Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CƠ sở lý LUẬN về tổ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRONG dạy học môn tự NHIÊN xã hội ở TRƯỜNG TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.87 KB, 41 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI
NGHIỆM TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN XÃ
HỘI Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC

Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về hoạt động
trải nghiệm
Các nghiên cứu trên thế giới
Hoạt động trải nghiệm là một phần quan trọng trong
chương trình giáo dục ở hầu hết các nước trên thế giới. Vì
vậy, hoạt động trải nghiệm được chú trọng nghiên cứu để
trở thành một công cụ hữu ích giúp người học đạt kết quả
cao hơn trong học tập và phát triển toàn diện hơn về nhân
cách.
C.Mác cùng F.Ănghen- người sáng lập ra học thuyết
cách mạng XHCN là ông tổ của nền giáo dục hiện đại, cho
rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều
cũng đều cần đến một sự chỉ đạo điều hòa những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận
động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc


tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, cịn dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng” [6,tr22]. Hai ơng cịn xác định
mục đích của nền giáo dục XHCN là tạo ra: “con người
phát triển toàn diện”. Muốn vậy phải theo: “phương thức
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”.[6,tr10] Đây chính
là phương thức giáo dục hiện đại.
“Người hiệu trưởng trong nhà trường XHCN không
phải chỉ cần biết tổ chức việc dạy và học theo yêu cầu xã


hội mà điều quan trọng hơn là phải biến nhà trường thành
một cơng cụ của chun chính vơ sản (Lênin - bàn về giáo
dục). V.I.Lênin đã vận dụng phương thức giáo dục của
C.Mác và F.Ănghen vào thực tiễn và coi là một trong những
nguyên tắc của giáo dục XHCN” [3]. Trong bài phát biểu
“Nhiệm vụ của thanh niên” (1920), Người nói: “Chỉ có thể
trở thành người cộng sản khi biết lao động và hoạt động xã
hội cùng với công nhân và nông dân”.
Vào những năm 60-70, đất nước Liên Xô đang trên
con đường xây dựng CNXH, việc giáo dục con người phát
triển toàn diện được Đảng Cộng Sản và Nhà Nước quan
tâm. Các nghiên cứu về lý luận giáo dục nói chung và
HĐGDNGLL nói riêng được đẩy mạnh. Trong cuốn sách
“Tổ chức và lãnh đạo công tác giáo dục ở trường phổ


thơng”, tác giả I.X.Marienco đã trình bày sự thống nhất của
cơng tác giáo dục trong và ngồi giờ học, nội dung và các
hình thức tổ chức hoạt động ngồi lớp học, vị trí của người
hiệu trưởng trong việc lãnh đạo hoạt động thực tế và các tổ
chức Đội thiếu niên và Đoàn thanh niên.
Theo báo cáo tổng hợp của Bộ GD&ĐT cho thấy: “Ở
nước Anh chương trình giáo dục phổ thơng cung cấp hàng
loạt tình huống, bối cảnh đa dạng, phong phú cho học sinh
và đòi hỏi phát triển, ứng dụng nhiều tri thức, kỹ năng trong
chương trình, cho phép HS sáng tạo và tư duy; giải quyết
vấn đề theo nhiều cách thức khác nhau nhằm đạt kết quả tốt
hơn; cung cấp cho HS các cơ hội sáng tạo, đổi mới, dám
nghĩ, dám làm...” [3]
“Nước Đức ngay từ cấp TH đã nhấn mạnh đến vị trí

của các kỹ năng cá biệt, trong đó có phát triển kỹ năng sáng
tạo cho trẻ; phát triển khả năng học độc lập; tư duy phê
phán và học từ kinh nghiệm của chính mình.” [4]
“Hàn Quốc mục tiêu HĐTN hướng đến con người được
giáo dục, có sức khỏe, độc lập và sáng tạo. Cấp TH và cấp
THCS nhấn mạnh cảm xúc và ý tưởng sáng tạo, cấp THPT
phát triển cơng dân tồn cầu có suy nghĩ sáng tạo.” [4]


Theo các nhà giáo dục nước Anh, hoạt động thực tế
ngoài giờ lên lớp giúp học sinh gắn kiến thức trên ghế nhà
trường vào cuộc sống. Bà Ruth Kelly - Bộ trưởng giáo dục
Anh nhận xét: “Các hoạt động giáo dục ngồi giờ, nhất là
các hoạt động ngoại khóa đã làm giàu chương trình học,
tạo dựng niềm tin và củng cố kĩ năng cho người học” [4]
Ở Nhật Bản, vai trò của các hoạt động thực tế được
đặc biệt quan tâm, vì vậy, thời gian dành cho hoạt động thực
tế khá nhiều. Tuy nhiên, các nhà trường thường tổ chức hoạt
động thực tế nhằm giáo dục truyền thống và giáo dục đạo
đức cho học sinh [4]
Ở Mỹ, theo nghiên cứu so sánh của các nhà giáo dục
về chất lượng giáo dục Mỹ [4] và các nước trong khối G8
thì hoạt động thực tế là một trong những điều kiện mang lại
chất lượng giáo dục cao và có tác dụng to lớn đối với đời
sống của người học:
- 8/10 học sinh có kết quả học tập cao hơn, hành vi
đạo đức tốt hơn, có mối quan hệ và xúc cảm tốt hơn, không
sử dụng ma túy khi tham gia vào các hoạt động thực tế
ngoài giờ học ở trường.
- 49% học sinh sử dụng ma túy, 37% học sinh làm bố



hoặc mẹ sớm, có hiện tượng sử dụng bạo lực trong nhà
trường là chưa từng tham gia các hoạt động ngồi giờ lên
lớp.
J.A.Cơ-men-xki, ơng tổ của nền sư phạm cận đại, cũng
cho rằng việc mở rộng hình thức học tập ngoài lớp sẽ khơi
dậy và phát huy những khả năng tiềm ẩn, rèn luyện cá tính
cho người học.
Carov - nhà giáo dục người Nga - đã viết: Trong kế
hoạch công tác của nhà trường cần dành một mục tiêu
riêng cho hoạt động thực tế. Mục tiêu đó được đảm bảo bởi
các yếu tố như: điều kiện và cơ sở vật chất cho hoạt động
thực tế, các hoạt động ngoại khóa của nhà trường của lớp,
phân phối lực lượng và định kì hạn cho từng kế hoạch.
Các nghiên cứu trong nước
Từ những năm 60, khi xây dựng chương trình giáo
dục, Bộ Giáo dục đã xác định rõ: “Muốn thực hiện giáo dục
và giáo dưỡng trong các môn học cần tổ chức ngoại khóa”
[3]
Tác giả Nguyễn Thị Tiến với cơng trình nghiên cứu
“Những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp của học sinh ở trường THPT Nam Sách, Hải


Dương” đã đưa ra một số biện pháp quản lý như nâng cao
nhận thức cho đội ngũ cán sự lớp, tăng cường cơ sở vật
chất, thi đua, khen thưởng kịp thời…
ThS. Đinh Xuân Huy trong luận văn tốt nghiệp “Các
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của

Hiệu trưởng trường PTHT dân tộc nội trú tỉnh Lai Châu”
khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động thực tế đối với
việc nâng cao chất lượng của trường PTTH dân tộc nội trú
và đề xuất nhóm biện pháp quản lý như sau: nâng cao nhận
thức, đào tạo kĩ năng tổ chức HĐ thực tế cho giáo viên, phát
huy vai trị tích cực, chủ động của học sinh, mở rộng địa
bàn, đa dạng hóa hình thức tổ chức...
Tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn Giáo
dục học [20] nhấn mạnh vai trị và tác dụng của hình thức
hoạt động ngoại khóa, coi hoạt động ngoại khóa là một hình
thức dạy học có khả năng tạo hứng thú cho học sinh, giúp
các em mở rộng, nâng cao và khắc sâu kiến thức.
Sách “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” của tác
giả Hà Nhật Thăng và sách giáo viên 6, 7, 8, 9 [27] đã nêu
lên mục tiêu giáo dục, nội dung chương trình, phương thức
tổ chức, trang thiết bị cho việc tổ chức, đánh giá kết quả hoạt


động của học sinh và hướng dẫn thực hiện các chủ điểm giáo
dục.
Sách “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” do tác
giả Nguyễn Dục Quang chủ biên - Sách dành cho CĐSP đã
đề cập đến những nội dung cơ bản xung quanh những vấn
đề của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, đồng thời,
làm cơ sở cho giáo sinh trong thực tập sư phạm và công tác
chủ nhiệm lớp sau này.
Từ sau năm 1995, Bộ GD&ĐT đã nhận thấy tầm trọng
của hoạt động giáo dục ngoài nhà trường vì vậy, hoạt động
ngoại khóa chính thức được đưa vào chương trình ở bậc
THCS ban hành theo quyết định số 03/2002/QĐ-BGD&ĐT

ngày 24/1/2002. Từ đó, việc xây dựng HĐGDNGLL cho
HS các cấp từ tiểu học đến phổ thông trung học đã được
quan tâm nghiên cứu. Điển hình là sự đóng góp của các tác
giả Đặng Vũ Hoạt, Hà Nhật Thăng, Nguyễn Dục Quang,...
đã biên soạn cuốn “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”
được dùng làm giáo trình chính thức trong chương trình đào
tạo giáo viên THCS. Tác giả Hà Nhật Thăng và Nguyễn
Dục Quang còn biên soạn “Tài liệu tập huấn bổ sung và
cập nhật kiến thức cho giảng viên CĐSP ngành giáo dục
công dân”. Trong tài liệu này, tác giả nhận mạnh việc rèn


luyện và đào tạo kĩ năng tổ chức hoạt động ngoại khóa cho
học sinh đối với sinh viên sư phạm. Hay cơng trình nghiên
cứu của tác giả Huỳnh Mộng Tuyền về vấn đề “Bồi dưỡng
năng lực HĐGDNGLL cho sinh viên CĐSP”. Việc nắm
vững kiến thức và kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài
nhà trường của sinh viên sư phạm có tác động lớn đến sự
phát triển của học sinh. Vì vậy, để sinh viên hiểu ý nghĩa
cũng như kĩ năng tổ chức tác giả đề xuất phải đặt sinh viên
vào vị trí của người học.
Gần đây nhất có tài liệu tập huấn “Kĩ năng xây dựng
và tổ chức các hoạt động trải nghiệm trong trường tiểu học”
của nhóm tác giả Nguyễn Thúy Hồng, Đinh Thị Kim Thoa,
Nguyễn Văn Hiền, Trần Văn Tính, Bùi Ngọc Diệp, Nguyễn
Hồng Đào do Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội phát hành.
Nhóm tác giả đã phân tích, đánh giá các nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức HĐTN cho học sinh tiểu học. Đây
là tài liệu rất hữu ích cho cán bộ quản lý và giáo viên trong
quá trình thực hiện chương trình giáo dục dựa vào trải

nghiệm cho học sinh.
Tác giả Trần Thị Mỹ Hạnh đã thực hiện luận văn thạc
sĩ với đề tài “Thực trạng QLGD kỹ năng sổng cho học sinh
từ các lực lượng giáo dục của hiệu trưởng các trường THCS


quận 11, thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả Lê Thị Thanh
Xuân nghiên cứu đề tài luận văn “Quản lý GDKNS cho học
sinh thông qua hoạt động dạy học ở trường THCS thành
phố ng Bí, tỉnh Quảng Ninh”, tác giả Lương Thị Hằng
nghiên cứu luận văn với đề tài “Biện pháp quản lý hoạt
động giáo dục, giá trị sống, kỹ năng sống cho HS ở trường
THPT Nam Phù Cừ tỉnh Hưng Yên”, tác giả Phạm Thị Nga
nghiên cứu luận án với đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục
giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh các trường THCS
trong bối cảnh đổi mới giáo dục”.... Thông qua các kết quả
nghiên cứu thực tiễn, các tác giả một lần nữa khẳng định vai
trò và ý nghĩa của việc giáo dục kĩ năng sống và giá trị sống
cho học sinh. Đồng thời, các biện pháp quản lý nhằm nâng
cao chất lượng của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
cũng được đề xuất.
Theo đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa được
Quốc hội khóa XIII, kì họp 8 thơng qua, chương trình sách
giáo khoa cần được cải cách theo hướng kết hợp các mơn
học trình thống với tích hợp một số nội dung nhằm giảm áp
lực kiến thức trên lớp, tăng thời gian hoạt động trải nghiệm
ngoài nhà trường nhằm giúp học sinh gắn kiến thức nội
dung chương trình học với thực tế xã hội.
“Sự thay đổi chương trình giáo dục phổ thông theo



định hướng phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người
học, theo đó nhấn mạnh phương thức giáo dục qua các hoạt
động trải nghiệm thay cho tên gọi hoạt động giáo dục ngồi
giờ lên lớp và nói đến HĐTN bao gồm cả HĐTN trong q
trình dạy học các mơn học” [3]
Trong tạp chí Khoa học giáo dục số 113, 115 năm
2015 tác giả Bùi Ngọc Diệp [7] có bài “Hình thức tổ chức
các HĐTN trong nhà trường phổ thông”', tác giả Đỗ Ngọc
Thống [31] có bài viết: “HĐTN từ kinh nghiệm giáo dục
quốc tế và vấn đề của Việt Nam”; Tại hội thảo khoa học
quốc tế và giáo dục theo năng lực tổ chức tại Học viện
QLGD vào tháng 4 năm 2015, tác giả Đinh Thị Kim Thoa
[30] có bài “Xây dựng chương trình HĐTN trong chương
trình giáo dục phổ thông”... Trong các nghiên cứu, những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức hoạt động trải nghiệm
như vị trí, vai trị, nội dung, hình thức tổ chức cũng như
kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã được làm sáng
tỏ. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nhận định và nghiên cứu
hướng vận dụng phù hợp với thực tế giáo dục của Việt
Nam.
Tác giả Huỳnh Thị Thu Nguyệt nghiên cứu luận văn
thạc sĩ với đề tài “Quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp ở
các trường tiểu học quận Hải Châu, thành phổ Đà Nẵng


theo hướng tổ chức HĐTN”, tác giả Nguyễn Thị Kim Dung
và Nguyễn Thị Hằng có bài viết “Một số phương pháp tổ
chức HĐTN cho học sình phổ thơng”... Các nghiên cứu này
chủ yếu đề cập đến trách nhiệm của giáo viên và hướng dẫn

giáo viên cách thức tổ chức HĐTN cho học sinh, chưa
nghiên cứu thực trạng và đề xuất các biện pháp về việc
quản lý HĐTN.[30] [14]
Trong tài liệu tập huấn “Kỹ năng xây dựng và tổ chức
các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường trung
học” và tài liệu tập huấn “Kĩ năng xây dựng và tổ chức các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường tiểu học ” của
Bộ GD&ĐT, một số vấn đề như mục tiêu, nội dung, phương
pháp tổ chức HĐTN cho học sinh đã được đề cập [4]. Trong
mấy năm học gần đây, các trường tiểu học đã triển khai vận
dụng mơ hình trường học Việt Nam mới (VNEN). Điểm nổi
bật của mơ hình này là HS được tự trải nghiệm để chiếm
lĩnh tri thức. Vì vậy, HĐTN trở thành một nội dung khơng
thể thiếu trong chương trình giáo dục của nhà trường.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu cả lý thuyết và thực tiễn
về hoạt động trải nghiệm nhưng các nghiên cứu đánh giá
thực trạng triển khai cũng như quản lý hoạt động trải
nghiệm ở cấp độ trường học còn chưa phong phú.


Một số khái niệm cơ bản của đề tài
Quản lý
Quản lý là một hiện tượng có thuộc tính lịch sử, nó là
nội tại của q trình lao động. QL là một trong những loại
hình lao động quan trọng nhất và lâu đời của con người. Nó
phát triển khơng ngừng theo sự phát triển của xã hội. QL là
một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời
sống con người và là một nhân tố của sự phát triển xã hội.
Vì vậy lý luận về QL được hình thành và phát triển qua các
thời kỳ và các lý luận về chính trị, kinh tế và xã hội. Tuy

nhiên chỉ mới gần đây người ta mới chú ý đến “chất khoa
học” của quá trình QL và dần dần hình thành các “lý thuyết
QL”. Từ khi F.W.Taylor phát biểu các ngun lý về QL thì
QL nhanh chóng phát triển thành một ngành khoa học. “Bất
cứ một tổ chức một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền
kinh tế quốc dân, hoạt động của một doanh nghiệp, một
đơn vị hành chính sự nghiệp, đến một tập thể thu nhỏ như
tổ sản xuất, tổ chun mơn bao giờ cũng có hai phân hệ:
Người QL và đối tượng bị QL” [17]
Theo quan điểm của C.Mác: Bất cứ lao động nào của
xã hội hay cộng đồng ở một qui mô tương đối lớn đều cần ở


một chừng mực nhất định của hoạt động QL. QL là xác lập
sự tương hợp giữa công việc cá thể nhằm hoàn thành chức
năng chung, xuất hiện trong sự vận động của toàn bộ cơ chế
sản xuất khác với sự vận động đối với các bộ phận riêng lẻ
của nó [6].
Bản chất của QL là hoạt động lao động để điều khiển
lao động- một hoạt động tất yếu vô cùng quan trọng trong
q trình phát triển của xã hội lồi người. Nó bắt nguồn từ
lao động và có ý nghĩa lịch sử, vĩnh hằng với tư cách là một
loại hình lao động để điều khiển mọi hoạt động xã hội về
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục… Các loại hình lao
động ngày càng phong phú, phức tạp thì hoạt động QL ngày
càng có vai trị quan trọng và những chức năng đặc biệt bởi
lẽ: Do lao động mà sinh ra QL- QL là nội tại của lao động.
Có nhiều quan điểm khác nhau về QL tùy thuộc vào
các cách tiếp cận, góc độ nghiên cứu và hồn cảnh xã hội,
kinh tế, chính trị. Có thể điểm qua một số lý thuyết đó như

sau:
F.W.Taylor (1856-1915), người được mệnh danh là
cha đẻ của lý luận quản lý khoa học, đã cho rằng cốt lõi
trong QL là: “Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải


chun mơn hóa và phải QL chặt chẽ”. “QL là nghệ thuật
biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế
nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất” [17,tr.89].
Henry Fayol (1841- 1925), cha đẻ của thuyết hành
chính thì lại coi QL là một loại công việc đặc thù, khác với
các loại công việc khác của xí nghiệp và trở thành một hệ
thống độc lập, phát huy tác dụng riêng của nó mà các hệ
thống khác của xí nghiệp khơng thể nào thay thế được. Ông
nói về nội hàm của khái niệm QL như sau: “QL tức là lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” [17,tr 59]
Năm yếu tố trên đã tồn tại như những chuẩn mực được tuân
theo một cách phổ biến trong QL hiện đại.
Nghiên cứu về khoa học quản lý, các tác giả Nguyễn
Thị Mỹ Lộc cho rằng: “QL là quá trình đạt đến mục tiêu của
tổ chức bằng cách vận động các chức năng kế hoạch hóa, tổ
chức chỉ đạo và kiểm tra”. Hoạt động QL là “tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể QL (người bị QL)trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt
được mục đích của tổ chức” [24, tr.2]
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “QL là một q
trình định hướng, q trình có mục tiêu, QL có hệ thống là


quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng

thái mới của hệ thống mà người QL mong muốn” [20, tr.16]
Như vậy, những định nghĩa trên đây tuy khác nhau về
cách diễn đạt, về góc độ tiếp cận, nhưng các định nghĩa đều
đề cập đến bản chất chung của khái niệm QL đó là:
+ QL là sự tác động có mục tiêu rõ ràng.
+ QL là sự tác động qua lại, tương hỗ giữa chủ thể và
khách thể QL.
+ QL là tác động chủ quan của nhà quản lý nhưng phải
đảm bảo quy luật khách quan để mang lại hiệu quả.
Quản lý nhà trường
Trường học là một đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ thống
giáo dục quốc dân, là nơi trực tiếp thực hiện hoạt động giáo
dục và đào tạo. Khái niệm quản lý nhà trường đã được các
nhà lý luận quản lý giáo dục giải thích như sau:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vân hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu


đào tạo với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”
[18]
Trong luận văn này tác giả sử dụng khái niệm“Quản lý
trường học là lao động của các cơ quan quản lý nhằm tập
hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các
lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các
nguồn lực giáo dục để nâng cao giáo dục và đào tạo trong
nhà trường” để nghiên cứu đề tài này.
Dù theo tiếp cận nào thì quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường đều nhằm thực hiện các mục đích chính sau:

Thứ nhất, bảo đảm thực hiện tốt các kế hoạch phát
triển và hoàn chỉnh hệ thống giáo dục;
Thứ hai, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của
nhà trường, cơ sở giáo dục theo quan điểm, đường lối giáo
dục của Đảng, thực hiện đầy đủ kế hoạch đào tạo, chương
trình, nội dung và phương pháp giáo dục trên cơ sở phát
huy vai trò định hướng, dẫn dắt, cố vấn của người dạy, tính
tích cực chủ động sáng tạo của người học;
Thứ ba, bảo đảm việc huy động các nguồn lực để phát
triển giáo dục;


Thứ tư, tạo nên và đảm bảo sự cân đối giữa nhiệm vụ
giáo dục và các điều kiện vật chất cho việc thực hiện.
Hoạt động giáo dục
Khái niệm hoạt động giáo dục
Giáo dục là một hoạt động mang tính lịch sử - xã hội
và là hoạt động đặc thù, là mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt
động nhà trường.
Hoạt động giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là quá trình
truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của các thế
hệ lồi người. Như vậy, hoạt động giáo dục có thể diễn ra
mọi nơi, mọi lúc, giữa mọi đối tượng với nhau. Tuy nhiên,
theo nghĩa hẹp, hoạt động giáo dục là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch của người dạy lên người học nhằm đạt
được mục tiêu giáo dục. Đó là phát triển nhân cách của
người học đáp ứng yêu cầu của xã hội. Hoạt động giáo dục
là hoạt động bản chất, đặc thù của nhà trường, được tổ chức
một cách chuyên biệt trong nhà trường.
Hoạt động giáo dục bao gồm nhiều hoạt động được tổ

chức thông qua các hình thức khác nhau nhằm đạt mục tiêu
giáo dục. Hoạt động giáo dục diễn ra song song giữa việc
dạy và học trên lớp và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp.


Bản chất của hoạt động giáo dục
Từ khái niệm nêu trên, có thể rút ra bản chất của hoạt
động giáo dục như sau:
Hoạt động giáo dục là quá trình sư phạm hay là sự tác
động có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa
học của đội ngũ nhà giáo trong nhà trường tới người học
nhằm giúp người học phát triển nhận thức, hành vi xã hội,
hình thành nhân cách toàn diện.
Hoạt động giáo dục thực chất là quá trình xã hội hóa
con người một cách có chủ định giúp con người đáp ứng và
thích ứng với hồn cảnh, môi trường một cách chủ động và
hiệu quả.
Một số vấn đề lí luận về hoạt động trải nghiệm
trong dạy mơn tự nhiên xã hội
Hoạt động trải nghiệm
Khái niệm hoạt động trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm trong nhà trường cần được hiểu
là “hoạt động có mục đích, có đối tượng để chiếm lĩnh,
được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của HS, được thực
hiện trong thực tế, được sự định hướng, hướng dẫn của nhà
trường. Đối tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn. Qua
trải nghiệm thực tiễn, người học có được kiến thức, kỹ
năng, tình cảm và ý chí nhất định.” [3] [4]



Theo tài liệu tập huấn kỹ năng xây dựng và tổ chức
các HĐTNST trong trường tiểu học và trung học của Bộ
GD&ĐT thì: “HĐTNST là hoạt động giáo dục, trong đó,
dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá
nhân HS được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong môi
trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội,
qua đó phát triển tình cảm, đạo đức phẩm chất nhân cách,
các năng lực và tích lũy những kinh nghiệm riêng cũng như
phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.”[3] [4]
Theo tài liệu “Chương trình giáo dục phổ thơng Chương trình tổng thể” ban hành tháng 7 năm 2017 của Bộ
Giáo dục & Đào tạo thì “Hoạt động trải nghiệm là hoạt
động giáo dục bắt buộc, trong đó học sinh dựa trên sự huy
động tổng hợp kiến thức và kỹ năng từ nhiều lĩnh vực giáo
dục khác nhau để trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường,
gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt
động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của
nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu,
năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc thù của
hoạt động này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động,
năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với
những biến động trong cuộc sống và các kỹ năng sống
khác.”


Những khái niệm trên đã khẳng định “vai trò chủ đạo
của nhà giáo dục đối với HĐTN, tính tham gia trực tiếp,
chủ động tích cực của học sinh; phạm vi các chủ đề hay nội
dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn,
phẩm chất và tiềm năng sáng tạo; và hoạt động là phương

thức cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân cách con
người.” [3] [4]
Vị trí, vai trị của hoạt động trải nghiệm ở bậc tiểu
học
Vị trí
“Trong q trình dạy học, ngồi việc truyền thụ những
tri thức khoa học cơ bản và có hệ thống cịn phải ln mang
lại hệ quả giáo dục nhân cách cho người học. Ngược lại,
trong quá trình giáo dục, bên cạnh việc hình thành thế giới
quan khoa học, bản lĩnh chính trị vững vàng, thái độ ứng xử
đúng đắn trong các quan hệ giao tiếp hàng ngày các nhà
giáo dục còn phải tạo cơ sở để người học bổ sung, hoàn
thiện và được trải nghiệm một cách sống động những tri
thức đã học ở trên lớp thông qua các hoạt động thực tế” [3].
Kết quả giáo dục cuối cùng được đánh giá qua nhận
thức, hành vi, kỹ năng của người học. Nếu chỉ qua việc học
tập các môn học ở trên lớp thì việc hình thành lý tưởng cách
mạng hay rèn luyện các kỹ năng sẽ gặp nhiều khó khăn. Bởi


với thời gian quy định hạn hẹp của những tiết học trên lớp,
người học khó có khả năng thể nghiệm những tri thức thu
nhận được. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động thực tế khác
nhau vào thời gian ngoài giờ lên lớp là điều kiện quan trọng
để hoàn thiện nhân cách người học.
Như vậy, tổ chức HĐTN thực sự là cần thiết, là một
đòi hỏi tất yếu của quá trình giáo dục và khơng có gì có thể
thay thế được. Có thể nói, HĐTN đối với mọi lứa tuổi nói
chung và đối với học tiểu học nói riêng chiếm một vị trí
quan trọng trong q trình giáo dục.

*Vai trị
Từ vị trí quan trọng nêu trên, có thể thấy rõ vai trò của
HĐTN thể hiện ở những điểm sau:
Qua quá trình tham gia HĐTN người học có thể biến
tri thức thành niềm tin. Thơng qua hình thức hoạt động cụ
thể, người học có dịp để đối chiếu, để kiểm nghiệm tri thức
đã học, bổ sung, cập nhập thông tin làm cho tri thức đó trở
thành của chính họ. HĐTN với nhiều nội dung hấp dẫn,
kiến thức tích hợp nhiều lĩnh vực khoa học và cuộc sống có
tác dụng bổ trợ cho hoạt động ở trên lớp, nâng cao hiểu biết
về các giá trị truyền thống của dân tộc, củng cố lập trường
tư tưởng chính trị, từ đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc và
mong muốn được cống hiến.


HĐTN vừa củng cố, vừa phát triển quan hệ giao tiếp
giữa các học sinh và với cộng đồng xã hội, góp phần giáo
dục tinh thần hợp tác vì mục tiêu chung. Để thực hiện tốt
các HĐTN đòi hỏi tập thể người học phải có sự hợp tác,
đồn kết giúp đỡ nhau cùng hồn thành nhiệm vụ, phải có
sự tương tác giữa các thành viên.
HĐTN có khả năng phát huy tiềm năng giáo dục trong
mọi hoạt động cả trong và ngoài nhà trường. Bên cạnh đó,
những khả năng của người học cũng được bộc lộ trong môi
trường đa dạng, linh hoạt và sinh động.
HĐTN phát huy những tố chất cá nhân của người học
một cách tích cực bởi thơng qua hoạt động trải nghiệm, học
sinh được hoạt động, thực hành từ đó, những năng lực,
hứng thú có cơ hội bộc lộ. HĐTN cũng góp phần hạn chế
học sinh tham gia vào các hoạt động thiếu lành mạnh hay tự

phát.
Vai trò quan trọng nhất của HĐTN là góp phần phát
triển trí tuệ, cảm xúc, nhu cầu và hứng thú đối với những
hoạt động nhất định. Nói cách khác, hoạt động trải nghiệm
giúp khai thác nguồn tài nguyên con người một cách chủ
động, tích cực và sang tạo.
Với vị trí và vai trị to lớn đó HĐTN là hoạt động
khơng thể thiếu trong chương trình giáo dục ở bậc tiểu học


nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục học đi đôi với hành, gắn
lý thuyết với thực tiễn và nhà trường với xã hội.
Nguyên tắc lựa chọn nội dung của hoạt động trải
nghiệm
Nguyên tắc phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước.
Nội dung của HĐTN phải phản ánh được những thay đổi
của quê hương đất nước trong giai đoạn CNH - HĐH hiện
nay. Đây là những chất liệu sống động giúp người học nâng
cao thêm hiểu biết về sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hố,
chính trị của địa phương, của đất nước, đồng thời có thêm
thơng tin về bạn bè quốc tế. Vì vậy, khi xây dựng và sắp
xếp nội dung hoạt động của từng chủ điểm giáo dục cần cập
nhập thông tin mới để đưa vào hoạt động cụ thể.
Nguyên tắc đảm bảo phát triển tính tích cực, độc lập,
sáng tạo của người học. Tính tích cực, độc lập, sáng tạo
được coi là những tiêu chí đánh giá khả năng tham gia hoạt
động, trình độ tự quản các hoạt động tập thể của người học.
Nguyên tắc sát đối tượng có nghĩa là nội dung của
HĐTN phải được lựa chọn phù hợp nhu cầu và khả năng
với đối tượng tham gia. Chính vì vậy, người tổ chức hoạt

động cần tìm hiểu đặc điểm của học học tiểu học để điều
chỉnh nội dung hoạt động cho phù hợp.


Hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn tự nhiên xã
hội ở tiểu học
Những nét cơ bản về đặc điểm tâm sinh lý học sinh
tiểu học
Đặc trưng tâm lý của học sinh tiểu học là sự hồn
nhiên, trong sáng và đang trong quá trình phát triển mạnh
mẽ cả về thể và trí lực đặt nền tảng cho q trình phát triển
các kĩ năng lao động sau này.
Về sự phát triển trí tuệ“đối với học sinh tiểu học thì
các cơ quan cảm giác đều phát hiển và đang trong q trình
hồn thiện. Tri giác gắn với hành động trực quan và cuối
cấp tiểu học thì tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm. Tư duy
mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực
quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ
thể sang tư duy trừu tượng khái quát.” [49]
Trong thực tế, “học sinh tiểu học rất thích tham gia
vào các hoạt động mới, mang màu sắc, tính đặc biệt khác lạ
so với bình thường. Một trong những cách để các nhà giáo
dục phát triển tư duy và nhân cách của các em là thu hút các
em vào các hoạt động tập thể, các hoạt động gắn với thực tế
cuộc sống xung quanh các em. Hơn nữa, học sinh tiểu học
vừa chuyển từ bậc học mầm non với hoạt động chính là vui
chơi, lên cấp tiểu học hoạt động chính là học tập. Do đó,


ngồi những giờ học, các em rất thích được tham gia vào

các hoạt động, nhất là các hoạt động trải nghiệm trong thực
tế vì chính những hoạt động này sẽ giúp thỏa mãn nhu cầu
hoạt động, tìm hiểu, khám phá cuộc sống xung quanh, tính
hiếu động của các em” [6].
Đặc điểm môn tự nhiên và xã hội ở cấp tiểu học
Đối với bậc tiểu học, môn tự nhiên và xã hội có ý
nghĩa đặc biệt góp phần quan trọng trong hình thành nhân
cách tồn diện cho trẻ bởi mơn học này cung cấp cho trẻ nội
dung kiến thức tổng hợp về thế giới và con người cũng như
những kĩ năng vận dụng lý thuyết để lý giải và giải quyết
các vấn đề trong thực tiễn. Theo đó, mơn tự nhiên xã hội
được xây dựng nhằm giúp học sinh đạt được một số mục
tiêu cụ thể như sau:
Về kiến thức: trẻ có những hiểu biết cơ bản, cần thiết
về con người và sức khoẻ (ví dụ: cơ thể người, cách giữ vệ
sinh và phòng tránh một số bệnh tật, tai nạn thường gặp); và
các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
Về kĩ năng: bước đầu hình thành cho trẻ các kĩ năng
cơ bản, cần thiết như chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của bản
thân; phịng tránh một số bệnh tật, tai nạn; biết quan sát,
nhận diện, phân tích và lý giải các sự vật hiện tượng tự


×