Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Giảng dạy bài lịch sử địa phương tại duy tích lịch sử (lê lợi và căn cứ lam sơn) cho học sinh ở trường THPT lê lợi (lớp 10 chương trình cơ bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.08 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢNG DẠY BÀI LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
TẠI DI TÍCH LỊCH SỬ: “ LÊ LỢI VÀ CĂN CỨ LAM SƠN”
CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT LÊ LỢI
( LỚP 10- CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN)

Người thực hiện: Trịnh Thị Hồi
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Lịch Sử

THANH HĨA, NĂM 2021

MỤC LỤC
Thứ tự

Nội dung
0

Trang


Phần mở đầu

1.
2.
3.


4.
5.

Nội dung sáng
kiến kinh
nghiệm

1.
2.
3.
4.

Kết luận, kiến
nghị

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của sáng kiến kinh
nghiệm
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh
nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
1. Kết luận
2. Kiến nghị


Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10- cơ bản, NXB Giáo dục
2. Sách giáo viên Lịch sử lớp 10- cơ bản, NXB Giáo dục
3. Việt Nam Sử lược (Quyển 1)
4. Đại Việt thông sử - NXB VHTT- 2007
5. Đại Việt Sử kí tồn thư – NXB KHXH Hà Nội
6 Lam Sơn thực lục
7. Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập I

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống đấu tranh anh hùng dựng nước và
giữ nước. Dấu vết và chứng tích lịch sử cịn lưu lại ở khắp các vùng miền trên cả
1


nước, đó là một minh chứng hùng hồn cho sự tồn tại đích thực của lịch sử dân
tộc. Việc giảng dạy lịch sử là nhằm tái hiện để giúp các em hiểu sâu hơn những
sự kiện, hiện tượng lịch sử diễn ra trong quá khứ, trên cơ sở đó giáo dục tư
tưởng, bồi dưỡng nhân sinh quan cách mạng cho các em. Học lịch sử là học
những gì diễn ra trong quá khứ nhưng phải gắn quá khứ với hiện tại và vận dụng
vào tương lai; phải biết gắn lịch sử dân tộc với lịch sử từng địa phương, vùng,
miền cụ thể.
Để đạt được mục tiêu trên, đồng thời nhằm tiến kịp và hội nhập với thế giới
về nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần XI của Đảng đã
xác định: " Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế" và " phát triến nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân..." Đổi mới căn bản, toàn diện

nền giáo dục quốc dân trong đó có đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng học
đi đôi với hành, lý thuyết với thực tiễn trong dạy học là một định hướng lớn của
Đảng và nhà nước, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm gây
hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, trên cơ sở đó nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.
Thực hiên chủ trương trên của Đảng, ngành giáo dục Thanh Hóa nói chung,
trường THPT Lê Lợi nói riêng đã và đang nỗ lực tiến hành đổi mới giáo dục sâu
rộng, trong đó then chốt là đổi mới hình thức, phương pháp dạy học ở tất cả các
bộ mơn.
Nói riêng về mơn Lịch sử, thực hiện đúng sự chỉ đạo của Sở giáo dục và
đào tạo Thanh Hố, bên cạnh các tiết chính sử, chúng tôi đã chủ động xây dựng,
đưa thêm các tiết học lịch sử địa phương phù hợp với thực tiễn của quê hương
mình vào chương trình ở tất cả các khối lớp. Mục đích là gắn lịch sử dân tộc với
lịch sử địa phương, từ đó khơi dậy niềm đam mê, u thích mơn học cũng như
giáo dục lịng tự hào về truyền thống quê hương cho học sinh. Trong nhiều năm
qua, thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong nhà trường phổ thơng cịn
những tồn tại: nội dung của nhiều bài lịch sử rất khơ khan, có quá nhiều sự kiện
nên chưa tạo được hứng thú học Lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một
cách rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ
giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, chỉ bó gọn trong phạm vi lớp
học, không tận dụng được những giá trị lịch sử hiện hữu được lưu giữ qua thời
gian như các di tích lịch sử, bảo tàng…
Trong phạm vi bài học Lịch sử địa phương, với địa bàn trường đóng ở vùng
nơng thơn, xa các bảo tàng lịch sử, cách mạng, nhưng lại đứng chân trên một
miền quê đã sản sinh nhiều anh hùng, gắn liền với những kì tích lịch sử - lại
càng tự hào hơn khi trường tôi được vinh dự mang tên vị anh hùng dân tộc Lê
Lợi, vì thế, tơi chọn bài Lich sử địa phương “Lê Lợi và căn cứ Lam Sơn” làm
đề tài nghiên cứu khoa học của mình. Qua đề tài này, tơi muốn giúp học sinh có
sự hiểu biết sâu sắc về một nhân vật lịch sử, một miền quê “địa linh nhân kiệt”
2



đã sáng lập một vương triều hiển hách trong lịch sử dân tộc có cội nguồn tự
vùng đất Thọ Xuân. Đồng thời, đề tài cũng nhằm góp phần phục vụ cho quá
trình giảng dạy của bản thân trong việc tiến hành đổi mới phương pháp dạy học
theo tinh thần của Nghị quyết 29 của BCHTW Đảng khóa XI.
2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, bản thân tôi mong muốn tìm cách áp dụng hình thức
dạy học mới, thay đổi không gian, cách thức tổ chức lớp học, trên cơ sở đó, góp
một phần nhỏ bé vào việc từng bước đổi mới phương pháp dạy học, khơi gợi sự
say mê u thích mơn Lịch sử của học sinh, tiến tới nâng cao chất lượng dạy và
học Lịch sử ở trường THPTLê Lợi.
Mặt khác, qua đề tài này, tôi cũng rất mong được quý đồng nghiệp trao
đổi, góp ý nhằm tìm ra phương pháp dạy học lịch sử một cách có hiệu quả nhất
cho từng bài Lịch sử cụ thể, để rồi từ đó tạo hứng thú và sự yêu thích mơn học
Lịch sử của chúng ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do thực tế được phân công dạy chủ yếu ở các lớp khối 10, nên phạm vi
thực hiện đề tài của tôi chỉ dừng lại ở việc áp dụng vào giảng dạy thực nghiệm
trên đối tượng học sinh thuộc khối 10, cụ thể là hai lớp 10A9 và 10A13.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác- Lênin, đề tài được thực hiện
dựa trên phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic, phương pháp quan sát, phát hiện , rút ra nhận xét, đánh giá... Phân tích
một số nội dung lịch sử trọng tâm của bài học bằng việc dựa trên những giá trị
lịch sử, những tài liệu, chứng tích, hiện vật được lưu giữ tại thực địa đất tổ Lam
Kinh.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
+ Về kiến thức: Ngoài kiến thức Lịch sử, học sinh có thể lĩnh hội, huy
động, bổ sung kiến thức nhiều môn khác nhau như Văn học, Địa lý, Giáo dục

công dân, Giáo dục Quốc phòng- An ninh…
+ Về phương pháp:
- Về phía giáo viên: Thầy cơ giáo khơng sử dụng phương pháp truyền
thống là thầy nói – trị nghe và ghi chép nữa, mà phải lấy học sinh là trung tâm,
chủ thể của hoạt động dạy- học.Thầy cơ chỉ đóng vai trị hướng dẫn, giúp đỡ học
sinh tự tìm tịi, lĩnh hội kiến thức mà thơi.
- Về phía học sinh: Khơng thụ động ngồi nghe, ghi chép một cách máy
móc, học sinh đã chủ động, tích cực và tự giác lĩnh hội, tìm tịi, bổ sung tri thức
cho bản thân bằng một chuyến đi, tự tìm hiểu, khám phá và cảm nhận.
+ Về thái độ: Việc thay đổi cách tổ chức lớp học, địa điểm, cách truyền thụ
(trong phòng học- thầy nói trị nghe) qua một chuyến đi- tại nơi thực địa, học
sinh được trải nghiệm thì các em sẽ rất hứng khởi, say mê trong tự tìm tịi và
lĩnh hội kiến thức bởi các em đang muốn khẳng định mình. Những thay đổi
tưởng chừng nhỏ nhặt đó sẽ dần hình thành và xây dựng cho các em tính độc
lập, chủ động, tích cực trong học tập và sáng tạo.
3


+ Hiệu quả: Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm đã đưa lại kết quả cao hơn,
một sự vượt trội được thể hiện thông qua kết quả bài kiểm tra và phiếu trắc
nghiệm nhanh mà tôi đã làm so sánh học sinh ở các lớp thực nghiệm và lớp đốí
chứng.
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của của sáng kiến kinh nghiệm
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của bài học lịch sử địa
phương, nhất là bài học ấy lại được thực hiện ngay tại di tích lịch sử Lam Sơnnơi lưu giữ những chứng tích minh chứng cho một sự kiện, một nhân vật được
lưu danh trong sử sách dân tộc nói chung và đất Thọ Xn nói riêng.
Mặt khác, trong tình hình giảng dạy lịch sử hiện nay khơng cịn có sức
hấp dẫn, lơi cuốn học sinh thì việc thay đổi cách dạy học bằng một buổi tham
quan dã ngoại, cho học sinh được quan sát trực tiếp địa thế, hiện vật sẽ có tác

dụng rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng môn học và dài hơn, ý nghĩa hơn
là khơi dậy ở các em niềm u thích mơn Lịch sử vốn đang bị xem nhẹ.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Với bộ môn Lịch sử, để đáp ứng yêu cầu đổi mới, chương trình sách giáo
khoa đã có những cải cách, tuy nhiên, vẫn nặng cung cấp kiến thức để thi cử,
quá nhiều sự kiện lịch sử, ít chú trọng vấn đề bồi dưỡng năng lực cho học sinh
Về phía giáo viên, dạy Lịch sử, cụ thể là dạy bài Lich sử địa phương “Lê
Lợi và căn cứ Lam Sơn” cơ bản mà Trường chúng tôi chọn này mới chỉ coi
nặng việc truyền thụ kiến thức, liệt kê sự kiện có trong sách giáo khoa của
chương trình chính sử, ít vận dụng kiến thức thực tiễn, những gí trị trực quan
sinh động vào bài học, thực tế là đã xem nhẹ việc giúp học sinh phát triến năng
lực cần thiết nhằm giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Hệ quả là người dạy sa
vào lối đọc chép, tiết dạy khô khan, thiếu sinh động, làm cho học sinh khơng
thích học Lịch sử.
Về phía học sinh: bài học Lịch sử địa phương nếu vẫn tổ chức trong phòng
học ở trường trở thành áp lực ghi nhớ máy móc, nặng nề, chỉ tồn là năm tháng
với sự kiện, học không gắn với thực tiễn, với kiến thức tổng hợp, điều này dẫn
tới bài Lịch sử địa phương chẳng khác gì một bài chính sử, học sinh sẽ thấy
nhàm chán, cứng nhắc. Chính những hạn chế của bộ môn, của áp lực học thuộc,
cộng với tác động của xã hội, của thời cuộc, vấn đề đầu ra đầu vào, những băn
khoăn từ nhiều năm nay là sẽ thi vào trường nào, ra trường sau này sẽ làm gì, ở
đâu...làm cho học sinh khơng cịn u thích và lựa chọn mơn Lịch sử nữa.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Thực hiện đề tài này, tôi đã chuẩn bị nghiêm túc và chu đáo qua các
bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch báo cáo với Ban giám hiệu, xin ý kiến chỉ đạo về một
số vấn đề sau:
+ Đề xuất thời gian thực hiện đề tài
4



+ Thời lượng tổ chức bài học trong một buổi.
+ Địa điểm học tại chính đất tổ Lam Sơn- Thọ Xuân.
+ Đối tượng: học sinh 2 lớp 10A9 và 10A13.
Bước 2: Chuấn bị của giáo viên và học sinh:
* Về phía giáo viên:
+ Địa điểm học tập: Khu di tích Lam Kinh (Xuân Lam- Thọ Xuân- Thanh
Hoá) gồm một số địa điểm chủ yếu: Đề thờ vua Lê Thái Tổ, Lăng mộ Vua, Nhà
bia Vĩnh Lăng, núi Mục sát bờ sông Chu…
+ Giáo viên liên hệ trước với cán bộ ban quản lý và hướng dẫn khu di tích
Lam Kinh.
+ Xin nhà trường hỗ trợ một phần kinh phí cùng phụ huynh học sinh
+ Liên hệ phương tiện di chuyển- hợp đồng nhà xe, được Ban giám hiệu và
phụ huynh đồng ý.
* Về phía học sinh:
- Nhiệm vụ chung cả lớp:
+ Sưu tầm một số tài liệu, tranh ảnh, mẫu chuyện về đề tài nghiên cứu.
+ Nắm vững thời gian, địa điểm tập trung tại trường.
- Nhiệm vụ các nhóm:
Nhóm 1: Tìm hiểu về thân thế - sự nghiệp của Lê Lợi.
Nhóm 2: Tìm hiểu về khu di tích Lam Kinh
Bước 3: Sau khi giao nhiệm vụ cho các nhóm, bản thân tôi vừa đôn đốc,
nhắc nhở, kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh, vừa bắt tay vào soạn giáo án.
3.2 Trong giáo án, tôi cũng thể hiện đầy đủ các mục, các bước lên lớp.
A. Mục tiêu bài học:
1. Về kiến thức: Yêu cầu học sinh cần nắm được:
- Những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp của anh hùng dân tộc Lê Lợi- người
con ưu tú của đất Lam Sơn- Thọ Xuân- Thanh Hoá.
- Tai sao Lê Lợi và nghĩa quân lại chọn Lam Sơn cũng như miền Tây Thanh
Hoá làm căn cứ trong những ngày dầu dựng cờ khởi nghĩa.

2. Về kỹ năng:
- Rèn luyện các kỹ năng tư duy, quan sát, miêu tả, kể chuyện, phân tích, so
sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện, vấn đề lịch sử.
- Biết liên hệ, rút ra bài học kinh nghiệm.
3. Về thái độ:
- Tiếp tục bồi dưỡng lòng tự hào, khâm phục, biết ơn đối với các thế hệ tiền
nhân.
- Tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông xưa, niềm tin vào
sự lãnh đạo của Đảng hơm nay.
- Ý thức được vai trị, trách nhiệm của bản thân.
B. Thiết bị, tài liệu dạy học.
- Học sinh: Chuẩn bị bài ở nhà, chuẩn bị phần kiến thức giáo viên đã giao.
- Giáo viên: + Chuẩn bị giáo án
+ Tài liệu tham khảo trong SGV và Phần đọc thêm SGK.
5


+ Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập I
C. Tiến trình tổ chức dạy học:
1/ Đặt vấn đề (Giới thiệu bài học).
2/ Giải quyết vấn đề (Bài giảng).
3/ Sơ kết bài học.
Bước 4: Tổ chức thực hiện dạy và học tại thực địa.
(Trong đề tài này, tôi chỉ chú trọng đề cập đến những cải tiến, những kinh
nghiệm mà bản thân đã thực hiện trong bài giảng, không đi sâu vào trình
bày nội dung kiến thức bài học)
1/ Đặt vấn đề (Giới thiệu bài học)
Tập trung học sinh trước đền thờ vua Lê sau khi giáo viên và học sinh vào
dâng hương tưởng nhớ Đức Thái tổ Cao Hoàng đế, các triều vua, các bậc khai
quốc công thần, giáo viên giới thiệu bài học gắn liền với giới thiệu di tích: “Bài

học hơm nay sẽ được tiến hành tại chính nơi cách đây hơn 600 năm, vào ngày
mùng 2 tết âm lịch năm 1418, Lê Lợi đã dựng cờ khởi nghĩa tự xưng là Bình
Định Vương, rồi truyền hịch đi khắp nơi hô hào nhân dân đứng lên khởi nghĩa.

H. khu đền thờ
2/ Giải quyết vấn đề (Bài giảng)
Nhóm 1: Tìm hiểu về thân thế - sự nghiệp của Lê Lợi.
+ Trước hết giáo viên đặt câu hỏi: Lê Lợi là vị anh hùng dân tộc, nhưng với mỗi
chúng ta đứng đây lại càng tự hào hơn bởi mình là con em của đất Thọ Xuân, lại
được học tập, rèn luyện dưới mái trường mang tên Lê Lợi- vị vua khai triều, vậy
các em có thể trình bày đơi nét về thân thế, sự nghiệp?
6


+ Học sinh đại diện nhóm 1 trả lời
+ Một số học sinh khác của nhóm 1 và cả các học sinh nhóm 2 bổ sung.
+ Cuối cùng giáo viên khái quát:
- Lê Lợi (1385- 1433) vốn là một hào trưởng có uy tín và ảnh hưởng lớn ở vùng
đất Lam Sơn, cha là Lê Khoáng và mẹ là bà Trịnh Thị Thương. Theo văn bia
Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn cho biết: “Ông tổ 3 đời của Lê Lợi là cụ Lê
Hối- người đã tổ chức khẩn hoang lập nên một trang trại rộng lớn ở vùng đất
này”.
- Thuở bé, Lê Lợi đã tỏ ra thông minh, dũng lược, mưu trí, đức độ hơn người.
Lớn lên, gặp lúc vận nước nguy nan, Lê Lợi đã náu mình chuẩn bị cho một cuộc
khởi nghĩa mà trang trại gia đình Lam Sơn của Ông- nơi ta đang đứng đây làm
căn cứ cùng toàn bộ gia sản để mưu việc lớn.
- Năm 1416, Hội thề Lũng Nhai, Lê Lợi cùng 18 anh hùng tụ nghĩa chích máu
ăn thề. Từ đây, bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa từng bước hình thành.
- Ngày mùng 2 tháng 1 năm Mậu Tuất (1418) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa. Trải
qua nhiều gian lao, vất vả, “nếm mật, nằm gai”, cuối cùng cuộc khởi nghĩa

chuyển sang thế phản cơng rồi giành thắng lợi hồn tồn. Năm 1428 Lê Lợi lên
ngôi vua, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ
- Ngày 22 tháng 8 năm 1433 Lê Lợi qua đời, thọ 48 tuổi, ở ngơi được 6 năm.
Nhóm 2: Tìm hiểu về khu di tích Lam Kinh (Sau khi di chuyển lên khu vực
điện Lam Kinh)

H. Toàn cảnh khu Di tích Lam Kinh
+ Học sinh đại diện nhóm 2 trả lời
+ Một số học sinh khác của nhóm 2 và cả các học sinh nhóm 1 bổ sung.
+ Cuối cùng giáo viên khái qt:
- Khu di tích hiện cịn rộng khoảng 30 ha với những nền móng của điện Lam
Kinh, những khu lăng mộ vua Lê và hoàng tộc.

7


- Cũng chính nơi đây, xưa từng xảy ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt chống quân
Minh vây quét. Ba lần nghĩa quân phải rút lên vùng núi Chí Linh (chỉ cho học
sinh hướng núi Chí Linh), là một ngọn núi cao, hiểm trở ở thượng nguồn sông
Chu- nay thuộc xã Giao An, giáp ranh giữa Lang Chánh và Thường Xuân. Sau
nhiều năm gian khổ, từ căn cứ Lam Sơn, địa bàn hoạt động của nghĩa quân được
mở rộng khắp miền Tây Thanh Hoá và phát triển thành cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc trên phạm vi cả nước, giành toàn thắng.
- Sau khi Lê Lợi mất (1433), điện Lam Kinh được xây dựng. Bia Vĩnh lăng do
Nguyễn Trãi soạn lời đã nêu bật sự nghiệp của Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn.
Bia Vĩnh Lăng (ngay trước mặt chúng ta đây) là một hiện vật- tài liệu lịch sử
quý giá.

H. Nhà bia Vĩnh Lăng
- Khu di tích Lam Kinh cịn là nơi chơn cất lăng mộ vua Lê và hoàng tộc, cũng

là nơi các vua Lê thường tổ chức lễ hội để giáo dục con cháu biết ơn cội nguồn,
tổ tiên. Hiện những cung điện cũ khơng cịn, nhưng những dấu tích dưới lịng
đất vẫn cịn hiện hữu, để rồi sau nhiều lần trùng tu, tôn tạo, khu di tích trở nên bề
thế tơn nghiêm như ta thấy ở đây.
8


H. Khu Lăng mộ Vua Lê Thái Tổ
- Giờ đây, khơng ai khác mà chính các em, những thế hệ hơm nay và mai sau
phải có trách nhiệm gìn giữ để khu di tích xứng đáng với tầm vóc và giá trị của
khu di tích đặc biệt cấp Quốc gia
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát toàn cảnh khu di tích gồm: Địa thế rừng,
núi, sơng; tổ chức cho học sinh thảo luận.
a. Giáo viên nêu vấn đề: Vì sao Lê Lợi lại chọn nơi đây làm căn cứ khởi nghĩa?
b. Giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh quan sát các điều kiện “địa lợi” ở đây:
thế sông, thế núi và thế rừng.
- Về thế sông:
+ Chỉ cho học sinh quan sát dịng sơng Chu phía trước, nêu câu hỏi gợi mở:
Dịng sơng Chu xưa kia- thời khởi nghĩa Lam Sơn có tên là gì? Hiện nó có hình
dáng như thế nào ở đoạn chảy qua khu di tích? Hình dáng vị trí như vậy có
thuận lợi gì cho khu căn cứ?
+ Học sinh quan sát, trả lời. Một số học sinh khác có thể bổ sung.
+ Giáo viên kết luận: Con sơng Chu xưa kia có tên là Lương Giang. Đoạn chảy
qua khu di tích như hình cánh cung, tạo thành một phòng tuyến thiên nhiên che
chở, bảo vệ cho căn cứ ở hai mặt xung yếu: Đông Nam và Tây Nam. Giặc Minh
nhiều lần muốn vây quét, nhưng muốn vây phải vượt qua khúc sông này, vì vậy,
9


nhiều trận thuỷ chiến đã diễn ra. Dịng sơng cịn là con đường vận chuyển, tiếp

tế quân lương, là con đường hành quân mở rộng địa bàn hoạt động.
- Về thế núi
+ Hướng dẫn học sinh đi thăm quan, quan sát núi Mục, đứng sát dịng sơng, giáo
viên đặt vấn đề: Vị trí đứng của núi Mục có ý nghĩa gì với khu căn cứ?
+ Học sinh quan sát, trả lời. Một số học sinh khác có thể bổ sung.
+ Giáo viên tiểu kết: Núi Mục đứng sát bờ sông, đây là một trạm gác quan trọng
có tác dụng quan sát tình hình và dễ dàng phát hiện quân địch từ phía xa. Ngay
dưới chân núi Mục có bia Lê Lai. Giáo viên có thể hỏi học sinh: Em nào biết
chuyện “Lê Lai liều mình cứu chúa”?; giải thích cho học sinh rõ tại sao trong
dân gian có câu ca “ Hai mốt Lê Lai, hai hai Lê Lợi”.
- Về thế rừng:
+ Giáo viên giảng giải để học sinh hình dung, vùng này trước đây là những cánh
rừng đại ngàn (giờ đây đã thưa thớt). Nhìn về phái tây là vùng rừng núi Thường
Xuân, Ngọc Lặc rộng lớn.
+ Giáo viên nêu câu hỏi: Với những thế rừng như vậy, có những khó khăn và
thuận lợi gì cho nghĩa qn trong giai đoạn đầu khởi nghĩa?
+ Học sinh trả lời: Là vùng rừng núi hiểm trở, giặc Minh khó bề vây quét. Nghĩa
quân nơi đây có điều kiện củng cố lực lượng chờ thời cơ.
+ Sau khi hướng dẫn học sinh phân tích trả lời các câu hỏi, giáo viên nêu vấn đề
tổng hợp: Vì sao Lam Sơn trở thành căn cứ của nghĩa quân? Học sinh có thể trả
lời: Bởi Lam Sơn đã hội tụ các yếu tố của “địa lợi” như sông, núi, rừng, là nơi
phong thủ vững chắc, rút lui an tồn và phản cơng nhanh chóng.

10


H. Quang cảnh Sông Chu và miền Tây căn cứ Lam Sơn
+ Giáo viên chuyển ý: Để cuộc khởi nghĩa bùng nổ, giữ vững và tiến lên giành
thắng lợi, ngoài yếu tố “địa lợi”, cuộc khởi nghĩa cần có yếu tố gì khác
+ Giáo viên gợi ý, học sinh trả lời: Phải có người lãnh đạo tài giỏi, nắm đúng

thời cơ, quân mạnh tướng trung, nhân dân nhiệt tình hưởng ứng…
+ Cuối cùng giáo viên kết luận: Ngoài yếu tố địa hình sơng, núi, rừng hiểm trở,
thuận lợi cả “cơng” lẫn “thủ”, thì Lam Sơn cịn chính là q hương của Lê Lợi –
người khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh. Đây là vùng
màu mỡ, trù phú, lại là nơi tiếp giáp chung sống của nhiều dân tộc anh em như:
Kinh, Mường, Thái… vốn có truyền thống đồn kết. Vì thế, khi Lê Lợi dựng cờ
khởi nghĩa, nhân dân quê hướng và các vùng lân cận nhiệt liệt hưởng ứng. Nhiều
bậc hiền tài khắp mọi miền đất nước đã nhanh chóng tụ hội về đất Lam Kinh,
giúp Lê Lợi làm nên đại nghiệp, tiêu biểu như: Lê Lai, Nguyễn Trãi, Trần
Nguyên Hãn, Lê Văn Linh, Nguyễn Chích… Yếu tố con người trở thành yếu tố
quan trọng nhất quyết định thắng lợi cuộc khởi nghĩa.
+ Biểu hiện cụ thể của sức mạnh con người là có nhiều tướng tài; quần chúng
nhân dân dám xả thân bảo vệ chủ tướng: Ví như Lê Lai, bà hàng nước ở Kiên
Thọ- Ngọc Lặc… Họ không sợ hiểm nguy, khôn khéo bảo vệ Lê Lợi khi bị quân
Minh vây hãm. Nhân dân hăng hái lao động sản xuất, đóng góp quân lương cho
nghĩa quân suốt 10 năm khởi nghĩa
11


+ Giáo viên hướng dẫn học sinh tham quan một lượt những địa điểm cần lưu ý
của di tích: Nhà bia Vĩnh Lăng – văn bia do Nguyễn Trãi soạn lời, nội dung văn
bia nêu vắn tắt cuộc đời, sự nghiệp của Lê Lợi và tổng kết cuộc kháng chiến
mười năm chống quân xâm lược Minh.
+ Khu mộ Lê Thái Tổ.
+ Đền thờ vua Lê Thái Tổ
3/ Sơ kết bài học :
* Sơ kết bài học: Với buổi học tại khu di tích này, đây là phần tơi rất quan tâm.
Để kích thích sự đam mê, u thích và lơi cuốn học trị vào hoạt động tự giác,
tích cực, tơi giao nhiệm vụ cho học sinh tự thực hiện (học sinh tự dẫn – tự trả
lời; giáo viên chỉ giúp đỡ khi cần), bằng hệ thống câu hỏi:

+ Thân thế - sự nghiệp của Lê Lợi.
+ Những hiểu biết của em về khu di tích Lam Kinh
+ Hỏi học sinh kiến thức lịch sử thông qua tác phẩm văn học “Bình Ngơ
đại cáo” – Nguyến Trãi.
- Tác phẩm “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi ra đời trong hoàn cảnh
nào?
- Đọc đoạn văn nói về lí do khiến Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ
khởi nghĩa?
- Đọc đoạn văn nói về những khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn trong những
năm đầu chống giặc Minh?
- Đọc đoạn văn nói lên tinh thần đồn kết của nhân dân với nghĩa quân, của
dũng tướng với binh sỹ ?
- Những thắng lợi liên tiếp, những chiến công vang dội của nghĩa quân Lam
Sơn những năm cuối cuộc kháng chiến được miêu tả trong “Bình Ngơ đại cáo”
được thể hiện qua những câu nào?
- Thắng lợi quyết định đưa đến kết thúc Khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10
năm ròng là chiến thắng nào?
* Dặn dò – bài tập về nhà: Viết tường thuật miêu tả vị trí, tầm quan trọng của
căn cứ Lam sơn sau buổi học tại thực địa
4. Hiệu quả của việc thực hiện đề tài.
Căn cứ vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi tiến hành thực
nghiệm ở hai lớp 10A9 và 10A13 trường THPT Lê Lợi vào thời gian tháng 4
năm 2021, theo giáo án đề tài.
Hai lớp làm đối chứng là 10A7 và 10A10, tôi vẫn sử dụng và tiến hành giáo
án thông thường tại lớp học.
Để khẳng định chất lượng của bài giảng theo giáo án SKKN ở trường THPT
Lê Lợi - Lịch sử lớp 10 cơ bản, tôi tiến hành ở ba phương diện.
+ Thứ nhất: Đánh giá kết quả công việc được giao.
12



+ Thứ hai: Đánh giá mức độ hứng thú, sự u thích bộ mơn Lịch sử của học
sinh.
+ Thứ ba: Đánh giá kết quả học tập của học sinh sau bài học bằng bài kiểm
tra viết 1 tiết.
Ở phương diện thứ nhất: Tôi nhận thấy học sinh hai lớp thực nghiệm 10A9
và 10A13 đã chuẩn bị nghiêm túc, có trách nhiệm, hiệu quả, thể hiện ở sản phẩm
mà các em đã thực hiện. Ngồi ra, sự hào hứng, sơi nổi của HS còn được thể
hiện rất rõ nét qua buổi học này.
Ở phương diện thứ hai: Tôi tiến hành làm phiếu trắc nghiệm nhanh, yêu
cầu HS trả lời bằng cách đánh dấu tích vào cột thích hay khơng thích mơn Lịch
sử (khơng ghi họ tên), mục đích là tơi muốn HS nói thật lịng mình, khơng sợ cơ
mặc cảm. Tơi được kết quả khi làm trịn như sau:
Lớp
Tổng số

Thích

Khơng thích

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

10A7
(42)


12

28,5

30

71,5

10A9
(42)

32

10

23,8%

10A10
(42)
10A13
(43)

76,2%

13

31,0%

29


69%

33

76,7%

10

23,3%

Từ bảng kết quả thực nghiệm trên cho thấy:
+ Tổng số HS ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 85 HS
+ Tổng số HS ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 84 HS
Như vậy, tổng số HS 2 lớp thực nghiệm và 2 lớp đối chứng khá đều nhau.
Tuy nhiên, kết quả tôi thu được giữa các lớp thực nghiệm và đối chứng về nội
dung kiểm chứng như sau:
+ Số lượng HS thích ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 65 HS chiếm
76,5%
+ Số lượng HS thích ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 25 HS chiếm
29,8%
+ Số lượng HS khơng thích ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 20 HS
chiếm 23,5%
+ Số lượng HS khơng thích ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 59 HS
chiếm 70,2%
Kết quả này cho thấy, nếu thầy cô chúng ta thay đổi, áp dụng những
phương pháp dạy học mới, cách thức tổ chức mới, cách soạn mới, đôi khi thay
13



đổi cả không gian, địa điểm và thời gian dạy học bộ mơn Lịch sử, sẽ có tác dụng
khơng nhỏ trong việc lôi cuốn, tạo hứng thú và sự ham thích mơn Lịch sử ở học
sinh.
Ở phương diện thứ ba: Tôi cho học sinh làm bài kiểm tra viết 1 tiết, cùng
yêu cầu ở hai nhóm lớp trên, đảm bảo cơng bằng, kết quả tơi được khi đã làm
trịn, như sau:

Lớp
Tổng
số
10A7
(42)
10A9
(42)
10A10
(42)
10A13
(43)

Giỏi
Điểm 9- 10

Khá
Điểm 7- 8

Số
lượn
g

%


Số
lượn
g

2

4,8

11

TB
Điểm 5- 6

Yếu
Điểm 3- 4

Kém
Điểm 1- 2

%

Số
lượn
g

%

1


2,4

0

0

26.2

0

0

0

0

26

61,9

2

4,8

0

0

11


25,6

0

0

0

0

%

Số
lượng

%

Số
lượng

11

26,2

28

66,6

26,2


20

47,6

11

4

9,5

10

23,8

11

25,6

21

48,8

Từ bảng kết quả thực nghiệm trên cho thấy:
+ Số HS đạt giỏi ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 22 HS chiếm 25,9%
+ Số HS đạt giỏi ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 6 HS chiếm 7,2%
+ Số HS đạt khá ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 41 HS chiếm 48,2%
+ Số HS đạt khá ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 21 HS chiếm 25,0%
+ Số HS đạt TB ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 22 HS chiếm 25,9%
+ Số HS đạt TB ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 54 HS chiếm 64,3%
+ Số HS đạt Yếu- kém ở 2 lớp thực nghiệm 10A9 và 10A13 là 0 chiếm 0%

+ Số HS đạt Yếu- kém ở 2 lớp đối chứng 10A7 và 10A10 là 3 chiếm 3,5%
Kết quả trên cho thấy, chất lượng 2 lớp dạy thực nghiệm cao hơn 2 lớp đối
chứng ở điểm khá- giỏi, nhưng lại thấp hơn ở điểm TB; đặc biệt, ở 2 lớp dạy
thực nghiệm 10A9 và 10A13 khơng có học sinh yếu- kém.

14


PHẦN III . KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ thực tế dạy bài Lịch sử địa phương: “Lê Lợi và căn cứ Lam Sơn”
tại chính di tích lịch sử, tôi rút ra được một số nhận xét sau:
Thứ nhất, việc dạy học theo hình thức này là một vấn đề vơ cùng khó khăn
do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động: ví như vấn đề kinh phí, thời
gian, thói quen tổ chức dạy học truyền thống, ngại đối mặt với thử thách mới…
Tuy nhiên, hình thức thay đổi cách thức tổ chức, thay đổi không gian học tập
như thế này hồn tồn khơng phải khơng có tính khả thi.
Thứ hai, dạy bài Lịch sử địa phương gắn liền với các di tích lịch sử thì các di
tích ấy phải phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu phải thực sự gần
gũi, mang tính địa phương. Nói cách khác, đó là những bài học về sự kiện, nhân
vật mang tầm vóc dân tộc nhưng di tích lại hiện hữu trên chính địa phương
mình.
Thứ ba, buổi học đã mang lại hiệu quả to lớn, thiết thực, có tác dụng khơi dậy
ngọn lửa đam mê, nhiệt tình, ham thích mơn Lịch sử trong bối cảnh bộ mơn
Lịch sử lâu nay đã khơng cịn được coi trọng như trước. Cách thức tổ chức dạy
học tại thực địa đã kết hợp nhiều thao tác động thời như quan sát, nghe, ghi
chép, phân tích, đánh giá…Nhờ vậy, việc lĩnh hội kiến thức của các em nhanh
hơn, vững hơn. Điều này thể hiện rõ qua bài thu hoạch sau buổi học và bài kiểm
tra 1 tiết.
Thư tư, buổi học thực sự bổ ích và lý thú, có tác dụng giáo dục tư tưởng tình

cảm về lịng u q hương mảnh đất “địa linh - nhân kiệt”, lòng biết ơn những
anh hùng, những thế hệ ông cha đi trước đã cố gắng dựng xây, giữ gìn non sơng
gấm vóc cho hơm nay.
Và cuối cùng, khi các em đã ham thích học mơn Lịch sử, chúng ta sẽ hồn
thành mục tiêu giáo dưỡng, xây dựng nhân cách, đạo đức, tác phong sinh hoạt.
Từ đó, học sinh biết trân trọng quá khứ, biết ơn về sự hi sinh xương máu của cha
ông, biết sống có trách nhiệm với Tổ quốc, với gia đình và những người xung
quanh.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là ý chủ quan của bản thân tơi, nội dung cịn sơ
lược rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng của các đồng nghiệp bộ môn
Lịch sử và tất cả các đồng chí đồng nghiệp giáo viên để đề tài SKKN được hồn
thiện hơn, góp phần vào việc nhen nhóm lại ngọn lửa đam mê, u thích mơn
Lịch sử trong chương trình giáo dục THPT hiện nay.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp!
2. Những kiến nghị
Để thực hiện nhiệm vụ "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc
dân" trong đó có đổi mới phương pháp dạy học, thì việc xây dựng khung chương
trình cần có nhiếu hơn những tiết học, buổi học mở, nhằm tạo thuận lợi cho giáo
viên phát huy năng lực vận dụng sáng tạo của bản thân vào hoàn cảnh địa
15


phương mình. Tơi thiết nghĩ Bộ giáo dục cần có những cơng trình nghiên cứu
đầy đủ, có hệ thống về vấn đề này, làm cơ sở để giáo viên chúng tơi tham khảo.
Giáo viên cần có nhiều diễn đàn để trao đổi, bàn bạc, tìm giải pháp có
hiệu quả để giải quyết những khó khăn khi tổ chức học ngồi phạm vi nhà
trường.
Giáo viên cần không ngừng tự học, tự nghiên cứu bồi dưỡng, Giáo viên
cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và kĩ thuật dạy học,
cần chuẩn bị chu đáo ở mỗi bài học, giao việc cho học sinh cụ thể để giúp các

em phát huy tính tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức, có như vậy, mơn Lịch sử
mới khơng cịn khơ khan, nhàm chán, để rồi từ đó mới gây được niềm hứng thú
và đam mê học lịch sử ở học sinh.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Trịnh Thị Hoài

16



×