học tích hợp là xu thế chung của
chương trình giáo dục phổ thơng các nước. Tuy nhiên, có
nhiều mức độ tích hợp khác nhau. Các mơn Khoa học tự
nhiên, Lịch sử và Địa lí trong chương trình giáo dục phổ
thơng của Việt Nam mới tích hợp ở mức độ thấp, tức là
tích hợp liên mơn, chứ chưa phải là tích hợp ở mức độ
cao như nhiều nước trên thế giới” [2]. Tuy vậy, đến nay,
nhiều giáo viên vẫn hiểu chưa đúng hoặc còn rất mơ hồ
về dạy học tích hợp. Chẳng hạn, có giáo viên biến giờ
dạy văn thành giờ giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục
về dân số rất sống sượng; hay dựa vào kiến thức của mơn
học này để nói đến một nội dung giáo dục khác, khiến
nội dung kiến thức môn đang học bị suy diễn, lệch lạc…
2.1.3. Các dạng tích hợp
- Tích hợp nội mơn
Tích hợp nội mơn là sự gắn kết, đảm bảo tính đồng
bộ giữa các nội dung liên quan của các phân môn trong
một môn học, hoặc lồng ghép các vấn đề cần thiết nhưng
không thành môn học vào môn học tùy theo đặc trưng
của từng môn như môi trường, năng lượng, biến đổi khí
hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản,…
- Tích hợp đa mơn
Tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học
liên quan với nhau có chung một định hướng về nội dung
và phương pháp dạy học nhưng mỗi mơn lại có một
chương trình riêng. Tích hợp đa mơn được thực hiện theo
cách tổ chức các môn học xoay quanh một chủ đề, đề tài,

dự án, tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp
kiến thức của các mơn học có liên quan.
- Tích hợp liên mơn
Với tích hợp liên mơn, giáo viên tổ chức chương trình
học tập xoay quanh các nội dung học tập chung, như các
chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên mơn.
Tích hợp liên mơn cịn được hiểu như là phương án,
trong đó nhiều mơn học liên quan được kết lại thành một
môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên
suốt qua nhiều cấp lớp. Ví dụ: Lịch sử, Địa lí, Vật lí, Hóa
học, Sinh học, Giáo dục cơng dân, Xã hội được tích hợp
thành mơn “Nghiên cứu xã hội và mơi trường” trong
chương trình giáo dục phổ thơng ở Anh, Australia,
Singapore, Thái Lan.
- Tích hợp xun mơn
Trong dạy học tích hợp xun mơn, giáo viên tổ chức
chương trình học tập xoay quanh các vấn đề và mối quan
tâm của người học. Học sinh phát triển kĩ năng sống khi
áp dụng các kĩ năng mơn học và liên mơn vào hồn cảnh

31

thực tế. Con đường dẫn đến tích hợp xun mơn là khi
học tập theo dự án và thương lượng chương trình học. Có
thể xem tích hợp xun mơn là đỉnh cao của dạy học tích
hợp khi ranh giới giữa các mơn học bị xóa nhịa.
2.2. Tích hợp trong Chương trình giáo dục phổ thơng
tổng thể
2.2.1. Chủ trương tích hợp
Chủ trương dạy học tích hợp trong chương trình mới

có một số điểm khác so với chương trình hiện hành như:
tăng cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một môn
học, xây dựng một số mơn học tích hợp mới ở các cấp
học; tinh thần chung là tích hợp mạnh ở các lớp học dưới
(tiểu học (TH), THCS) và phân hoá dần ở các lớp học
trên (THPT); yêu cầu tích hợp được thể hiện cả trong
mục tiêu, nội dung, phương pháp và thi, kiểm tra, đánh
giá giáo dục.
2.2.2. Định hướng các dạng tích hợp
Trước hết, định hướng tích hợp được thể hiện ngay
trong một mơn học. Chẳng hạn, trong chương trình mơn
Ngữ văn sẽ có sự tích hợp giữa các kĩ năng đọc, viết, nói
và nghe; tích hợp giữa kiến thức văn học và kiến thức
tiếng Việt trong quá trình dạy học các kĩ năng này. Các
môn học khác, tùy vào đặc điểm và tính chất mơn học
mà thực hiện u cầu tích hợp giữa các phân môn, các
phần của mỗi môn học. Việc tích hợp trong chương trình
các mơn học cũng được thể hiện ở yêu cầu cần đạt (chuẩn
đầu ra) khi dạy học nội dung từng chủ đề môn học.
Tên các mơn học trong Chương trình giáo dục phổ
thơng mới đã phản ánh tư tưởng tránh nhấn quá mạnh
hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học
khác nhau, nghĩa là khơng phân hóa q sớm kiến thức
khoa học.
Ví dụ: Ở chương trình cấp TH hiện hành, các mơn Tự
nhiên và Xã hội ở các lớp 1, 2, 3; mơn Lịch sử và Địa lí,
mơn Khoa học ở các lớp 4, 5 vốn đã có tính tích hợp.
Trong chương trình giáo dục phổ thơng mới, tính tích
hợp trong những môn học này sẽ được thể hiện đậm nét
hơn thông qua các chủ đề chung giữa các phân mơn.

Chương trình cấp THCS lần này quán triệt tư tưởng trên
thể hiện ở tên các mơn học: Lịch sử và Địa lí và mơn
Khoa học tự nhiên. Việc tích hợp được thiết kế ở mức
thấp. Đó khơng phải là sự “lắp ghép cơ học” các phân
môn trong Khoa học tự nhiên cũng như trong Lịch sử và
Địa lí.
Trong chương trình của mỗi mơn, các mạch nội dung
có sự kết nối ở mức có thể, để tránh trùng lặp; kiến thức
và kĩ năng của phân môn này giúp làm sáng rõ hơn kiến


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34

thức và kĩ năng của phân môn kia; giúp học sinh vận
dụng các kiến thức, kĩ năng của từng phân mơn nhằm
giải quyết các vấn đề địi hỏi từ cách tiếp cận liên mơn.
Với chương trình mơn Khoa học tự nhiên, nội dung
đã được thiết kế thành các chủ đề lớn như vật chất, vật
sống, năng lượng và sự biến đổi, trái đất và bầu trời. Các
kiến thức và kĩ năng Vật lí, Hóa học, Sinh học đều được
triển khai trong phạm vi những chủ đề này.
Ở chương trình mơn Lịch sử và Địa lí, nội dung được
thiết kế thành hai mạch tương đối độc lập nhưng có các
chủ đề gắn kết để giáo viên và học sinh thấy được mối
liên hệ giữa Lịch sử và Địa lí thơng qua việc tìm hiểu,
khám phá các sự kiện trong thời gian và khơng gian. Tính
chất tích hợp của mơn học này còn được thể hiện ở một
số chủ đề chung như Khám phá các dịng sơng lớn trên

thế giới, Văn minh châu thổ sông Hồng, Bảo vệ chủ
quyền biển đảo Việt Nam, Đơ thị,...
Việc tích hợp trong chương trình giáo dục mới còn
thể hiện ở yêu cầu tất cả các môn đều phải lồng ghép một
số nội dung giáo dục (chủ đề xun mơn) mang tính cấp
thiết, có ý nghĩa dân tộc và nhân loại như giáo dục bình
đẳng giới, giáo dục tài chính - kinh doanh, chủ quyền
biển đảo, mơi trường và phát triển bền vững…
2.3. Dạy học tích hợp môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu
phát huy phẩm chất và năng lực học sinh
2.3.1. Khái quát Chương trình Ngữ văn
Chương trình giáo dục mơn Ngữ văn (Dự thảo, tháng
01/2018) được xây dựng theo hướng mở, lấy các kĩ năng
giao tiếp đọc, viết, nói và nghe làm trục chính xuyên suốt
cả ba cấp học (TH, THCS, THPT) nhằm đáp ứng mục
tiêu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, đồng thời
đảm bảo tính chỉnh thể, nhất quán trong tất cả các cấp
học. Hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về
văn học và tiếng Việt được tích hợp vào hoạt động dạy
đọc, viết, nói và nghe.
Chương trình khơng quy định chi tiết về nội dung
dạy học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những
yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp.
Quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học,
tiếng Việt và 06 văn bản quan trọng (ngữ liệu) của văn
học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với
học sinh cả nước (6 văn bản đó là: Nam quốc sơn hà
(tương truyền của Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ của
Trần Quốc Tuấn, Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi,
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Văn tế nghĩa sĩ Cần

Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Tun ngơn độc lập
của Hồ Chí Minh).

32

Mơn Ngữ văn hướng tới cho học sinh cơ hội khám
phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con
người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm
hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn;
bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng Việt và văn
học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần
giữ gìn, phát triển các giá trị văn hố.
Ngồi các năng lực chung, chương trình mơn Ngữ
văn tập trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp
và năng lực thẩm mĩ; cung cấp hệ thống kiến thức phổ
thông nền tảng về văn học và tiếng Việt góp phần phát
triển vốn học vấn căn bản của một người có văn hóa; hình
thành và phát triển con người nhân văn, biết tiếp nhận,
cảm thụ, thưởng thức, đánh giá các sản phẩm ngôn từ và
các giá trị cao đẹp trong cuộc sống. Điểm khác biệt nhất
so với các chương trình trước đây là chương trình Ngữ
văn lần này được xây dựng xuất phát từ các phẩm chất
và năng lực cần có của người học để lựa chọn nội dung
dạy học.
Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập trung vào bốn kĩ
năng chính: đọc, viết, nói và nghe. Đọc, gồm yêu cầu đọc
đúng và đọc hiểu. Yêu cầu về đọc hiểu bao gồm các yêu
cầu hiểu văn bản (trong đó có cả đọc thẩm mĩ, cảm thụ,
thưởng thức và đánh giá) và hiểu chính mình (người
đọc). Viết, khơng chỉ yêu cầu học sinh biết viết chữ, viết

câu, viết đoạn mà còn tạo ra được các kiểu loại văn bản,
trước hết là các kiểu loại văn bản thông dụng, sau đó là
một số kiểu loại văn bản phức tạp hơn. Nói và nghe, căn
cứ vào nội dung của đọc và viết để luyện tập cho học sinh
trình bày, nói và nghe tự tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến
nói hay.
Từ các yêu cầu cần đạt nêu trên, chương trình nêu lên
các nội dung dạy học, bao gồm kiến thức về tiếng Việt,
văn học và ngữ liệu. Kiến thức tiếng Việt với các nội
dung chủ yếu là: ngữ âm và chữ viết; từ vựng; ngữ pháp;
hoạt động giao tiếp; sự phát triển của ngôn ngữ và các
biến thể của ngôn ngữ. Kiến thức văn học gồm: những
vấn đề chung về văn học; các thể loại văn học; các yếu
tố của tác phẩm văn học; một số hiểu biết sơ giản về lịch
sử văn học Việt Nam. Ngữ liệu cho mỗi lớp chỉ nêu lên
định hướng về kiểu loại văn bản, các ngữ liệu cụ thể được
giới thiệu thành một Phụ lục gồm văn bản bắt buộc và
văn bản gợi ý.
2.3.2. Dạy học tích hợp mơn Ngữ văn
2.3.2.1. Định hướng khái qt
Theo Chương trình Ngữ văn, dạy học tích hợp đòi hỏi
giáo viên Ngữ văn trước hết phải thấy được mối liên hệ
nội mơn (đọc, viết, nói và nghe), theo đó nội dung dạy


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34

đọc có liên quan và lặp lại ở các nội dung dạy viết, nói và

nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà học sinh tích lũy
được trong quá trình tiếp nhận văn bản thuộc các kiểu
loại khác nhau sẽ giúp cho kĩ năng viết, nghe và nói tốt
hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt học sinh học
được trong quá trình đọc sẽ được dùng để thực hành viết.
Tương tự, những điều học được khi đọc và viết sẽ được
học sinh dùng khi nói. Cùng với yêu cầu tích hợp nội
mơn, trong khi dạy đọc, viết, nói và nghe, giáo viên còn
phải biết tận dụng các cơ hội để lồng ghép một cách
nhuần nhuyễn, hợp lí vào giờ học các yêu cầu giáo dục
liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục cơng dân, Nghệ thuật)
và những nội dung giáo dục ưu tiên xun suốt tồn
chương trình giáo dục phổ thông (chủ quyền quốc gia,
hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, phát triển bền
vững, bảo vệ mơi trường, quyền con người, quyền trẻ em,
bình đẳng giới, giáo dục tài chính,... ).
Tất nhiên, dạy học tích hợp còn gắn liền với các hoạt
động nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đa dạng
hóa các phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện
dạy học mang tính đặc thù của mơn học, sao cho khi kết
thúc mỗi cấp lớp, học sinh đạt được các yêu cầu cần đạt
mà chương trình đã đề ra.
Trên cơ sở đó có thể thấy, phạm vi tích hợp trong giờ
dạy Ngữ văn rất phong phú: có thể tích hợp nội mơn
(giữa ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn hay giữa
những bài học có cùng chủ đề); có thể tích hợp liên mơn
Văn - Lịch sử (mở rộng theo hướng vận dụng những kiến
thức về hoàn cảnh lịch sử - xã hội, thời đại, về nhân vật
lịch sử,. . . để lí giải lịch sử phát sinh, khai thác giá trị về
nội dung và nghệ thuật, thành công và hạn chế của tác

phẩm); tích hợp Văn - Địa lí (theo hướng vận dụng kiến
thức hiểu biết về các địa danh, thổ nhưỡng, khí hậu để lí
giải rõ chi tiết về thiên nhiên, hình tượng nhân vật,…);
tích hợp Văn - Mĩ thuật (có thể cho học sinh vẽ tranh
minh họa về một số hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm: thiên nhiên, con người,…); tích hợp Văn - Nghệ
thuật (hát, ngâm thơ, diễn kịch, sân khấu hóa)… Dưới sự
hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông
(PowerPoint, videoclip, tranh ảnh và các phần mềm ứng
dụng khác), qua kênh hình trình chiếu của giáo viên, học
sinh sẽ tiếp cận được những hình ảnh trực quan sinh
động, đầy màu sắc và ấn tượng…
2.3.2.2. Định hướng cụ thể - một số gợi ý
Từ những nội dung đã trình bày trên đây, có thể
thấy rằng giáo viên đóng một vai trị hết sức quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy Ngữ văn
theo hướng tích hợp.

33

Chương trình và sách giáo khoa chỉ có tính định
hướng. Để dạy học tích hợp mơn Ngữ văn đạt hiệu quả
cao, giáo viên cần xác định chính xác mục tiêu, nội
dung tích hợp, phương pháp tích hợp cho từng
bài/chuyên đề học tập. Ngoài ra, cần phải đổi mới cách
kiểm tra, đánh giá.
- Mục tiêu: đó là mục tiêu cần đạt của bài học/chuyên
đề. Giáo viên cần trả lời câu hỏi: Vận dụng phương pháp
giáo dục tích hợp ở bài học/chuyên đề này nhằm đạt được
gì về phẩm chất và năng lực học sinh?

+ Về phẩm chất: như tình yêu thiên nhiên; yêu quê
hương; biết ơn những người lao động, người có cơng
với nước; biết trân trọng, giữ gìn, bảo vệ cái đẹp, các
giá trị văn hóa, lịch sử; biết quan tâm đến người thân,
tôn trọng bạn bè, thầy cơ; trung thực và trách nhiệm
trong học tập; có ý chí vượt khó; sẵn sàng thực hiện
trách nhiệm cơng dân…
+ Về năng lực: như năng lực tự chủ và tự học (biết tự
tìm kiếm, lựa chọn, đánh giá nguồn tài liệu phục vụ học
tập; biết lưu trữ, xử lí thơng tin; có khả năng nhận biết
cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá tính và khả năng của bản
thân; biết tự làm chủ bản thân, tự nhận thức và điều chỉnh
những hạn chế của mình, khơng ngừng học hỏi); năng
lực giao tiếp và hợp tác (biết lựa chọn nội dung, kiểu loại
văn bản, ngôn ngữ và các phương tiện giao tiếp phù hợp;
biết thảo luận, lập luận, đánh giá các vấn đề trong học tập
và đời sống…); năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
(như khả năng đánh giá nội dung văn bản; biết phân tích
các nguồn thơng tin; có kĩ năng viết bắt đầu từ việc hình
thành ý tưởng và triển khai ý tưởng theo cách sáng
tạo…); năng lực thẩm mĩ (chỉ ra, phân tích, đánh giá
được vẻ đẹp của các hình thức ngơn từ trong văn bản văn
học; nêu ra và phân tích được những giá trị thẩm mĩ thể
hiện trong tác phẩm văn học; hình thành và nâng cao
nhận thức về cái đẹp và xúc cảm thẩm mĩ cá nhân…);
năng lực ngơn ngữ (hình thành và phát triển thơng qua
các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe).
- Nội dung: giáo viên cần trả lời câu hỏi: Trong bài
học/chuyên đề này, nội dung nào cần được tích hợp? Cụ
thể: Có nội dung nào có liên quan/tương đồng với kiến

thức các bài đã học? Có nội dung nào cần sử dụng/liên
hệ kiến thức phân môn/môn học khác để khai thác/mở
rộng/vận dụng?
- Phương pháp: giáo viên cần trả lời câu hỏi: Sử dụng
phương pháp dạy học tích hợp như thế nào ở bài
học/chuyên đề này? Trong một bài học/chuyên đề, khơng
phải nội dung kiến thức nào giáo viên cũng tích hợp. Vì
vậy, trước khi lên lớp, giáo viên cần đầu tư suy nghĩ để


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 30-34

xác định chính xác nội dung, phạm vi kiến thức cần tích
hợp, đồng thời lựa chọn ngữ liệu/dữ liệu phù hợp.
+ Về tích hợp nội mơn: chẳng hạn khi dạy bài Cuộc
chia tay của những con búp bê (Ngữ văn 7, Tập 1), giáo
viên có thể tích hợp với kiến thức phân môn Tiếng Việt
qua bài Từ láy, kiến thức phân môn Tập làm văn qua việc
xác định ngôi kể trong câu chuyện và nêu tác dụng của
ngôi kể ấy. Dạy bài thơ Sóng - Xuân Quỳnh (Ngữ văn
12, Tập 1), giáo viên có thể tích hợp với kiến thức Tiếng
Việt về một số phép tu từ cú pháp, tu từ ngữ âm đã học
trước đó như phép lặp cú pháp, điệp âm, điệp vần, điệp
thanh; với kiến thức Tập làm văn nghị luận về một bài
thơ, đoạn thơ… Cách tích hợp này cịn được gọi là tích
hợp ngang giữa các phân môn (Văn - Tiếng Việt - Làm
văn) trong cùng mơn học Ngữ văn có tác dụng làm sáng
tỏ lẫn nhau, khác với tích hợp dọc: Văn bản - Văn bản,

Tiếng Việt - Tiếng Việt, Tập làm văn - Tập làm văn có
tác dụng liên kết, tổng hợp, mở rộng kiến thức. Chẳng
hạn, khi dạy bài Câu đặc biệt (Ngữ văn 7, tập 2), giáo
viên tích hợp với bài Rút gọn câu (Ngữ văn 7, tập 2)
trước đó. Ngồi ra, cịn có tích hợp dọc khác khối lớp.
Thí dụ, khi phân tích hình tượng nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
trong Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu (Ngữ
văn 12, tập hai), giáo viên có thể tích hợp với đoạn trích
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ Như Tơ - Nguyễn Huy
Tưởng) (Ngữ văn 11, tập 1) với hình tượng Vũ Như Tơ
đã học trước đó để nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật
và đời sống, giữa lí tưởng nghệ thuật với sự thật cuộc đời
và lợi ích của nhân dân…
+ Về tích hợp đa mơn/liên mơn/xun mơn: khi bài
dạy có cùng chủ đề/đề tài/dự án; nhiều mơn học liên
quan nhau kết hợp lại thành một môn mới với những
chủ đề nhất định được học qua nhiều cấp lớp, như việc
xây dựng hai môn học mới: môn Khoa học tự nhiên
(trên cơ sở các mơn Vật lí, Hóa học, Sinh học hiện
hành) và môn Khoa học xã hội (trên cơ sở các mơn
Lịch sử, Địa lí hiện hành và một số vấn đề xã hội) ở
THCS; hoặc khi học tập theo dự án và vấn đề thương
lượng chương trình học được đặt ra thì có thể xem đó
là tích hợp xun mơn, đỉnh cao của dạy học tích hợp
khi ranh giới giữa các mơn học bị xóa nhịa.
- Kiểm tra, đánh giá: Trong lần đổi mới chương trình,
sách giáo khoa lần này, giáo viên cần đổi mới cách kiểm
tra, đánh giá với nhiều phương thức khác nhau. Cần
chuyển từ phương pháp dạy học “truyền thụ, áp đặt một
chiều” sang phương pháp dạy học phát triển phẩm chất

và năng lực (ở môn Ngữ văn là năng lực giao tiếp, năng
lực thẩm mĩ), theo đó chuyển cách đánh giá ghi nhớ máy

34

móc, rập khn sang cách đánh giá ưu tiên sáng tạo, tơn
trọng ý tưởng mới và cách trình bày độc đáo…
3. Kết luận
Đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ
thông là những vấn đề quan trọng của nền giáo dục mọi
quốc gia. Đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo
khoa theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực
lần này đòi hỏi người học phải thực hiện được, làm được,
nói được, tạo ra được các sản phẩm chứ khơng dừng lại
chỉ biết lí thuyết. Với Chương trình giáo dục phổ thơng
mơn Ngữ văn, dạy học theo các định hướng tích hợp
được nêu ra địi hỏi giáo viên và học sinh cần phải vận
dụng các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực/môn học
khác nhau trong việc thực hiện, giải quyết một vấn đề
hoặc làm ra một sản phẩm. Nội dung dạy học cần xác
định và trả lời câu hỏi: Để giải quyết vấn đề đã nêu trong
yêu cầu cần đạt, người học phải có những kiến thức, kĩ
năng nào? Những kiến thức, kĩ năng ấy thuộc những lĩnh
vực/môn học nào? Môn nào đảm nhiệm chính, mơn nào
góp phần và hỗ trợ ?... Làm được như thế, việc dạy học
Ngữ văn theo hướng tích hợp sẽ góp phần khơng nhỏ vào
lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục\.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Kim Hồng - Huỳnh Cơng Minh Hùng
(2013). Dạy học tích hợp trong trường phổ thơng

Australia. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh, số 42, tr 7-17.
[2] Nguyễn Minh Thuyết (2017). Định hướng đổi mới
chương trình mơn Ngữ văn. Tạp chí Khoa học Giáo
dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 143, tr
23-27.
[3] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ
thơng - Chương trình tổng thể.
[4] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thơng mơn Ngữ văn.
[5] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
[6] Chính phủ (2015). Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày
27/3/2015 về Phê duyệt Đề án đổi mới chương trình,
sách giáo khoa phổ thơng.
[7] Quốc hội (2014). Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày
28/11/2014 về Đổi mới chương trình, sách giáo
khoa giáo dục phổ thơng.



×