Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong dạy học lịc sử chương việt nam từ năm 1954 đến năm 1975 (sgk lớp 12 chương trình chuẩn) ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.64 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

Thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong
dạy học lịch sử chương“Việt Nam từnăm 1954 đến
năm 1975”(SGK lớp 12 chương trình chuẩn) ở
trường THPT

Sinh viên thực hiện: Lê Thị Kim Nhạn
Chuyên ngành: Sư phạm Lịch sử
Lớp: 11SLS
Người hướng dẫn: Th.S Nguyễn Mạnh Hồng

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài................................................................... 3
4. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 3
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 3
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 4
7. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THIẾT KẾ ĐỒ


DÙNG TRỰC QUAN QUI ƯỚC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ....................... 5
1.1 Cơ sở lí luận ...................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm đồ dùng trực quan qui ước ........................................................... 5
1.1.2. Phân loại đồ dùng trực quan qui ước ............................................................ 6
1.1.3. Ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong dạy học lịch sử . 13
1.1.3.1. Về mặt giáo dưỡng.................................................................................... 13
1.1.3.2. Về mặt giáo dục ........................................................................................ 14
1.1.3.3. Về mặt phát triển ...................................................................................... 15
1.2. Cơ sở thực tiễn tình hình thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong
dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay ............................................................... 17
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG MỘT SỐ ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN QUY ƯỚC
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ CHƯƠNG “VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN
NĂM 1975” (SGK LỚP 12 CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Ở TRƯỜNG THPT..... 21
2.1. Nội dung cơ bản trong chương “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975”(SGK
lớp 12 chương trình chuẩn) ở trường THPT ........................................................... 21
2.1.1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính
quyền Sài Gịn ở miền Nam 1954- 1965 ................................................................ 21

1


2.1.2. Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân
miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất 1965- 1973 ................................................. 22

2


2.1.3. Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hồn tồn
miền nam 1973- 1975 ............................................................................................ 22
2.2. Thiết kế một số đồ dùng trực quan qui ước trong dạy học lịch sử chương “Việt Nam

từ năm 1954 đến năm 1975”(SGK lớp 12 chương trình chuẩn) ở trường THPT........... 23
2.2.1. Bài 21: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ
và chính quyền Sài Gịn ở miền Nam 1954- 1965 .................................................. 23
2.2.2. Bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xân lược.
Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất 1965- 1973.................................. 28
2.2.3. Bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hồn
tồn miền nam 1973- 1975 .................................................................................... 34
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÁC LOẠI ĐỒ DÙNG TRỰC
QUAN QUY ƯỚC TRONG CHƯƠNG “VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN
NĂM 1975” (SGK LỊCH SỬ LỚP 12 CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Ở
TRƯỜNG THPT ................................................................................................. 38
3.1. Những nguyên tắc khi thiết kế đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử
chương “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975” (SGK lớp 12 chương trình chuẩn)
ở trường THPT ...................................................................................................... 38
3.1.1. Đồ dùng trực quan quy ước phải phù hợp với chương trình và nội dung mơn
học ........................................................................................................................ 38
3.1.2. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh ................................ 39
3.1.3. Đảm bảo tính Đảng, tính khoa học và tính sư phạm để thực hiện mục tiêu
giáo dục ................................................................................................................. 41
3.1.4. Đảm bảo tính trực quan................................................................................ 43
3.1.5. Đảm bảo tính thẩm mỹ ................................................................................. 43
3.2. Hình thức và biên pháp sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong dạy học lịch
sử chương “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975” (SGK lớp 12 chương trình
chuẩn) ở trường THPT .......................................................................................... 44
3.2.1. Sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong bài nội khóa ................................ 44
3.2.1.1. Loại bài cung cấp kiến thức mới ............................................................... 44
3.2.1.2. Bài ôn tập, sơ kết, tổng kết ........................................................................ 47
3.2.1.3. Bài Kiểm tra đánh giá ............................................................................... 49



3.2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong các hoạt động ngoại khóa ............ 50
3.3 . Thực nghiệm sư phạm ................................................................................... 52
3.3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm ............................................................ 52
3.3.2. Phương pháp tiến hành thực nghiệm ............................................................ 52
3.3.3. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................... 52
3.3.4. Nội dung thực nghiệm ................................................................................ 52
3.3.5. Kết quả thực nghiệm ................................................................................... 53
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 56
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục luôn là quốc sách hàng đầu trong chiến lược của tất cả các quốc gia
trên thế giới và Việt Nam cũng khơng phải là ngoại lệ, chính vì vậy mà Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã xác định
mục tiêu giáo dục và đào tạo là “nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và tay nghề, có năng lực
thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội”.
Trong đời sống xã hội, lịch sử có tác dụng khơng chỉ bồi dưỡng về trí tuệ mà
cịn cả về tình cảm tư tưởng. So với các môn học khác môn lịch sử có ưu thế hơn
trong giáo dục tình cảm, tư tưởng đạo đức thẩm mỹ,.... Những con người và những
việc của quá khứ có sức thuyết phục và sự rung cảm mạnh mẽ đối với các thế hệ trẻ.
Giáo viên có thể lấy những tấm gương trong quá khứ để giáo dục học sinh, các sự
kiện về sự tàn bạo của bọn xâm lược nhằm làm cho học sinh có thái độ căm thù
giặc.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là việc giảng dạy và học tập lịch sử có q nhiều

điều đáng nói. Do tâm lí mơn chính, môn phụ của xã hội, phụ huynh và học sinh, do
phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa có hiệu quả và còn khá nhiều yếu tố nữa
tác động, mà việc học tập lịch sử ngày càng đi xuống, đặc biệt là trong giảng dạy
lịch sử Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này ngồi việc tác động vào tâm lí của
học sinh, phụ huynh cũng như tồn xã hội, thì giáo viên cũng cần có những phương
pháp dạy học lịch sử hiệu quả, thu hút sự chú ý của học sinh vào môn lịch sử, phát
huy đươc năng lực tư duy của từng học sinh.
Để truyền thụ đến học sinh lượng kiến thức lịch sử một cách hiệu quả, gây
hứng thú, nhưng vẫn không gây quá tải, nặng nề nhàm chán thì cần phải có một
phương pháp dạy lịch sử cụ thể, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục với trọng tâm là đổi từ việc truyền thụ kiến thức sang
phát triển năng lực của học sinh, thì việc day sử cũng khơng thể đứng ngồi cuộc

1


mà địi hỏi phải cần có sự thay đổi trong phương pháp truyền thu kiến thức cho học
sinh, nhất là học sinh ở lớp cuối cấp phổ thông.
Với nhiều ưu điểm vượt trội, việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử là một phương pháp dạy học không chỉ giúp học sinh nắm kiến thức nhanh,
khắc sâu mà còn phát triển cho các em tư duy logic.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi đã chọn đề tài “Thiết kế và sử dụng đồ dùng
trực quan qui ước trong dạy học lịch sử chương“Việt Nam từnăm 1954 đến năm
1975”(SGK lớp 12 chương trình chuẩn) ở trường THPT”làm đề tài khóa luận.
2. Lịch sử vấn đề
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử, nhất là trong dạy học
lớp 12, trên thực tế cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
khóa luận này, có một số cơng trình như :
Trước hết là những cơng trình lí luận chung về phương pháp dạy học lịch sử
trong đó có đề cập đến việc lập biểu bảng trong dạy học lịch sử. Tập trung điển hình

nhất là cuốn “phương pháp dạy học lịch sử” do giáo sư Phan Ngọc Liên – Trần Văn
Tri (chủ biên), xuất bản năm 1992, trong cuốn này tác giả có đề cập đến vấn đề làm
niêu biểu, các loại bảng so sánh hay tổng kết trong giảng dạy lịch sử cùng với nhiều
phương pháp dạy học lịch sử khác, tuy nhiên giáo trình chủ yếu dừng lại ở mức độ
trình bày lí luận, chưa đi sâu vào phương pháp vận dụng cụ thể.
Cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” của tiến sĩ N. G. Đai – Ri, xuất
bản năm 1978 đề cập đến tầm quan trong của việc tiếp nhân kiến thức của học sinh,
có đề xuất một số phương pháp trong dạy học lịch sử, nhưng phương pháp sử dụng
đồ dùng trực quan của chương trình lịch sử lớp 12 thì đề cập cịn rất hạn chế.
Trong cuốn Phương Pháp dạy học lịch sử, Tập 1 và 2, do Phan Ngọc Liên chủ
biên xuất bản năm 2002 của NXB ĐHSP Hà Nội, đã đề cập khá cụ thể một số
phương pháp dạy học lịch sử như sử dụng đồ dùng trực quan lịch sử, sử dụng bản
đồ, biểu đồ, hạy phương pháp dạy học lịch sử theo sơ đồ Đairi, Riêng phương pháp
sử dụng đồ dùng trực quan của chương trình lịch sử lớp 12, tác giả đã đề cập đến
tuy nhiên chưa có chuyên mục riêng chuyên sâu để đi vào cụ thể, mà chỉ khái quát lí
luận chung với các phương pháp dạy học lịch sử khác, được trình bày lồng ghép
chưa cụ thể.

2


Như vậy, cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách công phu, đầy đủ các thao tác cũng như các biên pháp sư phạm cho thiết kế và
xây dựng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lịch sử chương “ Việt Nam
từnăm 1954 đến năm 1975”, Đây chính là vấn đề cần giải quyết của đề tài.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bao gồm các kiến thức trong sách giáo khoa
và sách giáo viên lịch sử lớp 12 trong phần lịch sử Việt Nam hiện đại từ năm 19541975 (chương trình chuẩn).
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung đi sâu nhằm Thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước
trong dạy học lịch sử chương “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975”(SGK lớp 12
chương trình chuẩn) ở trường THPT và tiến hành thực nghiệm tại các trường THPT.
4. Mục đích nghiên cứu
Trước hết mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu thực trạng của việc dạy
sử 12 hiện nay có những khó khăn thuận lợi ra sao, từ đó thiết kế phương pháp trực
quan một cách phù hợp nhằm khắc phục những khó khăn đó.
Xác định được những biện pháp, nội dung và hình thức sư phạm phù hợp, giúp
học sinh lớp 12 tiếp nhận kiến thức lịch sử Việt Nam hiện đại một cách hiệu quả,
dễ nhớ, hạn chế được sự rườm rà, phức tạp do có quá nhiều sự kiện lịch sử.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện bài khóa luận này,chúng tơi sử dụng các tài liệu từ các sách
chuyên khảo, một số cơng trình nghiên cứu, các tài liệu trên các trang wed liên quan
đến phương pháp lịch sử, cũng như nhiều tài liệu tham khảo khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là những
ngun tắc pháp lý của lí luận dạy học hiện đại.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể :
Nghiên cứu tài liệu: Tơi tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu về lý luận dạy học,

3


nhất là các cơng trình về chương trình dạy sử lớp 12 (Việt Nam từ năm 1954 đến
năm 1975). Nghiên cứu các tài liệu lịch sử viết về các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
các nhân vật trong chương trình lịch sử lớp 12, các tác phẩm tạp chí, báo chí .... có
liên quan để tiến hành đề tài.
Điều tra cơ bản: Tiến hành điều tra việc giảng dạy của giáo viên và học sinh

trong việc day – học chương trình lịch sử lớp 12 (chương “ Việt Nam từ năm 1954
đến năm 1975” ở trường THPT), kiểm tra xem mức độ tiếp thu kiến thức của học
sinh như thế nào thông qua các câu hỏi trắc nghiệm.
Thực nghiệm sư phạm: tiến hành giảng dạy thực nghiệm tại 3 trường THPT
bằng phương pháp xây dựng biểu mẫu trong chương trình lịch sử lớp 12 (Việt Nam
từ năm 1954 đến năm 1975).
6. Đóng góp của đề tài
Mong muốn của chúng tơi là sau khi hồn thành đề tài sẽ đóng góp nhỏ vào
việc khắc phục những hạn chế trong sử dụng đồ dùng trực quan ở trường phổ thông
hiện nay, giúp việc học sử của học sinh được dễ dàng và hiệu quả hơn, giúp học
sinh khắc sâu kiến thức một cách khoa học.
Đề tài sẽ đóng góp một lượng tư liệu bổ ích cho việc nghiên cứu và học tập
lịch sử trong chuyên ngành lịch sử cũng như ở các trường trung học phổ thơng.
Ngồi ra trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục như hiện nay,
với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, hướng đến sự phát triển kĩ năng, năng
lực cho học sinh là chính, kết quả nghiên cứu cũng góp một phần nhỏ bé vào việc
đổi mới phương pháp day – học lịch sử.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, thì đề tài
gồm 3 chương trong phần nội dung :
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về việc thiết kế đồ dùng trực quan quy
ước trong dạy học lịch sử
Chương 2: Xây dựng một số đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử
chương “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975”(SGK lớp 12 chương trình chuẩn) ở
trường THPT
Chương 3: Các biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong dạy học
lịch sử chương “Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975”(SGK lớp 12 chương trình
chuẩn) ở trường THPT

4



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THIẾT KẾ ĐỒ
DÙNG TRỰC QUAN QUI ƯỚC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ

1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm đồ dùng trực quan qui ước
Đồ dùng trưc quan là những đồ vật, những công cụ do con người sáng tạo ra,
giúp con người có những hình ảnh cụ thể về một sự vật hiện tượng nào đó.
Đồ dùng trực quantrong dạy học lịch sử được hiểu là những công cụ, phương
tiện như bản đồ, tranh ảnh, đồ thị, đồ họa, đồ biểu do nhà nước cung cấp hoặc do
giáo viên, học sinh tự thiết kế để phục vụ hoạt động dạy học.
Đồ dùng trực quan quy ước là những bản đồ, ký hiệu hình học đơn giản được
sử dụng trong dạy học lịch sử, loại đồ dùng này là đồ dùng mà giữa người thiết kế
đồ dùng, người sử dụng và người học có một qui ước ngầm nào đó (về màu sắc, kí
hiệu hình học và tỉ lệ xích).
Đồ dùng trực quan quy ước ln thể hiện trong không gian, thời gian, địa
điểm, cùng một yếu tố địa lí nhất định nên cịn góp phần phát triển kĩ năng quan sát,
trí tưởng tượng, tư duy và ngơn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ là cơ sở để hình
thành khái niệm, phát triển năng lực tư duy, khả năng thực hành cho học sinh.
Đồ dùng trực quan quy ước là công cụ nhằm đảm bảo tính trực quan trong dạy
học, đảm bảo nguyên tắc trực quan trong nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng”. Mặc khác đồ dùng trực quan còn đảm bảo nguyên tắc về sự thống
nhất giữa cái cụ thể và cái trừu tượng. Để đảm bảo tính trực quan trong dạy học lịch
sử thì yêu cầu giáo viên phải sử dùng đồ dùng trực quan xuyên suốt trong tất cả các
khâu, các yếu tố, các hình thức của q trình dạy học.
Nếu như trong các bộ mơn khoa học khác, nhất là khoa học tự nhiên để đảm
bảo tính trực quan trong dạy học, giáo viên có thể cho học sinh trực tiếp quan sát
các sự vật hay hiện tượng xảy ra trong phịng thí nghiệm, thì bộ môn lịch sử lại

khác. Lịch sử bao gồm những sự vật hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ của xã hội
lồi người, con người khơng thể đem con người ra thử nghiệm, lịch sử không bao
giờ lặp lại nguyên vẹn để con người quan sát trực tiếp. Vì vậy đồ dùng trực quan

5


quy ước để giảng dạy và học tập lịch sử không giống với đồ dùng trực quan quy
ước để giảng dạy các bộ mơn khác. Nó có những đặc thù riêng, thiết kế tái tạo dựa
trên cơ sở nội dung lịch sử, mang những thông tin về quá khứ nhằm giúp học sinh
hiểu và đánh giá đúng quá khứ, đặt trong bối cảnh lịch sử của nó. Đồ dùng trực
quan của mơn khoa học tự nhiên mang tính cụ thể, cịn đồ dùng mơn lịch sử mang
tính khái qt trừu tượng cao.
Do đặc điểm của việc học tập lịch sử, không trực tiếp quan sát sự kiện, nên
phương pháp trực quan có ý nghĩa rất quan trọng.
1.1.2. Phân loại đồ dùng trực quan qui ước
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử hiện nay không chỉ giới
hạn ở việc sử dụng bản đồ, tranh ảnh, mô hình,...mà cịn có các loại phương tiện kĩ
thuật hiện đại, theo Phan Ngọc Liên trong Một số vấn đề lí luận và thực tiễn phương
pháp dạy học lịch sử thì “...bởi vì do việc thơng tin ngày càng tăng, trình độ khoa
học phong phú nên cần cải tiến phương pháp dạy học truyền thống với các phương
tiện kĩ thuật hiện đại hơn....việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật không hạ thấp vai
trò của thầy giáo mà vẫn tăng hiệu quả bài học ở các mặt: thu nhận thông tin, tư duy
(nhận thức), ghi nhớ và vận dụng kiến thức”.
Có nhiều cách phân loại dồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Một số nhà
nghiên cứu phương pháp dạy học lịch sử chia đồ dùng trực quan thành 3 nhóm: aHiện vật (các di vật của một nền văn hóa cịn lưu lại), b- Đồ dùng tạo hình (tranh
ảnh, phim nhựa, phim đèn chiếu, video, đồ phục chế....), c- đồ dùng quy ước (bản
đồ, sơ đồ, đồ thị, niên biểu,....). Có người lại chia thành 6 loại: a- hiện vật quá khứ,
b- Đồ dùng tạo hình và minh họa có tính chất tư liệu (ảnh, phim tư liệu), c- Đồ dùng
tạo hình nghệ thuật (tranh lịch sử, phim truyện, chân dung nghệ thuật...), d- Biếm

họa, e- bản đồ, g- Sơ đồ, biểu đồ, đồ thị...
Dù có nhiều cách phân loại khác nhau về đồ dùng trực quan, song về cơ bản
chúng ta có thể chia chúng thành ba nhóm lớn thường được sử dụng trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông, trước hết là đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những
di tích lịch sử và cách mạng, những di vật khảo cổ và di vật thuộc các thời đại lịch
sử. Nhóm thứ hai là đồ dùng trực quan tạo hình bao gồm các loại phục chế, mơ
hình, sa bàn và các tranh ảnh lịch sử. Và nhóm thứ ba là đồ dùng trực quan quy ước.

6


Đồ dùng trực quan quy ước gồm các loại bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên
biểu...Loại đồ dùng trực quan này tạo cho học sinh những hình ảnh tượng trưng, khi
phản ánh những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh
hướng phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị- xã hội của đời sống. nó khơng
chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện lịch sử mà cịn là cơ sở để hình thành khái
niệm cho học sinh.
Thứ nhất là bản đồ lịch sử, sử dụng bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của
sự kiện trong thời gian và không gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử cịn giúp
học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối quan hệ nhân quả, về
tính qui luật và trình tự phát triển của q trình lịch sử, giúp các em củng cố, ghi
nhớ những kiến thức đã học.
Về hình thức, bản đồ lịch sử khơng cần có nhiều chi tiết về điều kiện thiên
nhiên (khống sản, sơng núi…) mà cần có những kí hiệu về biên giới các quốc gia,
sự phân bố dân cư, thành phố, các vùng kinh tế, địa điểm xảy ra những biến cố quan
trọng (các cuộc khởi nghĩa, cách mạng, chiên dịch…).Vì vậy, thường dùng là “lược
đồ” để chỉ các loại bản đồ. Các minh họa trên bản đồ phải đẹp, chính xác, rõ ràng.
Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia làm hai loại chính: bản đồ tổng hợp và
bản đồ chuyên đề. Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất
của một nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kì nhất định, trong những

điều kiện tự nhiên nhất định (đặc biệt là biên giới các quốc gia trong thời điểm diễn
ra sự kiện). Ví dụ, các bản đồ Sự phân chia thuộc địa của các nước đế quốc cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919 - 1918), Việt nam giữa
hai cuộc chiến tranh thế giới (1919 - 1939)…
Bản đồ chuyên đề(“chuyên đề”): nhằm diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một
mặt của quá trình lịch sử, như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một
nước trong một giai đoạn lịch sử, như bản đồ Chiến dịch Biên giới thu đông năm
1950; Nội chiến ở Pháp 1871…
Bản đồgiáo khoa lịch sửđược phân loại bản theo“loại hình bản đồ. Sửdụng tiêu
chí này có tác dụng quan trọng với quá trình xây dựng và sửdụng bản đồ. Theo loại
hình, bản đồgiáo khoa lịch sử được phân thành các loại sau:

7


+ Bản đồtrong sách giáo khoa lịch sửlà một nguồn cung cấp kiến thức quan
trọng nhằm cụthể hóa các sựkiện lịch sử, và là một nguồn tư liệu nghiên cứu đểthầy
trò xây dựng bản đồ treo tường phục vụ việc dạy trên lớp.
+ Bản đồ treo tường có vị trí, vai trị, ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì tạo cho
học sinh có được biểu tượng lịch sử rõ nét ngay trên lớp, đây được xem là một loại
chủ lực phổ biến nhất trong bản đồ giáo khoa nhà trường. Hiện nay, bản đồ treo
tường được xây dựng từ hai nguồn: do các cơ quan chức năng của Nhà nước xây
dựng, in và phát hành hoặc do thầy trò tự xây dựng. Các bản đồtreo tường có
thểchia làm hai loại: Một là, bản đồgiáo khoa treo tường với nội dung đầy đủ theo
yêu cầu của bài giảng, của cấp học để dùng tại lớp. Hai là, bản đồgiáo khoa treo
tường được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của phương pháp truyền thụ, trên đó
chỉ có một sốyếu tốcơ sở, còn những nội dung khác được đưa thêm vào dần dần
theo bài giảng.
+ Át-lát giáo khoa lịch sửlà một tập hợp có hệthống gồm nhiều bản đồđược
đóng thành tập theo một kết cấu, bốcục nội dung chặt chẽ, lôgic.Đây là một trong

những tư liệu tốt đểthầy trị nghiên cứu, tìm hiểu bổsung cho bài giảng trên lớp,
đồng thời cũng rất bổích, thuận lợi cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu ở nhà.
+ Bản đồ câm là loại bản đồmà trên đó khơng thể hiện đầy đủcác nội dung lịch
sửđược phản ánh trong sách giáo khoa, nó có tác dụng định hướng cho nội dung
lịch sửmà giáo viên sẽđưa dần vào trong quá trình giảng bài với hình thức vẽ bằng
phấn, mảnh giấy ghi sẵn kí hiệu, số hiệu và hình ảnh,…tạo điều kiện để các em hoạt
động nhận thức một cách tích cực và tự giác.
+ Bản đồ nổi là loại bản đồ thường được xây dựng để giảng dạy những nội
dung lịch sử có liên quan đến yếu tố địa hình (chiến dịch Véc-đoong, chiến dịch
Xtalingrát…) có giá trị trực quan cao giúp học sinh hiểu rõ mối quan hệ ảnh hưởng
của địa hình đối với sự kiện lịch sử.
Trong thực tiến dạy học lịch sử cần kết hợp cả hai loại bản đồ nêu trên khi
trình bày một sự kiện.Việc sử dụng bản đồ trong dạy học là điều cần thiết, không
thể thiếu được trong điều kiện nước ta hiện nay, đem lại nhiều kết quả về mặt giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển.Hiện nay, Công ti bản đồ, tranh ảnh giáo khoa, thuộc
Nhà xuất bản Giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn một hệ thống các

8


bản đồ lịch sử và átlát lịch sử trên cơ sở những nguyên tắc của bản đồ học và bảo
đảm sự thể hiện sự kiện lịch sử bằng ngôn ngữ bản đồ.Đây là loại tài liệu trực quan
cần khai thác, sử dụng.
Thứ hai là niên biểu lịch sử, đây là hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo
thứ tự thời gian, đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản, của một
nước hay nhiều nước trong một thời kì. Sử dụng niên biểu trong dạy học lịch sử
nhằm hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu mối
liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước trong một thời kì.
Về đại thể, có thể chia niên biểu ra mấy loại chính sau:
Niên biểu tổng hợplà bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời gian

dài. Loại niên biển này giúp học sinh khơng ghi nhớ những sự kiện chính mà còn
nắm được mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ của các sự kiện quan trọng. ví dụ,
niên biểu “Các sự kiện quan trọng trong thời kì thứ nhất của lịch sử thế giới cận đại
(1640- 1870)” được sử dụng trong bài ôn tập tổng kết. Niên biểu tổng hợp cịn trình
bày những mặt khác nhau của một sự kiện xảy ra ở một nước trong một thời gian
hay trong nhiều thời kì.
Ví dụ như, niên biểu Các sự kiện quan trọng trong thời kì thứ nhất của lịch sử
thế giới cận đại (1640 – 1870) được sử dụng trong bài ơn tập, tổng kết.
Niên biểu tổng hợp cịn trình bày những mặt khác nhau của một sự kiện xảy ra
ở một nước trong một thời gian hay nhiều thời kì, như niên biểu về Các thời kì phát
triển và xây dựng đất nước được dựng theo mẫu sau đây:
Nội dung chủ yếu
Thời kỳ

Chính

Kinh tế

trị

Văn hóa - Xã hội
Giáo dục

Niên biểu chuyên đề đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng nổi bật
nào đấy của một thời kì lịch sử nhất định, nhờ đó mà học sinh hiểu được bản chất sự
kiện một cách toàn diện đầy đủ. Ví dụ, niên biểu Các sự kiện chính của cách mạng
tư sản Anh thế kỉ XVII giúp học sinh thấy rõ hướng phát triển của cách mạng, vai trò
của quần chúng nhân dân và thành quả của cách mạng:
9



Niên biểu chun đề là đi sâu trình bày nơi dung một vấn đề quan trong nổi bật
nào đấy của một thời kì lịch sử nhất định nhờ đó mà học sinh hiểu được bản chất sự
kiện một cách toàn diện đầy đủ. Ví dụ, niên biểu “Các giai đoạn chính trong cách
mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVII”, giúp học sinh thấy rõ hướng đi lên của cách
mạng, vai trò của quần chúng nhân dân và sự ngả dần về phía cách mạng của giai
cấp tư sản.
Niên biểu chuyên đề chỉ ghi những sự kiện cơ bản, nêu được nôi dụng chủ yếu
của mỗi giai đoạn song lại vừa khôi phục đúng bức tranh lịch sử quá khứ, vừa thấy
rõ sự phát triển logic của cách mạng tư sản Pháp vơi tác động quan trọng của quần
chúng đối với cách mạng.
Thời gian
Tháng 8 – 1642

Sự kiện chính
Vua Sác – lơ I tuyên chiến với Quốc hội

Năm 1642 –

Nội chiến giữa Quốc hội (được sự ủng hộ của nhân dân) và

1648

nhà vua (được sự ủng hộ của quí tộc phong kiến và Giáo hội
Anh)

Năm 1649

Xử tử vua Sác – lơ ILật đổ chế độ quân chủ chuyên chế,
Thiết lập nền cộng hịa do Crơm – oen đứng đầu, cách mạng

đạt đến đỉnh cao

Năm 1653

Nền độc tài quân sự được thiết lập

Tháng 12 –

Chế độ quân chủ lập hiến được thiết lập

1688

Niên biểu chuyên đề chỉ ghi những sự kiện cơ bản, nêu được nội dung chủ yếu
của mỗi giai đoạn song lại vừa khôi phục đúng bức tranh lịch sử quá khứ, vừa thấy
rõ sự phát triển logic của sự kiện.
Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện xảy ra cùng một lúc
trong lịch sử, nhằm làm nổi bật bản chất đặc trưng của các sự kiện ấy, hoặc để rút ra
một kết luận khái qt có tính chất ngun lí. Ví như, niên biểu về Sự phát triển
kinh tế của các nước đế quốc Anh, Pháp, Đức, Mĩ, Nhật trong thời kì 1870 – 1914
nhằm so sánh tốc độ phát triển của các nước này, đồng thời rút ra kết luận có tính

10


chất quy luật về sự phát triển không đều của các nước đế quốc, về việc nảy sinh
mâu thuẫn giữa chúng.
Bảng so sánh là một dạng niên biểu so sánh, nhưng có thể dùng số liệu và cả
tài liệu – sự kiện chi tiết để làm rõ bản chất, đặc trưng của các sự kiện cùng loại hay
khác loại. Ví dụ, bảng so sánh sự khác nhau về nguyên tắc giữa cách mạng vô sản
và cách mạng dân chủ tư sản. Qua bảng so sánh này, với các mục: Động lực, Lãnh

đạo, Mục tiêu, Kết quả cách mạng, học sinh sẽ thấy những khác nhau cơ bản giữa
cách mạng vô sản và cách mạng tư sản, tính chất, triển vọng của mỗi loại cách
mạng.
Thứ 3 là dùng đồ thị trong dạy học lịch sử, để diễn tả quá trình phát triển, sự
vận động của một sự kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong
bài học. Đồ thị có thể biểu diễn bằng một mũi tên để minh họa sự vận động đi lên,
sự phát triển của một hiện tượng lịch sử, hoặc được biểu diễn trên các trục hoành và
trục tung.nhằm diễn tả q trình phát triển; khắc họa vào trí óc học sinh những số
liệu cần phải nhớ để hiểu sự phát triển, vận động của sự kiện ấy. Đồ thị phát triển
của một hiện tượng lịch sử, hoặc được biểu diễn trên các trục hoành (ghi thời gian)
và trục tung (ghi sự kiện).
Trong dạy học lịch sử, chúng ta có thể sử dụng hai loại đồ thị. Loại đơn giản
được biểu diễn bằng một mũi tên đi lên (đi xuống). Ví dụ như đồ thị biểu diễn sự
phát triển về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất:

22 vạn
5,5 vạn

Trước chiến tranh

1929

Khi cần so sánh sự vận động của các sự kiện để nêu lên bản chất của chúng, giáo
viên có thể sử dụng đồ thị phức tạp, trong đó trục tung ghi số liệu về các sự kiện,

11


trục hồnh ghi thời gian. Ví dụ: vẽ đồ thị sự tăng lên của số lượng học sinh phổ

thông trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) theo số liệu như sau:
Năm học

Số lượng học sinh phổ thông

1949 – 1950

413,4 nghìn

1950 – 1951

504,4 nghìn

1951 – 1952

518,4 nghìn

1952 – 1953

527,1 nghìn

Nghìn (học sinh)
600

400

200

0
1949 – 1950 1950 – 1951


1951 – 1952

1952 – 1953

Thời gian

Thứ tư là Sơ đồ, biểu đồ, Sơ đồ là loại đồ dùng trực quan nhằm cụ thể hóa nội
dung sự kiện bằng những mơ hình hình học đơn giản. Nó diễn tả một tổ chức, một
cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử giúp học
sinh dễ dàng hình dung ra mối quan hệ lịch sử và có tác dụng hình thành khái niện
cho học sinh.
Biểu đồ là sự biểu hiện tổng giá trị của hiện tượng trên một đơn vị lãnh thổ
được lấy theo ranh giới hành chính bằng cách dùng các biểu đồ với kích thước
tương ứng với tổng giái trị sản lượng của chúng bố trí trên phạm vi lãnh thổ.
Biểu đồ còn được thể hiện dưới dạng biểu đồ chiều dài, biểu đồ diện tích (hình
vng, hình trịn) hoặc biểu đồ thể tích (hình khối, hình cầu). Việc sử dụng biểu đồ

12


giúp học sinh dễ xác định được giá trị của các hiện tượng và mối quan hệ giữa
chúng. Do đó, biểu đồ rất có ưu thế trong việc giúp học sinh so sánh trị số giá trị
của các sự kiện và thấy được bản chất của các sự kiện đó
Thứ năm là hình vẽ bằng phấn trên bảng đen minh họa ngay những sự kiện
đang được trình bày miệng và không cần sử dụng một loại đồ dùng trực quan nào
khác. Sử dụng loại phương tiện trực quan này đòi hỏi khơng chỉ cần có trình độ
chun mơn sâu mà cả nghệ thuật dạy học của giáo viên trong việc xử lí “viên phấn
và bảng đen”.
Việc phân loại đồ dùng trục quan quy ước chỉ là tương đối, trong quá trình

dạy học giáo viên phải căn cứ vào đối tượng, điều kiện để sáng tạo và sử dụng
chúng cho hiệu quả.
Như vậy, đồ dùng trục quan quy ước có nhiều loại khác nhau, giáo viên phải
biết thiết kế và sử dụng các loại đồ dùng trục quan quy ước cho phù hợp với nội
dung bài học kết hợp với nhiều phương pháp khác trong giảng dạy sẽ giúp học sinh
khắc sâu và dễ dàng ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Dựa vào đồ dùng trực
quan quy ước học sinh có thể trình bày chính xác các sự kiện, hiểu được các mối
quan hệ, bản chất cả sự kiện lịch sử. Đồ dùng trực quan quy ước rất dễ tìm lại ít tốn
kém nên được thiết kế và sử dụng rộng rãi trong dạy học lịch sử.
Việc phân loại đồ dùng trực quan quy ước chỉ mang tinh chất tương đối, vì
thực tế cần có nhiều vấn đề cần phải xem xét.
1.1.3. Ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong dạy học lịch
sử
1.1.3.1. Về mặt giáo dưỡng
Thiết kế, sử dụng đồ dùng trực quan nói chung và đồ dùng trực quan qui ước
nói riêng có ý nghĩa to lớn, góp phần giáo dục tồn diện học sinh.
Đồ dùng trực quan qui ước có tác dụng tạo hình ảnh, tạo biểu tượng, cụ thể
hóa một số sự kiện, hiện tượng cụ thể để học sinh dễ hình dung sự kiện ấy. Đồng
thời sử dụng đồ dùng trực quan qui ước để khắc phục tình trạng “hiện đại hóa lịch
sử”. Việc tạo biểu tượng, tạo hình ảnh cho học sinh rất cần thiết trong quá trình hình
thành và phát triển tư duy, trong quá trình tìm kiếm phát hiện và chiếm lĩnh tri thức
cũng như dễ hình dung về sự kiện, hiện tượng lịch sử ấy.

13


Ví dụ, quan sát vị trí của Ba Lan, Tiệp Khắc trên “Lược đồ Đức- Italia gây
chiến và bành trướng (từ tháng 10/1935- 8/1939)” bài 17 “chiến tranh thế giới lần
hai (1939- 1945)” học sinh hình dung được vị trí chiến lược của hai nước này, hiểu
được bì sao Đức tìm mọi cách để chiếm Tiệp Khắc và tấn cơng Ba Lan đầu tiên,

châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu biết sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử
là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng, giúp
cho học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội. A.A. Xmiêcnop đã
từng nói: “Nắm vững kiến thức khoa học có nghĩa là trước hết phải nắm vững hệ
thống khái niệm”. Ví dụ “sử dụng biểu bảng so sánh cách mạng tư sản và vô sản”
trong bài “Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách
mạng (1917- 1921)”, học sinh so sánh về mục tiêu cách mạng, giai cấp lãnh đạo,
động lực cách mạng, xu hướng phát triển, từ đó học sinh được củng cố khái niệm
“cách mạng tư sản” được học trong chương trình lịch sử lớp 10, đồng thời học sinh
cịn nắm được nội hàm khái niệm “Cách mạng vơ sản”, có sự so sánh hai cuộc cách
mạng, từ đó ghi nhớ, nắm vững được khái niệm, bản chất khái niệm.
K.D Usin-ki đã khẳng định “hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí
nhớ chúng ta, là hình ảnh mà chúng ta thu nhận được bẳng trực quan và những hình
ảnh nào được khắc sâu trong trí nhớ chúng ta thì cũng được chúng ta nhớ kỹ, hiểu
sâu những tư tưởng của nó”.
Như vậy đồ dùng trực quan nếu được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham
gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ, tai nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho
học sinh dễ nhớ, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú,
phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú.
1.1.3.2. Về mặt giáo dục
Bộ môn lịch sử nói chung, đồ dùng trực quan, đồ dùng trực quan quy ước nói
riêng có ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục học sinh. Đồ dùng trực quan tác động
mạnh mẽ vào tư tưởng, tình cảm, thái độ của học sinh về nội dung lịch sử mà giáo
viên trình bày thơng qua bản đồ, đồ biểu, đồ thị vì khi sử dụng đồ dùng trực quan
thì yêu cầu cơ bản là phải đảm bảo tính tư tưởng.

14



Ví dụ, khi dạy về khởi nghĩa Ba Đình (1886- 1887) trong bài 21 “phong trào
yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX”
(lớp 11- chương trình chuẩn), giáo viên sử dụng lược đồ căn cứ Ba Đình, kết hợp sử
dụng lời nói, giúp học sinh tìm hiểu kết cấu, bố trị phịng bị của căn cứ, từ đó học
sinh cảm thấy khâm phục trí tuệ tài năng của cha ơng đi trước, đồng thời cũng nhận
thức được những hạn chế của nghĩa quân trong việc xây dựng căn cứ đó. Hay khi
dạy bài 31 “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII” (lớp 10- chương trình chuẩn)
giáo viên có thể sử dụng biểu đồ hình trịn để thể hiện tình cảnh người dân Pháp
trước cách mạng phải chia 50% hoa lợi nộp cho nhà nước, 10- 20% cho nhà thờ.
Một phần thì bị chim chóc sâu bệnh phá hoại, phần ít cịn lại thì người nơng dân
mới được hưởng, thành quả mà họ phải lao động vất vả cực nhọc còn lại khơng
đáng là bao, từ đó học sinh nhận thức được và căm ghét những gì xấu xa của chế độ
phong kiến, của giáo hội Kitơ, hiểu được vì sao nông dân Pháp là động lực cơ bản
của cách mạng, là những người kiên quyết cách mạng nhất.
Bên cạnh yêu cầu về tư tưởng, chính xác, khoa học thì đồ dùng trực quan quy
ước cịn phải đảm bảo tính thẩm mỹ, vì vậy nó có tác dụng giáo dục thẩm mỹ cho
học sinh, điều này thể hiện rõ nét ở bản đồ, niên biểu, biểu đồ, học sinh tiếp cận và
hình thành những tư tưởng, quan điểm về nghệ thuật, về cái đẹp một cách lành
mạnh, đúng đắn.
1.1.3.3. Về mặt phát triển
Đồ dùng trực quan quy cịn có tác dụng rất lớn trong việc phát triển toàn diện
học sinh. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với lời giảng của giáo viên
góp phần tích cực trong việc “phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy
và ngôn ngữ của học sinh”. Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước góp phần gây hứng
thú cho học sinh, phát triển trí nhớ cho học sinh thơng qua các bản đồ, sơ đồ, niên
biểu,.... Từ việc ghi nhớ các sự kiện lịch sử dẫn đến phát triển được tư duy.
Một là phát triển năng lực nhân thức cho học sinh, đồ dùng trực quan quy ước
cùng với bài giảng của giáo viên góp phần phát triển năng lực tri giác (từ năng lực
quan sát) của học sinh, từ đó học sinh hình dung (tạo biểu tượng lịch sử, đây là yếu
tố quan trọng nhất bởi nguồn tri thức học sinh có được là bằng con đường giao

tiếp). Giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan quy ước kết hợp với phương pháp sử

15


dụng nói: Miêu tả, tường thuật sự kiện lịch sử, tạo biểu tượng không gian, địa điểm
xảy ra sự kiện lịch sử.
Sử dụng đồ dùng trực quan quy ước góp phần phát triển trí nhớ cho học sinh,
đồ dùng trực quan quy ước có ưu thế đặc biệt trong việc này bởi đó là những hình
ảnh trực quan mà học sinh thu nhận được. Để ghi nhớ sự kiện lịch sử, học sinh có
thể trình bày trên bản đồ, lập bảng niên biểu thống kê, sổ sách, hay trả lời hững câu
hỏi trong phương pháp “5W” bằng bảng biểu (What, When, Where, Who, Why)
(đây là hình thức có hiệu quả rất cao). Từ việc học sinh ghi nhớ được sự kiện sẽ tạo
điều kiện để phát triển được tư duy (ở mức độ nhận thức cao hơn).
Hai là, đồ dùng trực quan góp phần hình thành nhân cách cho học sinh bởi đồ
dùng trực quan phản ánh những hình ảnh chân thực về quá khứ, sử dụng đồ dùng
trực quan nói chung và đồ dùng trực quan quy ước nói riêng sẽ tập trung được
sựchú ý, khả năng quan sát của học sinh về sự kiện, hiện tượng lịch sử mà học sinh
đang quan sát. Bởi nhìn vào bất cứ đồ dùng trực quan nào học sinh cũng thích huy
động các giác quan, năng lực tư duy để nhận xét, phán đốn, hình dung q khứ lịch
sử được phản ánh minh họa như thế nào. Vì vậy giáo viên sẽ gây được sự chú ý của
học sinh trong bài học, bao quát được học sinh, hạn chế tối đa học sinh làm việc
riêng.
Sử dụng đồ dùng trực quan sẽ gây hứng thú cho học tập của học sinh. Hứng
thú là nhu cầu có nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây động cơ làm cho
hoạt động con người có tính chất hấp dẫn. Xuất phát từ lý luận của giáo dục về vai
trò của hoạt động- nhân tố quyết định đến sự phát triển của nhân cách. Nh A N
Lêơnchép đã khẳng định “chính là các hành động của chủ thể”.
Để học sinh tự thiết kế, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước phát triển được ý
chí, năng lực tư học, học sinh tự phấn đấu, muốn thể hiện hết năng lực của mình,

làm thế nào để có sản phẩm, kết quả tốt nhất (nhất là trong thiết kế bản đồ).
Ba là, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước sẽ rèn luyện kỹ năng thực hành bộ
môn cho học sinh, và hạn chế một số quan điểm khi cho rằng dạy học lịch sử chỉ
mang tính lí thuyết, khơng có thực hành. Việc vận dụng, sử dụng bản đồ, lập niên
biểu, vẽ biểu đồ, đồ thị, đồ học phục vụ cho việc tiếp cận tốt hơn nguồn tri thức của
quá khứ xã hội loài người.

16


Ngồi ra,sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, trực quan quy ước nói riêng
góp phần rèn luyện kĩ năng tực hành cho học sinh, giảm bớt quan niệm học lịch sử
khơng có thực hành. Việc vận dụng thiết kế và sử dụng bản đồ, niên biểu,... rất có
ích cho học sinh phát triển khả năng thực hành, tiếp cận tốt các nguồn tri thức trong
quá khứ, giúp học sinh tiếp cận với phương pháp tìm kiếm và xử lí tài liệu, phương
pháp xây dựng bản đồ,...
Với tất cả ý nghĩa nêu trên, đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập cho học sinh.
1.2.Cơ sở thực tiễn tình hình thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan qui ước
trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay
Mơn lịch sử là một mơn học có ưu thế trong việc giáo dục truyền thống, tuy
nhiên hiện nay chất lượng dạy và học môn lịch sử đang là vấn đề đáng báo động. Là
một môn học trong trường THPT, mơn lịch sử có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
hệ thống kiến thức cơ bản, trên cơ sở đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ, phát
triển tồn diện của học sinh. Nhưng điều đáng buồn hiện nay là nhiều trường THPT
không coi trọng môn lịch sử, chỉ coi đólà “mơn phụ”. Điều này xảy ra khơng chỉ đối
với học sinh mà còn đối với cả giáo viên dạy sử. Chất lượng dạy học lịch sử thấp do
nhiều nguyên nhân, trong đó vấn đề phương pháp dạy học chưa đổi mới là nguyên
nhân chủ yếu. Cách dạy học hiện nay vẫn rất đơn điệu, thiếu ví dụ minh họa, ít sử
dụng đồ dùng trực quan, nhất là đồ dùng trực quan quy ước. Học sinh chỉ đọc sự

kiện chứ chưa hiểu sự kiện.
Hiện nay, chương trình sách giáo khoa đã được đổi mới để phù hợp với xu
hướng hội nhập, đã dành một dung lượng lớn cho đồ dùng trực quan nói chung và
đồ dùng trực quan quy ước nói riêng. Trong sách giáo khoa ở các sự kiện hiện
tượng lịch sử lớn hầu hết đều có trực quan qui ước ở dạng lược đồ diễn biến của các
sự kiện đó, điều này góp phần rất quan trọng cho việc tiếp cận kiến thức của học
sinh và khắc sâu nó. Khơng chỉ vậy khi có các bản đồ đó, sẽ tạo sự tập trung chú ý
của học sinh ở lớp, các em có thể tự theo dõi sự kiện khơng chỉ ở trường mà cịn ở
nhà, khi khơng có sự hướng dẫn của giáo viên.
Tuy nhiên, trong sách giáo khoa hiên nay, các lược đồ hầu như ở dạng màu
đen trắng và kích thướt cịn nhỏ nên chưa tạo nên ấn tượng mạnh đối với học sinh

17


khi các em tiếp cận với một sự kiện đã diễn ra trong quá khứ, lạm hạn chế đi ý
nghĩa giáo dưỡng, giáo dục của mơn lịch sử vốn có, khơng chỉ vậy các lược đồ số
lượng cịn ít, chưa đồng đều giữa các sự kiên. Đồ dùng trực quan qui ước trong sách
giáo khoa chủ yếu ở dạng lược đồ, còn ở dạng các loại niên biểu, biểu đồ,... thì hầu
như khơng có và các giáo viên ở phổ thơng cũng hạn chế thiết kế và sử dụng nó.
Chính thực tế đó,đã làm giảm đi sự cuốn hút trong các tiết dạy sử ở trường phổ
thông, làm cho môn sử trở nên hàn lâm, mang nặng yếu tố chính trị, thực tế qua các
phương tiện thông tin đại chúng cho thấy rằng số lượng các em thực sự yêu thích
mơn lịch sử hiện nay là rất ít và giảm dần theo thời gian.
Trong khi đó đa phần giáo viên dạy lịch sử chưa chú trọng đến việc khai thác
nguồn tài liệu quan trọng này. Đồ dùng trực quan quy ước có sẵn trong sách giáo
khoa chủ yếu là bản đồ, để khai thác có hiệu quả yêu cầu giáo viên cần có sự đầu tư,
in phóng to bản đồ. Nhưng để thực hiện được điều này cần giáo viên dạy lịch sử
lòng nhiệt huyết yêu nghề. Nhiều giáo viên khi mới ra trường đầy sự nhiệt huyết
chăm lo cho việc chuẩn bị dạy. Song nhiều người sau một thời gian công tác, việc

làm này đã không mấy quan tâm. Loại đồ dùng trực quan quy ước khổ lớn được sử
dụng chủ yếu do nhà sản xuất giáo dục cung cấp, số lượng giáo viên và học sinh tự
thiết kế là rất ít.
Khơng chỉ trong vấn đề thiết kế đồ dùng trực quan quy ước, việc sử dụng
nguồn tài liệu này có hiệu quả cịn rất hạn chế. Trong mỗi giờ học lịch sử nhiều giáo
viên còn dạy theo lối dạy truyền thống, khơng hoặc ít sử dụng đồ dùng trực quan.
Kỹ năng sử dụng đồ dùng trực quan quy ước của học sinh như đọc bản đồ, vẽ bản
đồ, tường thuật sự kiện trên bản đồ, lập niên biểu, sơ đồ, đồ thị còn nhiều yếu kém.
Để nắm được tình hình, có được nhận xét, đánh giá khách quan về nhận thức
của giáo viên và học sinh trong việc sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy
học lịch sử Việt Nam hiện đại ở trường THPT. Từ đó, tơi đã tìm hiểu thực tế vế việc
sử dụng đồ dùng trực quan quy ước trong dạy học lịch sử Việt Nam hiện đại. Việc
điều tra thực tế nhằm tìm hiểu thực trạng việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan
qui ước trong dạy học lịch sử của giáo viên và tinh thần lĩnh hội kiến thức nhờ vào
sử dụng đồ dùng trực quan qui ước. Từ đó, chúng tơi đã tiến hành trực tiếp gặp gỡ

18


và trao đổi, điều tra về giáo viên dạy sử và học sinh lớp 12 của trường THPT
Nguyễn Duy Hiệu, THPT Lương Thế Vinh của tỉnh Quảng Nam.
Về phía học sinh, chúng tôi xây dựng 7 câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra gần
400 học sinh lớp 12 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là: THPT Nguyễn Duy Hiệu và
THPT Lương Thế Vinh năm học 2014-2015 với mục đích như sau:
Kiểm tra xem mức độ ghi nhớ sự kiện, hiện tượng lịch sử của học sinh khi sử
dụng đồ dùng trực quan quy ước vào dạy học lịch sử.
Kiểm tra mức độ hứng thú và hiểu bài của học sinh khi được học lịch sử có sử
dụng đồ dùng trực quan qui ước
Từ đó, kiểm tra mức độ nhận thức của học sinh về sự cần thiết của đồ dùng
trực quan qui ước trong dạy học lịch sử Việt Nam hiện đại.

Thông quan điều tra trên trên, chúng tôi thấy rõ được thực trạng thiết kế và sự
dụng đồ dùng trực quan qui ước hiện nay ở các trường THPT trong nhận thức của
các em học sinh lớp 12. Tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng trực quan, mức
độ nhận thức hứng thú, yêu thích học lịch sử khi giáo viên sử dụng đồ dùng trực
quan qui ước trong dạy học lịch sử.
Về phía giáo viên: chúng tơi cũng xây dựng 10 câu hỏi trắc nghiệm, để thăm
dò ý kiến của 14 giáo viên theo nôi dung như sau:
Tìm hiểu quan điểm của giáo viên về sự cần thiết và tác dụng của đồ dùng trực
quan qui ước trong dạy học lịch sử.
Tìm hiểu tình hình sử dụng đồ dùng trực quan qui ước của giáo viên trong dạy
lịch sử Việt Nam hiện đại như thế nào.Thầy cô đã sử dụng đồ dùng trực quan qui
ước với hình thức nào là chủ yếu
Thăm dò ý kiến của giáo viên về những thuận lợi khó khăn khi sử dụng đồ
dùng trực quan qui ước để giảng dạy lịch sử Việt Nam hiện đại.
Thông qua việc điều tra thực nghiệm, xử lí và tổng hợp các phiếu điều tra,
chúng tơi nhận thấy rằng việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan qui ước trong
giảng dạy lịch sử Việt Nam hiện đại là rất cần thiết, giúp học sinh tái tạo những
hình ảnh của những sự kiện xảy ra. Tạo nên nhận thức cụ thức cụ thể về thời gian
diễn ra các sự kiện lịch sử, sự phát triển không ngừng của lịch sử dân tộc.

19


Thực tế điều tra đã cho thấy rằng, thời gian để học sử trên trường là rất ít.
Chưa được học sinh và phụ huynh xem trọng. Thời gian học trên trường rất ít, trong
khi kiến thức lịch sử lại quá nhiều, thái độ của học sinh đối với môn lịch sử là chưa
con, điều đó đã gây khó khăn cho việc học mơn lịch sử.
Để khắc phục tình trạng dạy và học lịch sử như hiện nay cần có sự đổi mới
phương pháp dạy học, trong đó phải chú trọng đến việc thiết kế và sử dụng đồ dùng
trực quan nói chung và đồ dùng trực quan quy ước nói riêng, khơng chỉ đối với học

sinh đối với mà cịn đối với giáo viên. Mọi hình thức đổi mới phương pháp dạy học
đều nhằm mục tiêu giúp học sinh không chỉ “biết” lịch sử mà còn phải “hiểu” lịch
sử, và hơn thế nữa là giúp các em u thích mơn lịch sử.

20


×