Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tình trạng nhiễm IHHNV ở tôm sú nuôi (Peneaus monodon) trên các mô hình nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.82 KB, 11 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2



TÌNH TRẠNG NHIỄM IHHNV Ở TƠM SÚ NI
(Peneaus monodon) TRÊN CÁC MƠ HÌNH NUÔI Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Cao Thành Trung1*, Nguyễn Hồng Lộc1,
Phạm Cơng Ngun2 và Nguyễn Văn Hảo3
TĨM TẮT
Virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và lập biểu mô (IHHNV) là nguyên nhân gây chết trên
tôm xanh, hội chứng biến dạng và cịi cọc chậm lớn trên tơm thẻ chân trắng. Mẫu tơm sú được thu
từ các mơ hình nuôi (thâm canh, bán thâm canh và quảng canh) và trại giống ở Đồng bằng sông
Cửu Long và miền Trung từ năm 2012-2013. Mẫu tơm thu ở các mơ hình nuôi sẽ được theo dõi
và thu 4 đợt trong suốt vụ nuôi. Mẫu tôm bố mẹ và ấu trùng ở các trại giống sẽ thu theo giai đoạn
biến thái (Nauplii, Zoea, Mysis và Postlarve) được phân tích bằng PCR. Kết quả phân tích PCR
trên tơm sú trên mơ hình ni quảng canh ở Cà Mau và Bạc Liêu là 46,59±10,52 và 32,53±10,07%.
Trên mơ hình bán thâm canh ở Trà Vinh và Bạc Liêu có tỷ lệ nhiễm trung bình là 62,77 ±14,4% và
36,77±7,6%. Trong đó tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở đầu vụ nuôi là 22,22±10,3% và cao nhất ở cuối vụ
ni là 92,31±14,5%. Trên mơ hình thâm canh tỷ lệ nhiễm trung bình ở Kiên Giang là 38,64±14,4%
và ở Sóc Trăng là 31,25±22,7%, tỷ lệ thấp nhất là 16,67±21,1%, và cao nhất là 62,50±33,5%. Trên
trại giống, trại quy mô lớn có tỷ lệ nhiễm IHHNV thấp hơn so với trại ương nhỏ cả 2 vùng miền
Nam và miền Trung. Tỷ lệ nhiễm IHHNV ở con mẹ tham gia sinh sản tự nhiên có tỷ lệ nhiễm cao
hơn 50% quần đàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở tôm sú ni ở tất cả mơ hình và trại giống đều
có hiện diện IHHNV. Tỷ lệ nhiễm IHHNV phụ thuộc vào thời gian, độ tuổi tôm nuôi, điều kiện môi
trường và q trình chăm sóc, Kết quả điều tra cho thấy năng suất cũng khơng có sự khác biệt rõ
ràng giữa đàn tôm sú nhiễm và không nhiễm trong các mô hình ni. Tuy nhiên, để hạn chết sự lây
lan và tơm ni phát triển tốt nhất thì quần đàn đó khơng nhiễm bất cứ virus nào, chính vì vậy nên
xét nghiệm con mẹ và giống trước khi đưa vào sinh sản và ương ni.
Từ khóa: IHHNV, PCR, tơm sú, mơ hình ni tơm, trại giống.


I. MỞ ĐẦU
Ngành ni tơm cơng nghiệp trên toàn
cầu đã phát triển mạnh trong những năm qua,
với giá trị xuất khẩu lên đến hàng tỷ đô la và
là ngành mũi nhọn trong nền kinh tế các nước
ở Châu Á và Châu Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh
những giá trị mang lại thì nghề ni tơm cũng

đang đối mặt với các mối nguy dịch bệnh do
virus, vi khuẩn làm ảnh hưởng đến năng suất
cũng như sản lượng tôm nuôi. Virus hoại tử cơ
quan lập biểu mô và cơ quan tạo máu (IHHNV)
là một trong những tác nhân gây bệnh có độc
lực rất cao đối với tơm xanh Thái Bình Dương
(Litopenaeus stylirostris), tỷ lệ tơm chết lên trên

Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Mơi trường và Phịng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản 2.
2
Trường Đại học khoa học Tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh.
3
Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản 2.
* Email:
1

102

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
90 % sau 14 ngày lây nhiễm đối với tôm 30-50
ngày tuổi. Tuy nhiên, đối với tôm thể chân trắng
và tôm sú nuôi (Penaeus vannamei và Penaeus
monodon) tơm có thể mang nhiễm virus này,
nhưng không gây chết đã được ghi nhận. Chúng
chỉ gây hội chứng chậm lớn và dị dạng trên tôm
nuôi (Bell và Lightner., 1984; Primavera và
Quinito., 2000). Sự lây nhiễm IHHNV trên tôm
sú Penaeus monodon trước đây không được
quan tâm. Mặc dù vậy, một số nghiên cứu chỉ
ra rằng IHHNV hiện diện trên lồi tơm này và
cũng gây ra hội chứng RDS ở các mẫu tôm sú
nuôi bị nhiễm IHHNV tại Philippine. Kết quả
nghiên cứu ở Philippine và Ấn Độ cho thấy tơm
sú ni nhiễm IHHNV làm cho tơm chậm lớn,
kích thước nhỏ và biến dạng lớp kitin. Bên cạnh
đó, sự biến dạng xuất hiện ở tơm kích thước lớn
(hoặc ni lâu ngày) cho thấy hội chứng RDS
biểu hiện phụ thuộc vào độ tuổi và kích thước
tơm sú ni (Primavera và Quinito., 2000; Rai
và ctv., 2009). IHHNV được phát hiện phân bố
rộng rãi trong tôm sú nuôi khu vực Đông và
Đông Nam Á nhưng dường như không ảnh đến
sự phát triển của tôm nuôi cũng như số lượng
trứng được đẻ và tỷ lệ nở trứng từ tôm mẹ nhiễm
hay không nhiễm cũng như sản lượng nuôi về
sản lượng (Flegel., 1997; Withyachumnarnkul
và ctv., 2006). Một nghiên cứu khác ở Brazil
mới đây trên tôm thẻ chân trắng cho thấy, mặc

dù sự hiện diện của IHHNV với tỷ lệ rất cao
nhưng khi phân tích thống kê thì thấy khơng
có mối tương quan nào giữa sự nhiễm IHHNV
và dấu hiệu RDS hay trọng lượng cơ thể tôm
cũng như thời gian nuôi trong ao (Braz và ctv.,
2009). Đây là điều rất thú vị và câu hỏi đặt ra
là IHHNV có ảnh hưởng đến quần đàn tơm sú ở
Việt Nam có hay khơng?
Trên tơm sú ni ở Đồng bằng sơng Cửu
Long nói riêng và ở Việt Nam nói chung, có rất ít
nghiên cứu liên quan đến việc phát hiện IHHNV
nhiễm trên tôm sú và ảnh hưởng của nó. Nghiên
cứu về tần xuất hiện diện và sự lan truyền của

IHHNV trên tôm sú nuôi rất hạn chế. Chỉ có
một vài nghiên cứu gần đây của nhóm nghiên
cứu Hùng và ctv., (2009) đánh giá về tần xuất
xuất hiện IHHNV trên tôm sú nhưng số lượng
mẫu rất hạn chế, 307 mẫu (tỷ lệ nhiễm 160/307
≈ 52,12%). Do đó, cịn rất nhiều các vấn đề
cần được làm rõ liên quan đến virus IHHN tại
Việt Nam như: Tình trạng nhiễm IHHNV trên
quần đàn tôm bố mẹ; Khả năng lây truyền của
chúng sang thế hệ con trong điều kiện sản suất
và an toàn sinh học thực tế tại Việt Nam; Tỷ lệ
nhiễm IHHNV ở giai đoạn tôm sú giống xuất
bán và các giai đoạn nuôi thương phẩm. Trong
điều kiện nuôi trồng thực tế, các vật mang virus
IHHN là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần lây lan tác nhân virus theo chiều ngang,

vì thế những khảo sát về các vật mang IHHNV
quanh khu vực ni cũng rất cần. Sự chậm lớn
và kích thước nhỏ của tôm sú thương phẩm gần
đây cũng đã được ghi nhận. Tuy nhiên, mối quan
hệ với việc lây nhiễm IHHNV vẫn là một câu
hỏi chưa có lời giải. Để có hiểu biết rõ hơn về
sự hiện diện của IHHNV nhằm đưa ra đề xuất
các giải pháp phòng trị hiệu quả virus này trong
các quần đàn tôm sú nuôi ở Việt Nam. Trong
nghiên cứu này, mục tiêu là khảo sự hiện diện
virus trên quần đàn tôm nuôi ở các mơ hình trên
trong khu vực ĐBSCL thơng qua việc sử dụng
kỹ thuật PCR trên tơm ni ở các mơ hình trại
giống, các mơ hình ni thâm canh, bán thâm
canh và quảng canh. Từ đó xác định giai đoạn
nào và ở mơ hình ni nào của tơm sú có sự hiện
diện của IHHNV cao nhất để có những đề xuất
pháp phịng ngừa sự lan truyền của virus.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Thời gian, địa diểm, đối tượng
nghiên cứu
- Địa điểm thu mẫu: Các vị trí thu mẫu
tơm sú và tơm thẻ ni được thể hiện trên sơ
đồ hình 1. Thời gian thu mẫu trong 2 năm
2012-2013.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014

103



VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2


Hình 1. Vị trí hình sao là các vùng thu mẫu
tơm sú ni trên các mơ hình ni ở Đồng
Bằng Sơng Cửu Long
2.2. Khảo sát và thu tơm ở các mơ hình
ni, trại ương giống
Để xác định sự hiện diện của IHHNV trên
tôm sú ni trên các mơ hình ni khác nhau ở
Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi tiến hành
thu mẫu ở các địa điểm được thể hiện trên bảng
đồ hình 1. Mẫu tôm sú nuôi được thu ở các thời
các khu vực thu mẫu

điểm khác nhau trong suốt chu kỳ nuôi, vào
thời điểm từ 15 ngày thả giống trở đi. Thông tin
được lưu trữ và xử lý bằng MS-Excel 2013. Số
lượng các ao thu mẫu và theo dõi ở các mô hình
ni tơm sú được thực hiện trong 1 tháng/1lần,
thu mẫu 4 lần trong suốt vụ nuôi theo bảng 1.
Đối với trại sản xuất giống, thu thập thông
tin về trang trại và nguồn gốc tôm bố mẹ. Mẫu
tôm mẹ tại khu vực miền Trung tại tỉnh Ninh
Thuận (trại có quy mơ lớn, 01 trại có quy mơ
nhỏ hơn). Mẫu tơm được thu trong một vụ sản
xuất chính trong năm. Tại mỗi điểm nghiên cứu
mẫu sẽ được thu nhiều đợt, tổng số tôm bố mẹ
sẽ được thu từ 30 cá thể và tơm giống sẽ được

phân tích IHHNV qua nhiều giai đoạn phát triển
(50 bể x 4 giai đoạn phát triển Nauplli, Zoea,
Mysis và Postlarvae). Tôm mẹ và tôm giống sẽ
được phân tích IHHNV bằng PCR. (Bảng 2)
Nguồn tơm bố mẹ được thu nhận từ các địa
phương Đà Nẵng, Rạch Gốc, Phú Yên và quần
đàn tôm nhập nội là Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương sẽ được được cắt chân bơi để sử dụng
cho quy trình PCR phát hiện IHHNV.
Bảng 1. Số lượng mẫu ở các mơ hình ni ở

Số lượng mẫu thu trên các mơ hình
Vị trí

Quảng canh
(1-2 con/m2)

Bán thâm canh
(10-20 con/m2)

Thâm canh
(30-40 con/
m2)

Trại giống
lớn

Trại giống
nhỏ


Cà Mau

20 ao

-

-

-

-

Bạc Liêu

20 ao

63 ao

-

-

-

Trà Vinh

-

34 ao


-

-

-

Sóc Trăng

-

-

8 ao

-

-

Kiên
Giang

-

-

12 ao

-

-


Miền Nam -

-

-

-

50 bể và 30
con mẹ

Miền
Trung

-

-

68 bể và 30
con mẹ

45 bể và 30
con mẹ

104

-

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 2. Phân loại quy mô trại sản xuất giống.

Các chỉ tiêu

Quy mô nhỏ

Quy mô lớn

Sở hữu và điều hành
hoạt động

Các thành viên trong gia đình

Hợp tác lớn, cơ quan
Nhà nước, giống sản xuất
bán đại trà

Diện tích

Tận dụng diện tích đất quanh nhà 5.000m2– 1 ha

Sản lượng

1-5 triệu PL/ năm

Tổng thể tích bể ương


20-100m3

Trên 20 triệu PL/năm
3-6 kỹ thuật, 6-10 công
nhân
Trên 1.000m3

Hệ thống an tồn sinh
học

Một người quản lý nhiều bể ương.
Khơng có xét nghiệm con bố mẹ

Mỗi công nhân quản lý
nhà ương riêng biệt. Có xét
nghiệm con bố mẹ

Số cơng nhân, kỹ thuật 1 kỹ thuật, 2 công nhân

2.3. Kiểm tra sự hiện diện IHHNV trên
tơm bằng kỹ thuật PCR
2.3.1. Ly trích DNA
Sử dụng 200 − 500 mg mô tôm nghiền trong
1 ml dung dịch NaOH − SDS (NaOH 0,025N,
SDS 0,0125%), sau đó, đem dung dịch này đun
sơi 10 phút và làm lạnh nhanh trong nước đá,
tiếp tục ly tâm 13.000 vòng/phút trong 10 phút,
dịch nổi được sử dụng trực tiếp.
Thu thập thơng tin và thu mẫu tơm trên các
mơ hình ni.


tính nêu trên. Vì vậy, sử dụng thuật tốn ước
lượng xác suất để thống kê kết quả phân tích.
Theo đó, giả sử tổng thể đang nghiên cứu gồm
N phần tử. Trong đó M phần tử có tính chất A
M là tỷ lệ các phần tử có tính chất
nào đó. P = ―
N
A của tổng thể. Ở đây, P chưa biết do vậy cần
ước lượng P cũng chính là xác suất để lấy được
phần tử có tính chất A khi lấy ngẫu nhiên từ
tổng thể. Đây là ước lượng xác suất. Khoảng
tin cậy của P được tính theo cơng thức:

2.3.2. Quy trình PCR
Quy trình Multiplex PCR và quy trình PCR
(OIE, 2009) được sử dụng để khuếch đại gen
IHHNV type lây nhiễm với 2 cặp mồi vnIHF/R
và 309F/R. Thành phần phản ứng Multiplex
PCR bao gồm: 25 pmol/ µl mỗi mồi vnIHF,
vnIHR và 12 pmol/ µl 309F, 309R, 25 µl mix
Taq buffer (Promega, Mỹ). 2 µl bản mẫu DNA
và thêm nước vào đủ thể tích cuối cùng phản
ứng là 50 µl. Sản phẩm sau khi khuếch đại
được phân tích trên gel agarose 1,5% có nhuộm
ethidium bromide.
2.4. Xử lý kết quả phân tích thống kê ước
lượng

Mẫu tôm sau khi thu nhận tại hiện trường

sẽ được phân tích bằng quy trình PCR định

Trong đó:
P: ước lượng tổng thể,
f: tỷ lệ mẫu nhiễm IHHNV,
n: số mẫu phân tích,
zα: giá trị tra Bảng zα
III. KẾT QUẢ
3.1. Thơng tin về các ao ni tơm ở các
mơ hình
Qua điều tra, thơng tin chi tiết về diện tích,
mật độ, nguồn gốc giống và kiểm tra mầm bệnh
của các mơ hình ni ở các tỉnh được thể hiện
trong bảng 3. Diện tích ở mơ hình quản canh ở

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014

105


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Cà Mau và Bạc Liêu cho thấy nhỏ nhất là 0.4
ha và lớn nhất là 2,6 ha, đa số con giống không
xét nghiệm và giống địa phương mật độ thấp
1-2con/m2. Trong khi đó ở mơ hình bán thâm
canh và thâm canh có diện tích nhỏ hơn, ở mơ
hình ni bán thâm canh chủ yếu là nông hộ
nuôi nhỏ lẻ, 2-3 ao/hộ nuôi, ao có diện tích cao
nhất là 5.000 m2 và nhỏ nhất là 1000 m2, mật độ
thả giống dưới 20 con/ m2. Trong khi đó, ở mơ


hình thâm canh mất diện tích lớn hơn bán thâm
canh, đa số là do các tư nhân và danh nghiệp
có vốn lớn và diện tích lớn. Mật độ thả cũng
cao hơn 30-40 con/m2, hệ thống ao ni có đầu
từ máy móc và nguồn lực cao hơn. Ở mơ hình
ni bán thâm canh và thâm canh, con giống có
nguồn gốc rõ ràng và đều xét nghiệm các chỉ
tiêu virus gây bệnh nguy hiểm ở bảng 3.

Bảng 3. Thơng tin chi tiết của các mơ hình ni.


hình

Diện
tích
trung
bình

Diện
tích nhỏ
nhất

5 ha

1,5 ha

3 ha


4.000m2 0,5-1

Bạc Liêu 2.500
m2

5.000
m2

1.000
m2

Trà Vinh

-

-

-

Kiên
Giang,
Sóc
Trăng

6.000
m2

8.700
m2


2.500
m2

Tỉnh

Quảng Bạc Liêu 2,6 ha
canh
Cà Mau 1,4 ha
Bán
thâm
canh

Thâm
Canh

3.2. Sự hiện diện của IHHNV trên tơm
ni ở các mơ hình ni
3.2.1. Mơ hình quảng canh
Kết quả phân tích trên các ao ni quảng
canh cho thấy tơm ni ở Cà Mau có tỷ lệ nhiễm
IHHNV khá cao khoảng 46,59±10,52%, trong
khi đó, ở Bạc Liêu có tỷ lệ nhiễm thấp hơn,
khoảng 32,53±10,07%. Phân tích theo từng
đợt thu mẫu, những mẫu tơm thu trong đợt 4
(tháng 8/2012) có tỷ lệ nhiễm IHHNV cao nhất
so với các tháng khác ở cả hai tỉnh Bạc Liêu
và Cà Mau, tỷ lệ lần lượt là 59,09±20,5% và
86,36±14,3%. Năng suất thu hoạch của những
ao quản canh này là 25 kg/tháng/ha. Kích cỡ
tơm thu hoạch khá lớn 30 con/kg.

3.2.2. Mơ hình bán thâm canh
Kết quả phân tích trên các ao ni bán thâm
106

Mật
độ thả
giống
(con/
m2)
1-2

Diện
tích
lớn
nhất

Nguồn
gốc

Xét
nghiệm
mầm
bệnh

Sản lượng
thu hoạch

Không

ʺ


Không

19

Miền
Trung,
Địa
phương

WSSV,
MBV,
HPV,
YHV

5-7 tấn/ha

15-20

ʺ

ʺ

5-7 tấn/ha

30-40

Miền
Trung


WSSV,
MBV,
HPV,
YHV

5-6 tấn/ha

ʺ

25 kg/ha/
tháng


canh cho thấy tỷ lệ nhiễm IHHNV trung bình
trên tơm ni ở Trà Vinh là 62,77 ±14,4% và ở
Bạc Liêu là 36,77±7,6%. Tỷ lệ nhiễm IHHNV
trên tơm cao nhất của mơ hình bán canh ở đợt thu
mẫu thứ tư (cuối vụ nuôi, tôm lúc hơn 4 tháng
tuổi), ở Trà Vinh là 92,31±14,5% và Bạc Liêu
là 64,71±22,7%. Năng suất ao nuôi ở những ao
nhiễm và không nhiễm khơng có khác biệt ở mơ
hình ni của hai tỉnh này trung bình là 5-7 tấn/
ha. Kích cỡ tơm thu khoảng 40-50 con/kg.
3.2.3. Mơ hình thâm canh
Kết quả phân tích trên các ao ni thâm
canh cho thấy tỷ lệ nhiễm IHHNV trên tôm sú
nuôi ở Kiên Giang là 38,64±14,4% và ở Sóc
Trăng là 31,25±22,7%. Năng suất nghi nhận ở
những ao ni có thu hoạch ở Kiên Giang là 5-6
tấn/ha.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 4. Tỷ lệ nhiễm IHHNV trên tơm ở các mơ hình ni khác nhau.
Hình
thức
ni

Loại
tơm

Năm

Khu vực

Cà mau



2012



2012

Bạc Liêu




20122013

Trà Vinh

 

20122013

Bạc Liêu



2012

Kiên
Giang



2012

Sóc Trăng

Quảng
canh

Bán
thâm
canh


Thâm
canh

Đợt thu mẫu

Mẫu
phân
tích

Mẫu
nhiễm
IHHNV

Tỉ lệ
nhiễm (%)

1 (tháng 5)
2 (tháng 6)
3 (tháng 7)
4 (tháng 8)
Tổng
1 (tháng 5)
2 (tháng 6)
3 (tháng 7)
4 (tháng 8)
Tổng
1 (tháng 7)
2 (tháng 8)
3 (tháng 9)

4 (tháng 10)
Tổng
1 (tháng 7)
2 (tháng 8)
3 (tháng 9)
4 (tháng 10)
Tổng
1 (tháng 6)
2 (tháng 7)
3 (tháng 8)
4 (tháng 9)
Tổng
1
2
Tổng

22
22
22
22
88
19
20
22
22
83
44
26
18
13

101
63
42
33
17
155
12
12
12
8
44
8
8
16

2
9
11
19
41
2
2
10
13
27
18
17
16
12
63

14
16
16
11
57
2
6
4
5
17
3
2
5

9,09±12%
40,91±20,5%
50,0±20,9%
86,36±14,3%
46,59±10,4%
10,53±13,8%
10,00±13,1%
45,45±20,8%
59,09±20,5%
32,53±10,1%
40,91±14,5%
65,38±18,3%
88,89±14,5%
92,31±14,5%
62,38±14,4%
22,22±10,3%

38,10±14,7%
48,48±17,1%
64,71±22,7%
36,77±7,6%
16,67±21,1%
50,00±28,3%
33,33±26,7%
62,50±33,5%
38,64±14,4%
37,50±33,5%
25,00±30,0%
31,25±22,7%

3.3. Sự hiện diện của IHHNV trên
tôm giống
Trong 68 bể ương tôm con của trại giống
quy mô lớn và 45 bể ương tôm con của trại
giống quy mô nhỏ ở miền Trung, tỷ lệ nhiễm
IHHNV ở các giai đoạn ấu trùng tại các bể
ương của trại ương giống quy mơ lớn có
Nauplii: 2,94±4,0%, Zoea: 8,82±6,7%, Mysis:
14,70±8,4%, Postlarvae: 26,47±10,5% và tôm

mẹ: 45,3±13,4% và tỷ lệ nhiễm IHHNV ở các
giai đoạn ấu trùng tại các bể ương ở trại giống
quy mô nhỏ Nauplii: 47,83±14,4%, Zoea:
67,39±13,5%, Mysis: 80,43±11,5%, Postlarve:
80,43±11,5% và tôm mẹ: 73,33±15,8%.
Trong 50 bể ương của trại giống nhỏ ở
miền Nam, tỷ lệ nhiễm IHHNV trên Nauplii

là 37,25±13,3%, Zoea là 39,22±13,4%, Mysis
là 47,06±13,7%, Postlarvae là 39,53±14,6% và
tôm mẹ là 51,43±16,6%. (Bảng 5)

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014

107


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 5. Tỷ lệ nhiễm IHHNV trên tôm giống.

Tỷ lệ nhiễm (%) trên giai đoạn tôm ương
Nauplii
Zoea
Mysis

Postlarvae

Tôm mẹ

Miền Trung
Trại lớn

2,94±4,0

8,82±6,7

14,70±8,4


26,47±10,5

45,3±13,4

Miền Trung
Trại nhỏ

47,83±14,4

67,39±13,5

80,43±11,5

80,43±11,5

73,33±15,8

39,53±14,6

51,43±16,6

Địa điểm

Miền Nam
37,25±13,3
39,22±13,4
47,06±13,7
Trại nhỏ
3.4. Sự hiện diện IHHNV trên tôm bố mẹ tự nhiên


Tôm bố mẹ thu được thu nhận từ tháng 3 đến tháng 10/2013 ở các vùng đánh bắt tôm sú ở Việt
Nam và nhập từ nước ngoài về (bảng 6). Trong đó tổng số có 555 con mẹ tơm đánh bắt tự nhiện đã
được phân tích bằng PCR. Tất cả những con mẹ được cắt chân bơi để sàn lọc sự hiện diện IHHNV
trước khi đưa vào cho sinh sản. Kết quả phân tích cho thấy, IHHNV hiện diện trên tôm bố mẹ ở các
địa phương trong Việt Nam rất cao (bảng 6).
Bảng 6 . Tỷ lệ nhiễm IHHNV trong quần đàn tôm sú bố mẹ ở Việt Nam và ngoại nhập

Nguồn tơm bố mẹ

Số tơm phân tích

Số tơm nhiễm IHHNV

Tỷ lệ nhiễm (%)

Đà Nẵng

113

52

46,01±9,2

Phú Yên

47

30

63,83±13,7


Rạch Gốc

135

79

58,51±8,3

Thái Bình Dương

126

15

11,90±5.7

Ấn Độ Dương

134

13

9,70±5,0

IV. THẢO LUẬN
IHHNV đã được ghi nhận hiện diện trên
nhiều trang trại nuôi tôm của nhiều quốc gia như
Đông Bắc Mỹ: Mexico, Ecuador, Peru, Brazil,
Caribbean và các Quốc gia Trung Mỹ: Hawaii,

Guam, Tahiti và New Caledonia. Lightner và
ctv., (1997) cho rằng IHHNV là tác nhân gây
bệnh không đáng kể trên các trang trại nuôi tôm
sú ở Châu Á như Singapore, Brunei, Philipine,
Malaysia và Ấn Độ. Ngồi ra, có những bằng
chứng cho thấy tơm sú là lồi dễ mẫn cảm với
virus này, nhưng khơng có biểu hiện bệnh hay
gây chết bởi virus. Dịch bệnh do virus IHHN
trong các quần đàn tôm sú nuôi chỉ xảy ra nếu
chúng tiếp xúc tương đối lớn với số lượng của
virus (Lightner và ctv., 1983). Nhìn chung, tỉ
lệ nhiễm IHHNV trung bình trên tơm sú ở tất
108

cả các mơ hình ni trong nghiên cứu này dao
động từ 31,25±22,7% đến 62,38±14,4%, tỷ lệ
này thấp hơn tỷ lệ nhiễm virus này trên tôm sú
nuôi ở Thái Lan (69%) và Philipine (100%),
nhưng cao hơn so với Brunei (14,1%) (Claydon
và ctv., 2010). Ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu
của Hùng và ctv., (2009) cũng ghi nhận tỷ lệ
xuất hiện IHHNV trên tơm sú ni là 52,12%
(160/307 mẫu). Ở mơ hình nuôi quảng canh, tỷ
lệ nhiễm IHHNV ở Cà Mau (46,59±10,4%) cao
hơn so với Bạc Liêu (32,53±10,1%). Nguyên
nhân gây ra sự khác biệt này rất khó xác định
do mơ hình quảng canh là mơ hình mở, nguồn
nước lấy theo thủy triều và không được xử lý
trước khi đưa vào ao nuôi. Hơn nữa, tỷ lệ nhiễm
virus lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chất

lượng con giống trước khi thả, chất lượng nước

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
ao ni cũng như điều kiện thổ nhưỡng của
vùng ni.

Ở mơ hình ni bán thâm canh, tỷ lệ
nhiễm IHHNV ở Trà Vinh (62,38±14,4%) cao
gần gấp đôi so với tỷ lệ nhiễm IHHNV ở Bạc
Liêu (36,77±7,6%). Sự khác biệt này có thể
là do đặc thù của vùng địa lý thổ nhưỡng và
tập quán canh tác của từng vùng. Trong vùng
nuôi ở Trà Vinh, hệ thống thủy lợi nhỏ hẹp,
mọi hoạt động lấy nước cũng như thải nước
đều diễn ra trên một dòng kênh nhỏ. Trong
khi khu vực thu mẫu ở Bạc Liêu, nước nuôi
được cung cấp từ những nguồn nước ở gần
bờ biển. Theo Pantoja và ctv., (1999), nguồn
nước bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến
tỷ lệ nhiễm IHHNV trên tôm thẻ chân trắng và
tôm xanh sống trong vùng này. Sự hiện diện
của virus IHHN trên tôm xanh P. stylirostris
khá cao ở quanh khu vực vịnh California, Mỹ
và vịnh Sonora, Mehico do nguồn nước của
2 vịnh này thường xuyên bị ô nhiễm do hoạt
động của ngành nơng nghiệp.
Ở mơ hình ni thâm canh, tỷ lệ nhiễm

IHHNV ở Kiên Giang là 38,64±14,4% và ở
Sóc Trăng là 31,25±22,7%. Tuy nhiên, do
những ao ni mà chúng tơi thu ở Sóc Trăng
bị dịch bệnh gan tụy cấp nên đã chết sớm ở
giai đoạn 1-2 tháng tuổi nên không thể nghi
nhận tỷ lệ nhiễm IHHNV ở giai đoạn tơm
ni 3-4 tháng tuổi.
Ngồi ra, kết quả phân tích cũng cho thấy
ở tất cả các mơ hình ni khảo sát tỷ lệ tôm
nhiễm IHHNV luôn cao nhất trong đợt thu
mẫu tôm lúc hơn 4 tháng tuổi. Thời điểm này
được ghi nhận là rơi vào mùa mưa, thời tiết có
xu hướng lạnh hơn và độ mặn cũng giảm hơn.
Do đó, tỷ lệ nhiễm cao hơn có thể do tơm lúc
này dễ bị stress dưới ảnh hưởng của sự biến
đổi nhiệt độ và độ mặn dẫn đến sự thay đổi áp
suất thẩm thấu của tế bào chủ, khiến cho quá
trình xâm nhiễm của virus xảy ra dễ dàng hơn
(Jimenez và ctv., 1999). Theo MontgomeryBrock và ctv., (2007), virus sẽ lây truyền và
phát triển nhanh ở nhiệt độ thấp. Cụ thể, khi

lây nhiễm virus cho tôm bằng phương pháp
tiêm ở nhiệt độ thấp 240C, sau 6 ngày thì virus
bắt đầu nhân sinh mạnh, trong khi đó ở nhiệt
độ 300C trở lên thì virus nhân sinh mạnh bắt
đầu từ ngày thứ 17. Một nghiên cứu khác
trên virus đốm trắng WSSV của Hảo và ctv.,
(2007) đã chỉ ra rằng tỷ lệ WSSV nhiễm trên
tôm ni ở mơ hình quảng canh trong mùa
mưa ở ĐBSCL (tháng 9 dương lịch) rất lớn,

chiếm 30% ao nuôi trong mùa mưa do sự thay
đổi đột ngột môi trường về nhiệt độ cũng như
độ mặn. Chính vì vậy nhiệt độ và độ mặn luôn
là những nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình lây nhiễm và nhân sinh của
virus.
Có rất nhiều thống kê cho thấy tỷ lệ nhiễm
IHHNV rất cao trong các quần đàn tôm bố mẹ,
đặc biệt trên tôm thẻ chân trắng. Theo Motte
và ctv., (2003), tỷ nhiễm IHHNV trên quần đàn
tôm bố mẹ rất cao 63% ở Ecuador và trên 95%
IHHNV ở Panama. Tỷ lệ nhiễm virus cao và
nhanh chóng lan truyền truyền dọc cho thế hệ
con trong hệ thống nuôi trồng thủy sản mở đã
được chứng minh (Pantoja và ctv., 1999). Bên
cạnh đó, một số tơm mẹ nhiễm IHHNV khơng
có biểu hiện lâm sàng về bệnh do virus này,
nhưng chúng có thể mang mầm bệnh và truyền
virus qua thế hệ con của chúng.
Trong nghiên cứu này, ở những trại ương
giống quy mô lớn ở miền Trung, giai đoạn
Nauplii có tỷ lệ nhiễm 2,94±4,0% nhưng đến
giai đoạn postlarvae, tỷ lệ nhiễm IHHNV tăng
lên 26,47±10,5%. Trong khi ở trại ương quy mô
nhỏ, tỷ lệ nhiễm IHHNV ở tất cả các giai đoạn
đều cao hơn rất nhiều Nauplii: 47,83±14,4%,
Zoea: 67,39±13,5%, Mysis: 80,43±11,5%,
Postlarve: 80,43±11,5%. Tỷ lệ nhiễm virus trên
tôm bố mẹ ở trại ương quy mô lớn là 45,3±13,4,
cũng thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nhiễm trên tôm

bố mẹ ở trại ương quy mô nhỏ (73,33±15,8 %).
Kết quả này chứng tỏ tỷ lệ nhiễm IHHNV có
thể tùy thuộc vào tỷ lệ nhiễm IHHNV của con
bố mẹ tham gia sinh sản. Tuy nhiên, có một
ghi nhận khá thú vị là ở các trại ương quy mơ

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014

109


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
nhỏ ở miền Trung, tỷ lệ tôm bố mẹ nhiễm virus
IHHN là 45,3 ±13,4%, không cao hơn so với
tỷ lệ nhiễm của tôm bố mẹ trong những trang
trại nhỏ ở miền Nam (51,43±16,6), nhưng tỷ lệ
nhiễm virus ở tất cả các giai đoạn từ Nauplii
đến postlarve đều cao hơn rất nhiều trên 47%.
Ngoài ra, sự hiện diện của IHHNV trên quần
đàn tôm sú ở các trại ương có tỷ lệ thuận với sự
phát triển giai đoạn của ấu trùng trên cả hai loại
trang trại. Sự tăng lên này có thể là do trong q
trình ương ni, trại giống đã khơng tn thủ
nghiêm ngặt các điều kiên về an toàn sinh học
dẫn đến quá trình nhiễm chéo hay do quá trình
lây lan virus theo đường truyền ngang do sự ăn
lẫn nhau. Cũng có thể là khi những con bố mẹ
nhiễm virus ở mức độ nhẹ thì trứng của chúng
cũng có mức độ nhiễm nhẹ, hoặc chưa nhiễm
cho nên tỷ lệ nhiễm ở các đàn ấu trùng giai đoạn

đầu thấp. Điều này cũng đã được chứng minh
trên những trại ương tôm sú và tôm thẻ chân
trắng trong các nghiên cứu của Motte và ctv.,
(2003) và Withyachumnarnkul và ctv., (2006).
Những nghiên cứu trước đây cho thấy sự
hiện diện trong quần đàn tôm bố mẹ tự nhiên
và trong quần đàn tơm ni có mối liên hệ mật
thiết với nhau trong việc lan truyền của virus từ
trại giống đến các ao nuôi (Motte và ctv., 2003).
Sự hiện diện IHHNV trong quần đàn tôm sú bố
mẹ ở Phú Yên là 63,83%, cao hơn ở Rạch Gốc
58,51±8,3% và Đà Nẵng 46,01±9,2%. Có thể
vì ở Phú n có địa lý gần với các tỉnh Ninh
Thuận, Bình Thuận và Khánh Hịa là những tỉnh
có mật độ trại sản xuất tơm giống rất cao dẫn
đến ô nhiễm môi trường và phát tán các mầm
bệnh ra mơi trường. Chính điều này có thể đã
tạo điều kiện mầm bệnh phát tán ra quần đàn
tôm bố mẹ tự nhiên dễ dàng hơn. Ngoài ra, mối
liên hệ về sự thay đổi về địa lý vùng với sự
hiện diện IHHNV cũng đã được Pantoja và ctv.,
(1999) chứng minh. Sự thay đổi điều kiện địa lý
110

như độ sâu của nước, sự bay hơi, hay lưu lượng
luân chuyển giữa vùng nông và vùng sâu dẫn
đến sự hiện diện IHHNV cao trong quần tôm
xanh ở Vùng Gulf nằm giữa sông Colorado đến
đảo Angel de la Guarda và Tiburón của Mexico.
Thêm vào đó, cịn có một ngun nhân khác liên

quan đến q trình đánh bắt và bảo quản tơm bố
mẹ. Ở Việt Nam, sau khi đánh bắt tôm bố mẹ tự
nhiên thường được nuôi dưỡng trong thời gian
dài trước khi bán cho các trại sản xuất giống
dẫn đến sự lây truyền lẫn nhau giữa những con
mang virus và con không mang virus.
Mặc dù IHHNV hiện diện ở tỷ lệ nhiễm ở
mức cao trong tất cả các gia đoạn của tôm sú từ
ấu trùng, tơm ni và bố mẹ ở nhiều mơ hình
ương nuôi khác nhau. Tuy nhiên, kết quả điều
tra cho thấy sự tác động của IHHNV không lớn
về năng suất thu hoạch. Ở những ao nuôi tôm
sú nhiễm và không nhiễm IHHNV khơng có
sự chênh lệch về năng suất ni. Trung bình ở
mơ hình quảng canh là 30 kg/tháng/ha, mơ hình
ni bán thâm canh 5-7 tấn/ha. Ở trại giống, tỷ
lệ nở của trứng của các con mẹ trong trại ương
khơng có thay đổi về chất lượng và số lượng
đàn ấu trùng khi ương. Kết quả nghiên cứu
này phù hợp với những trên nghiên cứu tôm sú
ở trưởng thành và tôm sú bố mẹ ni ở Thái
Lan, IHHNV khơng có sự ảnh hưởng đến trọng
lượng thân ở tôm nuôi và số lượng trứng cũng
như nauplii từ con mẹ nhiễm và không nhiễm
(Withyachumnarnkul và ctv., 2006)
Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng, tôm
bố mẹ có nguồn gốc ở Việt Nam có tỷ lệ nhiễm
IHHNV cao hơn rất nhiều. Do đó, Việt Nam
cần phải chú ý hơn nữa trong việc quản lý môi
trường, hạn chế tối đa việc sử dụng những con

mẹ cho sinh sản không xét nghiệm các mầm
bệnh. Đồng thời cần phải nâng cao kiến thức về
nuôi dưỡng tôm mẹ sau khi đánh bắt cho ngư
dân và quản lý trại ương ni.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THÁNG 10/2014


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Văn Hảo, 2007. Các giải pháp quản lý bệnh
virus cho nghề nuôi tôm ở Việt Nam. Nhiệm vụ
hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và mơi
trường. Trang 68.
Phạm Văn Hùng, Nguyễn Tấn Bình, Nguyễn Đăng
Ninh, Phạm Hùng Vân, Phạm Thành Hổ, 2009. Sự
phổ biến của virus gây bệnh hoại tử dưới vỏ và cơ
quan tạo máu trên tơm sú ni tại Việt Nam. Tạp
chí Y Học TP. Hồ Chí Minh. Tập 13 (2). Trang
234-238
Tài liệu tiếng Anh
Bell, T.A., and Lightner, D.V., 1984. IHHN virus:
Infectivity and pathogenicity studies in Penaeus
stylirostris and Penaeus vannamei. Aquaculture
38: 185-194.
Braz RFS, Silva CPRO, Reis L.G., Martins P.C.C.,
Sales M.P.,, Meissner R.V., 2009. Prevalence of
infectious hypodermal and hematopoietic necrosis

virus (IHHNV) in Penaeus vannamei cultured in
Northeastern Brazil. Aquaculture. 288:143–6
Claydon, K., Haji-Tajir, R,A., Said, H.M., Lakim,
M.H., Tamat, W., 2010. Prevalence of shrimp
viruses in wild Penaeus monodon from Brunei
Darussalam. Aquaculture. 308:71–4
Flegel, T.W., 1997. Special Topic Review: Major
viral diseases of the black tiger prawn (Penaeus
monodon) in Thailand. World Journal of
Microbiology and Biotechnology 13: 433-442.
Lightner, D.V., Redman, R.M., Bell, T.A., Brock,
J.A., 1983. Detection of IHHN virus in Penaeus
stylirostris and Penaeus vannamei imported into
Hawaii. J. World Maricult. Soc., 14: 212-225
Lightner, D.V., Redman, R.M., Nunan, L.N., Mohney,
L.L., Mari, J.L., Poulos, B.T., 1997. Occurrence
of WSSV, YHV and TSV in Texas shrimp farms
in 1995: Possible mechanisms for introduction.
World Aquaculture ’97 Book of Abstracts, World
Aquaculture Society, Baton Rouge, LA. p 288

Montgomery-Brock, D., Tacon, A.G.J., Poulos, B.,
& Lightner, D.V., 2007. Reduced replication of
infectious hypodermal and hematopoietic necrosis
virus (IHHNV) in Litopenaeus vannamei held in
warm water. Aquaculture, 265, 41–48.
Motte, E., Yugcha, E., Luzardo, O.J., Castro, F.,
Leclercq, G., Rodrisguezj, J., Miranda, P., Borja,
O., Serrano, J., Terreros, M., Montalvo, K.,
Narvasez, A., Tenorio, N., Cedno, V., Mialhe, E.,

and Boulo, V., 2003. Prevention of IHHNV vertical
transmission in the white shrimp Litopenaeus
vannamei. Aquaculture. 219, 57–70.
OIE, 2009. Diagnostic Manual for Aquatic Animal
Diseases 6th Edition. Office International des
Epizooties (OIE), Paris. Chapter 2.2.2. Infectious
Hypodermal and Hematopoietic Necrosis. pp.
78-95.
Pantoja Lightner, D.V., and Holtschmit, K.H., 1999.
Prevalence and Geographic Distribution of
Infectious Hypodermal and Hematopoietic
Necrosis Virus (IHHNV) in Wild Blue Shrimp
Penaeus stylirostris from the Gulf of California,
Mexico. Journal of Aquatic Animal Health. 1,
23-34.
Primavera, J.H., Quinitio, E.T., 2000. Runt-deformity
syndrome in cultures of the giant tiger prawn
Penaeus monodon. J. Crust. Biol. 20, 796–802.
Rai, P., Pradeep B., Safeena, M.P., Krabsetsve, K.,
La Fauce, K., Owens, L., and Karunasagar,
I., 2013. Genomics, molecular epidemiology
and diagnostics of infectious hypodermal and
hematopoietic necrosis virus. Indian Journal of
Virology, 23 (2). pp. 203-214
Withyachumnarnkul, B., Chayaburakul, K., Supak,
L.A., Plodpai, P., Sritunyalucksana, K., Nash,
G., 2006. Low impact of infectious hypodermal
and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) on
growth and reproductive performance of Penaeus
monodon, Dis. Aquat. Org. 69:129–136.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014

111


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

PREVELENCE OF IHHNV INFECTED BLACK TIGER SHIMPS IN
DIFFERENCE OF CULTURE SYSTEMS IN MEKONG DELTA.
Cao Thanh Trung1*, Nguyen Hong Loc1, Pham Cong Nguyen2, Nguyen Van Hao3
ABSTRACT
 Infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) is the causative agent of pathogenic for Litopeneaus stylirostris whereas in Peneaus vannamei shrimp known to induce development and grown abnormalities. The survey performed at different black tiger shrimp state in difference of culture systems (intensive, semi-extensive and extensive) and the harcheries in Mekong
Delta and Centrer Region during from 2012-2013. The presence of IHHNV infected samples at
the farms and the hatcheries will be analyzed by PCR assay. The PCR results, showed the average
prevalence of IHHNV infection to be 46,59±10,52 and 32,53±10,07% in shrimp of intensive culture in Ca Mau and Bac Lieu province, 62,77 ±14,4% and 36,77±7,6% in shrimp of semi-extensive
culture in Tra Vinh and Bac Lieu province. In it the lowest infection rates in the first crop is 22,22
± 10,3% and the highest at the end of the crop was 92,31 ± 14,5%. The average prevalence off
IHHNV infected shrimp in the culture intensive in Kien Giang and Soc Trang are 38,64 ± 14,4%
and 31,25 ± 22,7. The lowest infection rate in shrimp culture intensive was 16,67 ± 21,1%, and
the highest infection rate was 62,50±33,5%. On the hatcheries in the southern and central regions,
IHHNV prevalence infected shirmp in the large hatcheries is lower than both the small hatcheries in
2 regions. The captured wild brookstoks were also analyzed by PCR assay. The result showed that
average prevalence of IHHNV infection was more than 50% in wild populations of peneaus monodon. The survey demonstrated that IHHNV had widespread distribution in all P. monodon shrimp
state of the different culture system in a region. Prevalent of IHHNV rate in shrimp was depent on
the shrimp age, culture time, environment condition and management. The survey show that shirmp
production are not clear diffence between unfected and infected IHHNV shrimp or negatively affect
the growth of their offspring. However, to limit the wildspread virus, the shrimp populations that
are not yet infected with any virus and the brookstock and postlarvae were tested negative for these
viruses before breeding, rearing and stocking.

Keywords: Hatchery; PCR; Penaeus monodon; Culture system

Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước
Ngày nhận bài: 10/8/2014
Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014
Ngày duyệt đăng: 05/9/2014

Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2.
University of Science Ho Chi Minh City.
3
Research Institute for Aquaculture No2.
* Email:
1
2

112

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014



×