Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nhung kinh nghiem khi viet mot sang kien kinh nghiem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.34 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHỮNG KINH NGHIÊM KHI VIẾT MỘT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM</b>
<b>GIÁO DỤC</b>


Nhiều tài liệu về “phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục” đã đề
cập đến các nguyên tắc, phương pháp luận, phương pháp... làm đề tài. Nhưng
thực tiễn cho thấy có nhiều giáo viên vẫn cịn lúng túng trong việc viết một
sáng kiến kinh nghiệm giáo dục (SKKNGD), có nhiều giáo viên vẫn thường
thắc mắc: “Chúng tôi làm được (tức là thực hiện nhiệm vụ được giao có kết quả
tốt, có thành tích), nhưng khơng biết trình bày, khơng viết ra được”.


Vậy muốn viết một bản SKKNGD, nói cách khác là đúc kết được những
việc làm của mình đạt kết quả tốt, giáo viên cần nắm được cách thức thực hiện
qui trình sau:


<b> 1-Chọn đề tài:</b>


Đọc các bản SKKNGD lâu nay, thường có tình trạng đề tài được chọn có
nội hàm quá rộng, vượt quá khả năng và thực tế tác giả đã làm, nên nội dung
SKKN chưa thể hiện đầy đủ yêu cầu của đề tài. Do đó, bản SKKN đó trở thành
hời hợt, chung chung, thậm chí chép lại những tài liệu người khác đã nghiên
cứu, đề xuất...


<i>Vậy căn cứ vào đâu để chọn đề tài SKKNGD và chọn như thế nào cho</i>
<i>thích hợp ?Đó là hai vấn đề giáo viên đang đặt ra.</i>


<i><b> Trước hết là căn cứ vào đâu để chọn đề tài SKKNGD ?</b></i>
<b> Có mấy căn cứ sau:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

học tập môn TV của học sinh lớp 5 trường TH Số 3 Nam Phước” hoặc “Những
biện pháp giảng dạy môn TV lớp 5 trường TH Số 3 Nam Phước đạt kết quả
tốt”...



- Đề tài SKKN cũng có thể rút ra từ những vấn đề mà giáo viên thấy lý
thú, tâm đắc, muốn tìm cách thực hiện, giải quyết.


Thí dụ: Trường ở trên một địa phương có nhiều di tích lịch sử. Giáo viên
rất muốn tổ chức, hướng dẫn học sinh lớp mình tham quan, tìm hiểu, để mở
rộng kiến thức, giáo dục đạo đức... cho các em. Giáo viên có thể xác định tên đề
tài: “Tổ chức, hướng dẫn học sinh lớp 5 tham quan tìm hiểu di tích lịch sử địa
phương như thế nào, để giáo dục các em lòng tự hào, yêu quê hương đất
nước ?” hoặc: “Mở rộng kiến thức lịch sử cho học sinh lớp 5 trường TH Số 3
Nam Phước, bằng cách tổ chức cho các em tham quan, tìm hiểu các di tích lịch
sử địa phương”... Khi đã có đề tài rồi thì giáo viên đầu tư suy nghĩ, tìm ra
những biện pháp thực hiện. Cuối cùng thấy đạt được kết quả cụ thể, rõ rệt, thì
đề tài trở thành một SKKN, cần đúc kết.


- Cũng có thể đề tài là những vấn đề nêu lên trong nhiệm vụ năm học mà
yêu cầu giáo viên phải thực hiện. Thí dụ một số vấn đề hiện nay ngành Giáo
dục đang đặt ra là: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, hoặc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh hoặc phát huy năng lực tự học của học sinh.... Giáo viên có thể dựa vào đó
để đưa ra những đề tài có nội dung cải tiến phương pháp dạy học, phương pháp
công tác, làm sao khắc phục được thói quen “Thầy đọc, trị chép” trong các giờ
giảng trên lớp, phát huy tối đa tính độc lập, sáng tạo của học sinh, khai thác
được các khả năng tiềm tàng cụ thể của trẻ, mà cách học cũ đã kìm hãm, biết
lấy sự tiến bộ của học sinh làm thước đo hiệu quả giáo dục bản thân...


<b>Bây giờ chúng tôi đề cập đến vấn đề thứ hai: “Làm cách nào để chọn</b>
<b>được đề tài thích hợp ? ”.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

viết về trình độ hiểu biết, về thời gian, kinh phí và nhất là về nội dung giáo dục


thực tế đã đạt được... thì người ta gọi là đề tài chưa thích hợp.


Phương pháp lập mơ hình theo hiểu hình tháp sau đây, sẽ giúp giáo
viên có thể tự chọn cho mình các đề tài SKKN thích hợp:


Thoạt đầu, giáo viên nêu lên vấn đề giáo dục mà mình quan tâm,
căn cứ vào thực trạng đối tượng học sinh, cần tìm cách giải quyết. Sau đó giáo
viên chia vấn đề này thành các vấn đề có nội dung hẹp hơn và cứ tiếp tục chia
cho đến khi nào thấy vấn đề đặt ra đã phù hợp, thì chọn vấn đề đó làm đề tài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

học tập của học sinh Tiểu học ở trên lớp, ở nhà, trong giờ nội khoá hay ngoại
khố...”.


Vấn đề mới vẫn đang cịn q rộng, nên chúng ta lại “chẻ ” nhỏ thành các
nhánh Ah1I1, Ah2I2... AhnIn. Vấn đề bây giờ sẽ là: “Phát huy tính tích cực học


tập trên lớp (hoặc ở nhà, nội khoá hay ngoại khoá...), của học sinh lớp 3, lớp 4,
hay lớp 5”...


Trong thực tế, vấn đề vừa được giới hạn vẫn cịn rộng, chưa thích hợp đối
với giáo viên, nên chúng ta lại phân thành những nhánh nhỏ: Ah1I2M1,


Ah1I2M2 ... Ah1I2Mn. Ký hiệu này đã diễn đạt thành vấn đề: “Phát huy tính tích


cực học tập của học sinh phổ thông ở trên lớp, (ở nhà, trong giờ nội khoá hay
ngoại khoá...), của học sinh lớp 3, lớp 4, hay lớp 5 về bộ mơn Tốn, Văn ....


Đến đây, vấn đề A đã được giới hạn thành nhiều vấn đề nhỏ. Giáo viên
có thể chọn một trong rất nhiều vấn đề nhỏ trên một đề tài nghiên cứu KHGD,
hoặc SKKN của mình. Giáo viên cần sắp xếp, chọn lọc các từ ngữ sao cho


chính xác, gọn ghẽ, chặt chẽ, để đặt tên cho đề tài.


Nhưng có giáo viên thấy các nhánh sơ đồ trên biểu diễn các vấn đề còn
quá rộng, chưa phù hợp với khả năng, trình độ, thời gian, phương tiện hoặc
phạm vi cơng tác của mình, thì họ có thể tiếp tục phân thành các nhánh nhỏ
hơn. Chẳng hạn I1, I2...In, nghĩa là đi vào từng chương, từng bài hoặc từng lớp


học cụ thể, phân thành nhánh nhỏ m’


1, m’2... m’n có thời hạn hẹp...


Cuối cùng sơ đồ đã phân ra rất nhiều nhánh. Cuối cùng là một vấn đề đã
được giới hạn khá hẹp và cụ thể, giáo viên có thể chọn lấy một trong số các vấn
đề đó cho thật phù hợp làm đề tài SKKN hoặc NCKHGD.


Kiểu sơ đồ trên hoặc bất cứ kiểu sơ đồ nào khác, cũng cần phải tuân thủ
nguyên tắc thiết lập sau: tất cả các nhánh, các bậc đều phải xoay quanh nội
dung vấn đề chung đầu tiên nêu ra, không được để nội dung các vấn đề ở các
nhánh nhỏ, bậc dưới, mâu thuẫn với nội dung của nhánh trên, bậc trên. Đồng
thời sơ đồ phải đảm bảo chặt chẽ tính lơgíc và tính hệ thống của nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

dung chung chung, mơ hồ, mà các Hội đồng KHGD thường gặp khi xét duyệt,
xếp loại.


<b>2. Gợi ý khi thực hiện nội dung đề tài:</b>
<i><b> - Phân tích rõ ý nghĩa của đề tài:</b></i>


+ Đề tài nhằm thực hiện nội dung nào của nhiệm vụ năm học, mục tiêu
cấp học ?



+ Nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc nào của chất lượng giáo dục
của lớp, của trường, hay của địa phương ?


+ Thực hiện tốt đề tài này, hoặc SKKN nhằm mục đích đưa lại những
hiệu quả thực tiễn nào về giáo dục hoặc về kinh tế, xã hội (nếu tác giả: có thể
chỉ ra được).


<i><b> - Điều kiện thực hiện đề tài:</b></i>


+Nêu những đặc điểm, khả năng, thuận lợi, khó khăn khi thực hiện đề tài
(của bản thân tác giả, của đối tượng học sinh, của địa phương, trường lớp). Một
đề tài SKKN cần nêu phần này, nhằm giúp các HĐKH khi đánh giá, xếp loại
thấy rõ hơn mức giá trị của nó, trong điều kiện thực tế cụ thể như thế nào. Đồng
thời, cần thiết hơn, là khi người khác học tập, vận dụng, cũng phải tính đến
những điều kiện thực tế đó, thì mới hy vọng đạt được kết quả. Lâu nay có một
số SKKN tốt của cá nhân, đơn vị giáo dục này, nhưng khi học tập, áp dụng đơn
vị, cá nhân khác lại không thu được kết quả. Có nhiều nguyên nhân chi phối,
trong đó có nguyên nhân SKKN đó được hình thành trong điều kiện nào đó, mà
khi vận dụng, người khác lại khơng có.


<i><b> - Thực trạng ban đầu của đối tượng:</b></i>


Sở dĩ trong các bản SKKN cần phải có phần này là giúp tác giả xác định
thật rõ những điểm yếu kém, những tồn tại cụ thể của học sinh, để đề ra những
giải pháp được “Trúng đích”. Đồng thời để sử dụng nó làm đối chứng, so sáng
với kết quả đạt được cuối cùng, nhằm khẳng định hiệu quả giáo dục của SKKN.
Muốn mô tả thực trạng ban đầu một cách khoa học, tác giả cần thực hiện
mấy việc sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

lớp”. Trước hết tác giả cần nêu rõ tiêu chí của hứng thú học tập mơn tốn ở trên


lớp ?”.


Chẳng hạn: Học sinh đi học đầy đủ, hào hứng phát biểu xây dựng bài, tập
trung chú ý cao, học bài làm bài đạt kết quả tốt, thích tham gia các buổi ngoại
khố về mơn tốn...


Tiêu chí được tác giả xác định càng đầy đủ, chính xác và cụ thể bao
nhiêu, thì lựa chọn được các biện pháp giải quyết càng xác đáng, “Trúng đích”
bấy nhiêu. Hiệu quả cuối cùng mà bản SKKN trình bày cũng tăng thêm độ tin
cậy và sức thuyết phục hơn.


- Tác giả cần điều tra cơ bản ban đầu, để có số liệu chính xác về các tiêu
chí đã xác định. Chẳng hạn ở đề tài trên, tác giả phải chỉ ra được một cách định
lượng trong các giờ học toán trên lớp trung bình có bao nhiêu học sinh vắng
mặt, ngủ gật, không chú ý hoặc giả vờ chú ý, không chuẩn bị bài ở nhà, điểm số
(kiểm tra chất lượng, học bài...) bao nhiêu...


<i><b> - Những biện pháp giáo dục (hoặc tác động sư phạm).</b></i>


Đây là phần chủ yếu, có số trang nhiều nhất của một bản SKKNGD. Cụ
thể là:


- Ghi rõ từng biện pháp. Thường thường là một hệ thống nhiều biện
pháp, tác giả đã tìm tịi, suy nghĩ để sử dụng nó như là các tác động sư phạm,
nhằm biến đổi từng mặt của đối tượng (hay từng tiêu chí) theo chiều hướng phát
triển.


- Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của từng biện pháp. Tác giả
nên chứng minh biện pháp giáo dục được sử dụng và dựa trên cơ sở lý luận, đã
được các nhà khoa học nghiên cứu, công bố trên các tác phẩm nào mà tác giả đã


đọc, đã học được trong trường sư phạm, hoặc ghi chép được trong các lớp bồi
dưỡng chuyên đề ?... Tác giả cũng cần chỉ ra biện pháp giáo dục đó đã xuất phát
từ thực tế nào của đối tượng, đặc điểm tâm lý, sinh lý, hoàn cảnh sinh sống, học
tập của học sinh...


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Nêu ý kiến, kinh nghiệm người khác chưa in thành sách, thì ghi thu thập ở đâu,
ai cung cấp...


Phân tích cơ sở lý luận và nhất là cơ sở thực tiễn từng biện pháp của một bản
SKKN là một nội dung hết sức quan trọng, thể hiện trình độ sư phạm, khả năng
tìm tịi, sáng tạo, chứ khơng làm một cách hú hoạ, mò mẫm, được chăng hay
chớ của tác giả. Đây là phần nội dung, được các Hội đồng KHGD xem xét để
đánh giá, xếp loại chất lượng của từng bản SKKN.


Sau đây là một thí dụ minh hoạ. Trong bài: “Nâng cao chất lượng giờ học
ở nhà của học sinh phổ thông”, tác giả bài viết đề xuất nhiều biện pháp trong đó
có biện pháp: “Phụ huynh không nên làm ồn, sai vặt, tắt đèn... khi con cái đang
học”. Đây là một kinh nghiệm đã được nhiều giáo viên đề cập đến, song chỉ
mới dừng lại ở mức cảm tính, trực giác. Tác giả đã biết nâng lên thành một tác
động sư phạm, có tính khoa học, bằng cách thực hiện các yêu cầu đã nêu trong
mục (b4) ở trên. Trước hết tác giả xác định tiêu chí “Chất lượng học tập là sự
tập trung chú ý, khả năng tư duy, mức độ ghi nhớ... của học sinh. Nếu các yếu
tố trên giảm sút, thì chất lượng học tập cũng sẽ không đạt kết quả “.


Để phân tích cơ sở khoa học của biện pháp giáo dục trên, ngoài việc dẫn
một số lý luận đã được các sách tâm lý học, giáo dục học... đề cập, mà hầu hết
giáo viên đều đã được học trong nhà trường sư phạm, tác giả còn sử dụng một
số trắc nghiệm đơn giản sau: chia học sinh ra làm 2 nhóm A và B cân bằng
nhau (cùng số lượng, cùng trình độ, số nam nữ bằng nhau, thời điểm giống
nhau... ).Tác giả cho nhóm A học thuộc một đoạn văn mới (các em chưa được


đọc), gồm 100 từ. Sau thời gian “t” yêu cầu học sinh ghi lại; ở nhóm B tác giả
cũng tiến hành như trên, nhưng khi các em đang học, thì tác giả nói chuyện to
(làm ồn), bảo các em làm việc khác (sai vặt) và thỉnh thoảng lại tắt đèn. Số thời
gian nhóm B bị phân tán trong học tập là “t”. Kết quả trong “t” giờ, nhóm A
nhớ được 48%. Cịn nhớm B trong t + t’<sub> giờ (tác giả bù thêm số thời gian bị</sub>


phân tán), các em cũng chỉ nhớ được 40,8%(đây là ví dụ).


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nhóm Sai các
phép tính


Sai bảng


nhân Sai lời giải


Thiếu lời
giải


không biết
cách làm


Thiếu thời
gian


A 8,2% 0% 24,6% 15,1% 12,3% 0%


B 83,1% 20,5% 28,7% 24,6% 45% 16,4%


Như vậy, nếu giáo viên biết viện dẫn một số lý luận KHGD, sử dụng
một vài phương pháp nghiên cứu đơn giản, để chỉ ra cơ sở khoa học và thực tế


của những biện pháp mình sử dụng, thì sẽ nâng cao hơn giá trị bản SKKN.


Cần lưu ý rằng không phải biện pháp nào cũng đều hoàn toàn mới mẻ, do
tác giả đề xuất lần đầu, mà thường đã được giáo viên khác, tác giả khác nói tới.
Song nhờ việc phân tích cơ sở thực tiễn của biện pháp, căn cứ vào đặc điểm cụ
thể nào (của đối tượng của hoàn cảnh...), để sử dụng biện pháp đó mà thể hiện
được sự sáng tạo của tác giả.


- Tuỳ theo tình hình thực tế, người viết có thể dẫn ra kết quả một hoặc
nhiều mặt, do từng biện pháp giáo dục đem lại. Để làm được việc này, tác giả
thường phải sử dụng ở một mức độ nhất định các phương pháp nghiên cứu
KHGD như: Trò chuyện với đối tượng, đồng nghiệp, quan sát, phỏng vấn bằng
phiếu, làm các trắc nghiệm đơn giản (ra các câu hỏi, bài tập, rồi đánh giá, chấm
điểm, so sánh...).


<i><b> - Kết quả cuối cùng:</b></i>


- Là kết quả tổng hợp tác giả thu được nhờ hệ thống những biện pháp
giáo dục đã sử dụng. Kết quả này được trình bày bằng các số liệu thật cụ thể,
chính xác. Có thể là con số, phần trăm, những lời đánh giá, nhận xét của học
sinh, đồng nghiệp phụ huynh, các cấp chỉ đạo...


Kết quả thường được thể hiện bằng các bảng thống kê, hình vẽ, đồ thị, các câu
trích dẫn...


- So sánh, phân tích kết quả đạt được cuối cùng cới thực trang ban
đầu. Khoảng chênh lệch giữa chúng theo chiều hướng phát triển càng lớn, thì
chứng tỏ hệ thống các biện pháp giáo dục có hiệu quả càng cao và bản SKKN
thực sự có giá trị.



<i><b> - Kết luận:</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Trong quá trình tiến hành các biện pháp giáo dục, có những thuận lợi,
khó khăn nào, chi phối kết quả của đề tài.


- So với yêu cầu, đề tài cịn có mặt nào, điểm nào chưa thực hiện được,
hoặc thực hiện chưa tốt.


</div>

<!--links-->

×