Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sử dụng một số phương tiện,đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử góp phần tạo sự hứng thú cho học sinh ở trường THPT bá thước 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.51 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG TIỆN, ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ GÓP PHẦN TẠO SỰ HỨNG
THÚ CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC 3

Người thực hiện: Trịnh Thanh Tâm
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Lịch sử

THANH HOÁ, NĂM 2016


MỤC LỤC

Trang

1. PHẦN MỞ ĐẦU

3

1.1. Lý do chọn đề tài

3

1.2. Mục đích nghiên cứu


4

1.3. Đối tượng nghiên cứu

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu

4

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

5

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến

5

2.2. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài

6

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7

2.3.1. Sử dụng tranh ảnh

7


2.3.1. Sử dụng bản đồ, lược đồ

9

2.3.3. Sử dụng phim tư liệu, video

10

2.3.4. Sử dụng loa phát thanh trường học

11

2.3.5. Sử dụng bảng tin tổ chức giải kiến thức lịch sử

12

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

13

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

15

3.1. Kết luận

15

3. 2. Kiến nghị


15

Tài liệu tham khảo
Phụ lục
1. MỞ ĐẦU
2


1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong các bộ môn ở trường THPT thì môn Lịch sử có một vị trí quan
trọng. Bởi lịch sử giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về
lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan
khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình
đoàn kết quốc tế. Đồng thời học lịch sử còn bồi dưỡng năng lực tư duy, hành
động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống cho các em …
Tuy nhiên trong những năm gần đây, vị trí cũng như vai trò của môn Lịch
sử lại đang bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh thờ ơ xem nhẹ.
Việc học sinh hiện nay không hứng thú, bỏ bê môn Lịch sử là có thật, không hẳn
do các bạn không thích học sử mà một phần do cách dạy, cách truyền đạt môn
học này hiện rất khô khan, học sinh phải học thuộc lòng rất nhiều để có được
điểm số tốt, điều này dần khiến học sinh mất đi niềm yêu thích tìm hiểu và khám
phá lịch sử. Sách giáo khoa lịch sử hiện quá nhiều chữ, nhiều con số và nhiều
diễn biến khiến học sinh khó nhớ, khó hiểu, dẫn tới chán nản và mất hứng thú
với môn học này.
Với đặc điểm ham hoạt động, thích khám phá, nhiều học sinh, nhất là
những học sinh ở bậc phổ thông trung học bước đầu đã có tư duy độc lập, không
thích áp đặt kiểu một chiều.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc dạy và học môn lịch sử vẫn còn nhiều bất
cập, chưa đạt được kết quả cao. Ở nhiều nơi, giáo viên vẫn chủ yếu dạy học
bằng phương pháp truyền thống “thầy cô đọc - trò chép”, chưa phát huy được

tính tích cực, chưa gây hứng thú cho học sinh. Vẫn còn tình trạng học sinh thờ ơ
với môn lịch sử, chỉ coi môn lịch sử là môn phụ, chưa thực sự chú ý, quan tâm
nhiều đến môn này.
Chúng ta cũng đã biết, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
2 khóa VIII đã nhấn mạnh: " Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện
đại vào quá trình dạy - học đảm bảo các điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên
cứu cho học sinh…".
Với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học : lấy học sinh làm trung tâm,
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, thì
việc áp dụng phương pháp dạy học truyền thống chưa thật sự tạo ra sự hứng thú
cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy môn lịch sử người giáo viên
phải chủ động, tích cực tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp với
thực tiễn giảng dạy và nâng cao hiệu quả giảng dạy của bộ môn, thường xuyên
áp dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau để khai thác tiềm năng và phát
triển tâm lực của học sinh, phát triển tính tích cực hoạt động tự nhận thức một
cách tốt nhất cho học sinh. Với tư cách là người tổ chức hướng dẫn, phát huy
tính tích cực, độc lập của học sinh trong quá trình học tập việc sử dụng các

3


phương tiện, đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng, góp phần to lớn nâng
cao chất lượng tạo sự hứng thú cho học sinh khi dạy môn lịch sử. Là cầu nối
giữa hiện thực với quá khứ, khách quan với đời sống hiện tại.
Sau nhiều năm học tôi đã thực nghiệm phương pháp sử dụng một số
phương tiện, đồ dùng trực quan vào dạy học lịch sử cho học sinh khối 10, khối
11 và thu được những kết quả nhất định.

Năm học 2015 – 2016 tôi tiếp tục thực hiện phương pháp này dạy học lịch
sử cho học sinh lớp 12 tại trường THPT Bá Thước 3.
Từ thực tiễn giảng dạy trong nhiều năm qua, cho thấy việc sử dụng các
phương tiện, đồ dùng trực quan trong quá trình giảng dạy môn lịch sử đã góp
phần tạo sự hứng thú cho học sinh ở trường THPT Bá Thước 3. Đây là một
nhiệm vụ hết sức cần thiết trong giai đoạn đổi mới hiện nay của đất nước, cũng
như phù hợp với phương pháp dạy học mới mà Bộ giáo dục đề ra.
Với những lý do trên tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài: “ Sử dụng một số
phương tiện, đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử góp phần tạo sự hứng
thú cho học sinh ở trường THPT Bá Thước 3 ’’.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện
lịch sử và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh.
Giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu hơn bản chất của sự kiện lịch sử, các hình
ảnh, những sự kiện được giữ lại đặc biệt trong trí nhớ.
Góp phần phát triển kỹ năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ của học sinh, hình thành cho mình những hiểu biết mới về lịch sử, tìm tòi,
khám phá những kiến thức cần thiết liên quan đến bài học.
Qua đó góp phần tuyên truyền, giáo dục học sinh về đất nước Việt Nam
tươi đẹp, dân tộc Việt Nam anh hùng; giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách
mạng, lòng tự hào dân tộc, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, khơi dậy tinh
thần ham mê học và nghiên cứu lịch sử, từ đó ý thức được trách nhiệm của mình
trong học tập, rèn luyện, lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là học sinh khối 10,
11 và nhất là học sinh khối 12 ở trường THPT Bá Thước 3.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp quan sát; Phương pháp điều tra; Phương pháp tổng hợp và nghiên
cứu tài liệu; Phương pháp tổng kết kinh nghiệm; Phương pháp đàm thoại…

Trong quá trình sử dụng các phương tiện, đồ dùng vào giảng dạy phải căn
cứ nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn những phương tiện, đồ
dùng trực quan cho tương ứng, thích hợp. Có phương pháp thích hợp đối với
việc sử dụng mỗi loại phương tiện, đồ dùng để phát huy tính tích cực của học
sinh. Tùy theo yêu cầu của bài học và loại hình phương tiện, đồ dùng mà có cách
sử dụng khác nhau.
2. NỘI DUNG
4


2.1. Cơ sở lý luận
Hiện nay hầu như học sinh không còn ham thích học tập bộ môn Lịch sử ở
nhà trường phổ thông, việc này có rất nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ
bản làm cho các em nhàm chán vì yêu cầu của giáo viên bắt các em nhớ qúa
nhiều sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách máy móc khô khan, mà trong giờ
học lịch sử nào thầy giáo cũng bắt buộc.
Việc học sinh chán học môn lịch sử nói trên là đúng nhưng không phải do
bản thân bộ môn lịch sử gây ra mà chính là do quan niệm và phương pháp dạy
học của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu của người học hay nói khác hơn là
người thầy giáo chưa gây hứng thú học tập trong giờ học và trong quá trình
giảng dạy bộ môn lịch sử.
Thực trạng hiện nay đa số giáo viên đều có cố gắng trong việc đổi mới
phương pháp dạy và học bộ môn Lịch sử, song hầu hết giáo viên giảng bài các
kiến thức bài giảng đều trùng khớp với sách giáo khoa, dẫn đến học sinh nhàm
chán không muốn nghe thầy giảng mà còn nói chuyện riêng hoặc làm bài môn
học khác….
Môn lịch sử ở nhà trường phổ thông nói chung, nội dung và chương trình
thật sự không khô khan, không kém phần hấp dẫn, nếu thầy giáo biết cách sử
dụng và khai thác nó một cách có hiệu quả trong quá trình giảng dạy. Để làm
được việc đó, yêu cầu ở người giáo viên rất cao trong tất cả mọi hoạt động mọi

khâu trong quá trình giảng dạy và hướng dẫn học sinh học tập, chuẩn bị đồ dùng
dạy học, sử dụng nhiều phương tiện khác nhau vào giảng dạy…Tất cả sự chuẩn
bị nói trên nhằm tạo cho các em hứng thú học tập, tiếp thu bài giảng có hiệu
quả, để nâng cao chất lượng dạy và học.
Như vậy, toàn bộ quá trình lịch sử hiện hành học sinh phải nhớ thời gian,
nhân vật lịch sử, sự kiện… Do đó, một trong những điều gây khó khăn đã làm
giảm hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn này. Để các em nhớ lâu và
hiểu sâu sắc về sự kiện, thời gian, nhân vật lịch sử… thì người thầy giáo phải
biết khắc sâu những sự kiện, thời gian, biểu tượng nhân vật lịch sử đó vào trong
tâm trí của các em .
Xuất phát từ thực tế đó, từ tầm quan trọng, từ nhiệm vụ giảng dạy bộ môn
trong nhà trường mà việc sử dụng một số phương tiện, đồ dùng trực quan, có vai
trò rất quan trọng giúp học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, nắm vững kiến thức
trong sách giáo khoa cũng như trong thực tế đời sống góp phần phát triển tư duy,
hình thành kĩ năng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách cho các
em.
Mặt khác, nhằm giảm bớt số lượng học sinh chán ghét môn học, hạn chế
số lượng học sinh học yếu, phát huy hết năng lực của các em khá giỏi nắm chắc
được kiến thức của bài học, hiểu sâu hơn các sự kiện, thời gian, hiện tượng, nhân
vật… Thì việc sử dụng một số phương tiện, đồ dùng trực quan còn góp phần vào
việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng.
2.2. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài
5


Ở trường THPT Bá Thước 3 đa số học sinh chưa có ý thức tự học tập, tự
tìm tòi và nghiên cứu về môn học lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử, các mốc thời gian… còn yếu. Trong quá trình giảng dạy
bộ môn lịch sử tại trường THPT Bá Thước 3, Tôi thấy có những thuận lợi và khó
khăn sau:

2.2.1. Thuận lợi
Về phía giáo viên:
Đa số giáo viên giảng dạy bộ môn còn trẻ, nhiệt tình và có trách nhiệm
trong công tác giảng dạy, sử dụng thành thạo công nghệ thông tin vào giảng dạy,
có ý thức đổi mới phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh thông qua các phương tiện, đồ dùng dạy học.
Về phía học sinh:
Đa số học sinh của trường đều ngoan, biết nghe lời thầy cô, chú ý nghe
giảng, tích cực trong học tập, khi học các em luôn chú ý để chiếm lĩnh kiến thức,
khi giao bài tập về nhà các em đều hăng hái tham gia và làm bài đầy đủ.
2.2.2. Khó khăn
Về phía giáo viên:
Việc sử dụng những phương pháp mới nhìn chung đã được các thầy cô áp
dụng, nhưng mức độ còn ít, giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương
pháp dạy học cho phù hợp, chưa tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh
và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương pháp cũ. Do đó, nhiều học
sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, học
vẹt...
Về phía học sinh:
Đa số học sinh của trường là con em dân tộc thiểu số ( dân tộc Thái chiếm
98%) học sinh toàn trường, lại ở các thôn, xã vùng cao, vùng kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn, phương tiện và đồ dùng học tập của các em còn thiếu thốn, nhất là
máy tính và kết nối internet còn chưa có, nên sự hiểu biết và nhận thức của các
em còn chậm. Cho nên việc truyền tải kiến thức cũng như xác định động cơ học
tập của nhiều học sinh còn hạn chế. Vì vậy, việc chủ động học tập qua việc khai
thác các phương tiện và đồ dùng trực quan vẫn còn nhiều khó khăn trong giảng
dạy bộ môn ở nhà trường. Phần lớn học sinh chưa quen với phương pháp học tập
thông qua các phương tiện và đồ dùng trực quan, nhiều khi khai thác theo cảm
xúc, lệch hướng, thiếu chính xác, nhiều học sinh chưa có sự độc lập suy nghĩ và
tư duy.

2.2.3. Một số vấn đề dặt ra
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chủ động trong việc học tập qua các
phương tiện và khai thác các đồ dùng trực quan.
Đặt ra những câu hỏi mở để học sinh tìm và xác định nội dung có liên quan
đến vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm. Có thể khen thưởng và cho điểm
kịp thời đối với những học sinh khai thác đúng hướng nhằm khuyến khích và
phát triển trí tuệ, tư duy lịch sử ngôn ngữ cho học sinh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6


2.3.1. Sử dụng tranh ảnh
Thông thường, khi soạn giáo án, giáo viên sẽ biết được nội dung của tiết
học đó có những kênh hình nào để minh họa, giới thiệu cho học sinh. Tuy nhiên,
không phải bài nào cũng có tranh ảnh trong sách giáo khoa (SGK). Vì vậy, để
cho bài học thêm sinh động, lý thú, giáo viên cần chuẩn bị như sau:
Sưu tầm tranh ảnh: Đối với những bài không có tranh ảnh trong SGK
giáo viên có thể tìm kiếm các tranh ảnh này trên Internet hoặc các tư liệu lịch sử
khác rồi lưu file để phục vụ bài dạy hoặc sử dụng các đĩa tư liệu để giới thiệu
cho học sinh.
Thực hiện giờ dạy: Cho học sinh sưu tầm tranh ảnh ở nhà và các câu hỏi
kèm theo để định hướng vào nội dung bài học. Sau đó, khi thực hiện giờ dạy,
đến phần cho học sinh chuẩn bị thì mời học sinh lên giới thiệu, cuối cùng giáo
viên nhận xét, kết luận và có thể cho học sinh xem tranh của giáo viên đã chuẩn
bị nếu tranh ảnh của giáo viên rõ ràng và sắc nét hơn tranh của học sinh.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 5 - Châu Phi và khu vực Mĩ La tinh (Lịch sử 12).
Giáo viên giao cho các em tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp của các nhân vật lịch sử
Nen sơn Manđêla và Phiđen Catxtơrô (1959) từ ở nhà. Khi dạy đến mục 1 của
phần I và mục 1 của phần II, giáo viên có thể mời các em lên giới thiệu chân
dung các nhân vật lịch sử này. Tuy nhiên, giáo viên định hướng các em không

nên miêu tả hình dạng bên ngoài của nhân vật mà phải hướng dẫn học sinh phân
tích nội tâm, tài, đức, quan điểm thể hiện ở hành động của nhân vật. Chẳng hạn
tranh chân dung của Phiđen Catxtơrô ở mục 1- Vài nét khái quát về quá trình
giành và bảo vệ độc lập ở các nước Mĩ La Tinh, đây là bức ảnh chụp chân dung
người anh hùng của đất nước Cu Ba, giáo viên gợi ý bằng một số câu hỏi:
- Nhìn vào diện mạo bên ngoài của Phiđen Catxtơrô, em thấy ông là một người
như thế nào?
- Ông có vai trò ra sao đối với cách mạng Cu Ba?
- Vì sao Phiđen Catxtơrô được gọi là anh hùng giải phóng dân tộc của đất nước
Cu Ba?. Sau khi học sinh giới thiệu cả lớp tập trung chú ý lắng nghe và quan sát
bức tranh, giáo viên nhận xét, kết luận. Cuối cùng giáo viên đặt câu hỏi để học
sinh nhận xét về vai trò của Phiđen Catxtơrô. Với phần giới thiệu chân dung anh
hùng dân tộc của Cu Ba, các em học sinh lớp 12 không chỉ biết ông có ngoại
hình như thế nào mà còn ngưỡng mộ khi biết những thông tin về công lao của
ông trong thời kì đất nước khó khăn cũng như trong thời kì đất nước hòa bình,
cải cách và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa….
Ví dụ 2: Khi trình bày sự kiện ngày 29/9/1938, Anh – Pháp kí với Đức –
Italia “ Hiệp ước Muy-nich” trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc do Đức âm mưu
hướng Đức tấn công Liên Xô. Để giúp học sinh nhận thức rõ bản chất hai mặt
của Anh – Pháp trong quan hệ quốc tế trước chiến tranh thế giới II đó là bản chất
“dung dưỡng”, “thỏa hiệp”với chủ nghĩa phát xít và bản chất hung hăng, hiếu
chiến của chủ nghĩa phát xít Đức, giáo viên cần sử dụng bức tranh “ Hội nghị
Muy-nich” để miêu tả hành động của Anh, Pháp, Đức, Italia: tham dự Hội nghị
này có đại biểu của 4 cường quốc là Anh, Pháp, Đức, Italia. Tại hội nghị này
7


Anh, Pháp đã thống nhất với Đức, Italia âm mưu chống Liên Xô qua việc Anh,
Pháp đồng ý nhượng cho Đức vùng Xuy-đet của Tiệp Khắc để đổi lấy việc Đức
sẽ tấn công Liên Xô. Đại biểu Tiệp Khắc được mời đến tham dự hội nghị nhưng

chỉ được đứng bên ngoài chờ nghe những phán quyết của hội nghị. Anh, Pháp đã
sẵn sàng bỏ rơi bạn đồng minh của mình để đẩy mũi nhọn chiến tranh sang phía
Liên Xô. Đây là đỉnh cao của chính sách “ nhân nhượng thỏa hiệp” bọn phát xít
của Anh, Pháp. Hitle còn cho quân chiếm đóng Tiệp Khắc. Sự việc này Anh,
Pháp cũng đã làm ngơ cho Đức với ảo tưởng Đức sẽ tấn công Liên Xô. Thấy
chưa đủ lực để tấn công Liên Xô, Đức kí với Liên Xô “ Hiệp ước không xâm
lược nhau”, tạo điều kiện cho Đức tấn công đánh chiếm Ba Lan. Qua lời miêu tả
của giáo viên về bức tranh hội nghị Muy-nich, học sinh sẽ nhận rõ bản chất của
chủ nghĩa đế quốc thủ phạm gây ra cuộc chiến tranh thế giới II. Chính sách
“dung dưỡng, thỏa hiệp” của chúng với bọn phát xít đẩy nhân loại vào cuộc
chiến tranh tàn khốc, ác liệt, hủy diệt bao sinh mạng người dân vô tội.
Ví dụ 3 : Khi dạy bài 12, phần 3, mục II: “Hoạt động của Nguyễn Ái
Quốc ’’ ( SGK, Tr.81). Giáo viên cho học sinh quan sát hình 27: Toàn cảnh Đại
hội Tua ( Pháp) năm 1920, với sự tham dự của Nguyễn ái Quốc tham gia phát
biểu ý kiến tại Đại hội. Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận
được việc Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin để truyền
bá vào Việt Nam, từ đó có tình cảm tự hào về con người Nguyễn Ái Quốc.
Ví dụ 4: Khi giảng bài 13: “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ
1925 đến 1930” dạy đến phần 3, mục I: “Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi
nghĩa Yên Bái” giáo viên cho học sinh quan sát chân dung của Nguyễn Thái
Học và giới thiệu về tiểu sử vị lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng sẽ
gây được hứng thú cho học sinh trong việc tìm hiểu về tổ chức cũng như giáo
dục cho học sinh tinh thần dũng cảm, sự hy sinh quên mình vì đất nước của
những thế hệ cha anh đi trước. Hoặc khi dạy mục II, phần 3 ( SGK, Tr. 94):
“ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam’’ dạy
đến “ Luận cương chính trị 10 năm 1930’’ giáo viên cho học sinh quan sát hình
33 SGK về chân dung đồng chí Trần Phú. Sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên
sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử,
quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú
- Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta.

Tóm lại: Tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá
trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu
tượng. Thông qua quan sát miêu tả tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng
diễn đạt , lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch
sử , giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể
một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái
quát rút ra những kết luận lịch sử. Như vậy, việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác
được nội dung lịch sử thể hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát
huy được năng lực tư duy cho học sinh, kích thích trí tưởng tượng phong phú,
tạo hứng thú học tập cho các em.
8


2.3.2. Sử dụng bản đồ, lược đồ
Chuẩn bị bản đồ, lược đồ: Tùy thuộc vào nội dung bài giảng có bản đồ,
lược đồ hay không mà giáo viên cần có sự chuẩn bị. Ví dụ ở bài 18 (SGK Lịch
sử 12), giáo viên cần chuẩn bị lược đồ chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm
1947, bản đồ chiến dịch biên giới Thu - Đông năm 1950; ở bài 20 (SGK Lịch sử
12), cần chuẩn bị lược đồ hình thái chiến trường trong Đông - Xuân 1953-1954,
lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), lược đồ cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân 1975 ...
Để chuẩn bị cho việc dạy tốt, giáo viên cần lấy lược đồ diễn biến các
chiến dịch đó trên các đĩa tư liệu lịch sử hoặc trên mạng internet có độ chính xác
cao vào file riêng.
Xử lý bản đồ, lược đồ: Sau khi đã tìm được bản đồ, lược đồ giáo viên cần
xử lý hiệu quả để khai thác triệt để ngôn ngữ của bản đồ, lược đồ theo ý người
dạy mà không làm sai lệch tính khoa học, tính nguyên tắc của bản đồ giáo khoa.
Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kỹ các kí hiệu, các biểu tượng, đường
biên giới trên bản đồ, lược đồ, nắm rõ diễn biến của một chiến dịch hay hình thái
chiến trường quân sự được thể hiện trên bản đồ, lược đồ. Để tạo được sự hấp

dẫn và để học sinh nắm được nội dung của diễn biến chiến dịch, giáo viên nên
tạo ra các hiệu ứng bằng những màu mũi tên, kí hiệu khác nhau trên lược đồ. Ví
dụ: Ở bài 20 (SGK Lịch sử 12), giáo viên có thể sử dụng Slide thứ nhất là lược
đồ hình thái chiến trường trong Đông - Xuân 1953 - 1954, các hiệu ứng sẽ giúp
học sinh thấy rõ địa bàn phân tán lực lượng của địch. Đồng thời giáo viên có thể
kết hợp ghi lời nói diễn biến luôn trên Slide đó. Slide thứ hai, giáo viên chuẩn bị
lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). Ở chiến dịch này, giáo viên
cũng sử dụng kỹ thuật tương tự như ở Slide 1 về diễn biến chiến dịch.
Thực hiện giờ dạy: Cho học sinh học ở phòng máy chiếu. Khi nào đến
mục có bản đồ, lược đồ thì giáo viên mới chiếu lên màn hình để học sinh quan
sát.
Ví dụ: đối với bài 20, SGK lịch sử lớp 12. Ở mục II, phần 1 - Cuộc tiến
công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954), giáo viên có thể cho các em chủ
động chuẩn bị trước ở nhà về lược đồ chiến cuộc Đông- Xuân 1953- 1954 và
chiến dịch Điện Biên Phủ bằng các câu hỏi gợi ý. Khi dạy, giáo viên mời một
học sinh lên trình bày phần mà giáo viên đã cho chuẩn bị, các bạn khác có thể
góp ý, bổ sung. Sau đó, giáo viên cho học sinh quan sát trên màn hình diễn biến
của chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954. Đối với mục 2 - Chiến dịch Điện Biên
Phủ (1954), giáo viên dựa vào lược đồ để trình bày vị trí địa lí của Điện Biên
Phủ, cách bố trí lực lượng của địch. Tiếp đó, giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét
về lực lượng địch ở Điện Biên Phủ và chốt lại: Đây là một tập đoàn cứ điểm
mạnh, lực lượng quân địch đông, trang bị vũ khí hiện đại, công sự và cách bố
phòng rất kiên cố. Vì vậy, địch coi Điện Biên Phủ là “con nhím khổng lồ”, là
“một pháo đài bất khả xâm phạm”.
Về diễn biến chiến dịch, giáo viên yêu cầu học sinh vừa theo dõi sách
giáo khoa, vừa quan sát lược đồ và gợi mở. Đợt 1: ta tấn công vào đâu, kết quả
9


ra sao? Đợt 2: quân ta tiến công tiêu diệt căn cứ nào? Đợt 3: quân ta tấn công và

tiêu diệt căn cứ này ra sao? Sau khi học sinh trao đổi, phát biểu ý kiến, giáo viên
cho học sinh xem Slide mà giáo viên đã chuẩn bị trên màn hình…
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ, lược đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho
các em kí hiệu ghi trên bản đồ, lược đồ đồng thời tập cho các em quan sát, đọc
bản đồ, lược đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên đó.
Tóm lại: Thông qua việc sử dụng bản đồ, lược đồ giáo viên hướng dẫn
học sinh rèn luyện được các kỹ năng bản đồ, lược đồ; Đọc tên bản đồ, lược đồ
để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên đó là gì?; Hiểu và đọc được bản chú
giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ, lược đồ như thế nào?
bằng các ký hiệu gì ? Bằng màu sắc gì?; Xác định vị trí, phương hướng của các
địa điểm trên bản đồ, lược đồ. Cao hơn nữa giáo viên hướng dẫn học sinh biết
dựa vào bản đồ, lược đồ kết hợp với các kiến thức lịch sử để phân tích, so sánh,
giải thích các mối quan hệ của các sự kiện, các đối tượng. Thông qua bản đồ,
lược đồ giúp học sinh hiểu và nhớ lâu hơn các sự kiện từ đơn giản sau đó thực
hành với các chiến dịch, các trận đánh có quy mô lớn hơn. Qua việc sử dụng bản
đồ, lược đồ các em cũng có thể đánh giá được tác động của các điều kiện tự
nhiên liên quan đến sự kiện lịch sử và cũng qua đó giáo viên có thể đánh giá
được khả năng lĩnh hội của các em và có hướng điều chỉnh, sửa chữa kịp thời
cho các em và đây cũng là phương pháp kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo
của các em.
2.3.3. Sử dụng phim tư liệu, video
Chuẩn bị các đoạn video tư liệu: Giáo viên có thể tìm kiếm tư liệu phim
lịch sử trên internet hoặc các đĩa tư liệu dạy học lịch sử do nhà xuất bản giáo dục
phát hành đảm bảo tính chính xác và khoa học. Sau đó giáo viên lưu file, sắp
xếp theo bài học, khối học cho phù hợp để phục vụ nội dung giảng dạy.
Sử dụng các đoạn phim tư liệu, video vào tiết học cụ thể: Đối với mục 2 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 (Bài 23 - Lịch sử 12), về
diễn biến của 3 chiến dịch, giáo viên nên để các em chủ động nghiên cứu và
lược thuật ngắn gọn trên lược đồ. Học sinh trình bày xong giáo viên có thể cho
các em xem đoạn video về trận Buôn Ma Thuột, chiến dịch Đà Nẵng và trận
phía đông của chiến dịch Hồ Chí Minh. Với việc xem những đoạn phim ngắn

này, các em như được sống trong những ngày tháng oanh liệt hào hùng của dân
tộc ta, thấy được sự lãnh đạo tài tình của Đảng, sự mưu trí, dũng cảm của bộ đội
ta, tinh thần đoàn kết quyết thắng của cả dân tộc...
Khi dạy bài 22 SGK lịch sử lớp 12, phần 3: Cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy xuân Mậu Thân 1968. Giáo viên cho học sinh xem phim tài liệu Mậu Thân
1968, Tập 1- cuộc đối đầu lịch sử. Sau khi xem xong các em có cái nhìn trung
thực về cuộc chiến phi nghĩa của Mỹ tại Việt Nam. Qua đó, giáo dục cho học
sinh lòng biết ơn các lớp ông cha đã không tiếc máu xương hy sinh về nền độc
lập tự do của tổ quốc.
Ngoài ra, giáo viên có thể sưu tầm rất nhiều đoạn phim tư liệu và vi deo
khác, như: Chiến tranh Lạnh (1947 - 1989); Hồ Chí Minh - Chân dung một con
10


người; Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954; Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không
(Những năm tháng không thể nào quên); Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn xuân
1975; Cuộc chiến tranh 1000 ngày; Video đồ họa Lịch sử Việt Nam (hình chữ S)
tham khảo…
Qua việc sử dụng các đoạn phim tư liệu lịch sử vào giảng dạy ở nhà
trường, đã góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết về lịch sử một cách hiện thực,
khách quan, sinh động. Qua đó, giáo dục cho các em các giá trị đạo đức, giá trị
truyền thống của dân tộc và giá trị của nhân loại (lòng yêu quê hương, đất nước,
tinh thần đoàn kết, nhân nghĩa, yêu thương con người, hòa bình, tôn trọng, nhân
ái, khoan dung, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường và cộng
đồng, xã hội, nhân loại…).Rèn luyện các kĩ năng cơ bản như : tự nhận thức, làm
chủ cảm xúc, ứng phó với căng thẳng, giao tiếp, ứng xử văn hóa, lắng nghe tích
cực, học tập, giải quyết mâu thuẫn, giải quyết vấn đề. Bồi dưỡng tình cảm, niềm
tin vào các giá trị tốt đẹp, sự hứng thú, tích cực, chủ động, sáng tạo, có thái độ
đúng đắn trước những vấn đề của lịch sử cũng như hiện tại, biết tự đánh giá và
điều chỉnh để hoàn thiện bản thân và giúp người khác hướng tới mục tiêu chân,

thiện, mĩ.
Tóm lại: Cách sử dụng đồ dùng trực quan cơ bản nói trên đã thực sự giúp
học sinh có hứng thú với bộ môn lịch sử. Từ đó, các em phát huy sự sáng tạo và
rèn các kỹ năng thực hành khác. Bởi vậy, bài học lịch sử sẽ thấm vào các em
một cách nhẹ nhàng, sâu sắc, tạo tình huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng
tạo của học sinh. Học sinh có thể dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác
về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh
trực quan (hình tư liệu, bản đồ, những đoạn phim tư liệu …)
Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ của xã hội loài người. Nó đã
tồn tại cách chúng ta hàng chục năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng triệu năm.
Do đó, việc tiếp cận và tái hiện lại lịch sử gần giống như nó đã từng tồn tại là
một việc rất khó khăn. Vì vậy, nếu giáo viên sử dụng những tư liệu lịch sử như:
hình ảnh, bản đồ, lược đồ và đặc biệt là phim tư liệu vào giảng dạy thì sẽ góp
phần rất lớn giúp học sinh có thể tái hiện lại được sự kiện lịch sử gần giống như
nó đã từng tồn tại – đây là điều rất quan trọng với môn Lịch sử. Do đó, việc sử
dụng đồ dùng trực quan vào giảng dạy Lịch sử là vừa mang tính lịch sử, vừa
mang tính thời đại.
2.3.4. Sử dụng loa phát thanh trường học
Hệ thống loa phát thanh là phương tiện rất hiệu quả đối với hoạt động dạy
– học ở nhà trường nói chung và môn học lịch sử nói riêng. Đây là phương tiện
góp phần truyền tải những thông tin, những kiến thức đến học sinh một cách
hiệu quả và thiết thực.
Hàng tuần tổ chức 3 buổi phát thanh toàn trường, vào các ngày thứ hai,
thứ tư và thứ sáu. Thời gian phát thanh vào lúc ra chơi giữa buổi học, hoặc vào
các ngày tổ chức các hoạt động tập thể, với thời lượng phát thanh từ 10-15 phút,
tuỳ theo nội dung do các thầy dạy sử biên tập và soạn tin.

11



Nội dung phát thanh tập trung viết về tiểu sử của các nhân vật lịch sử,
tuyên tuyền các ngày lễ lớn như: kỷ niệm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam ( 3/2/); cách mạng tháng tám thành công; chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5;
ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12; ngày giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước 30/4. Lồng ghép phát thanh về các ca khúc cách mạng như:
Màu cờ tôi yêu (Thơ: Diệp Minh Tuyền; Nhạc: Phạm Tuyên Thơ); Đảng là cuộc
sống của tôi (Sáng tác: Nguyễn Đức Toàn); Hát dưới cờ Đảng quang vinh (Sáng
tác: Phạm Trần); Đâu Đảng cần, chúng ta có mặt (Sáng tác: Văn An); Chào
mừng Đảng Cộng sản Việt Nam (Sáng tác: Đỗ Minh)… Giai điệu tự hào như:
Tiến quân ca (sáng tác: Văn Cao); Chiến sĩ Việt Nam (sáng tác: Văn Cao); Đoàn
Vệ quốc quân (sáng tác: Phan Huỳnh Điểu); Liên khúc: Chào anh giải phóng
quân, chào mùa xuân đại thắng, Người chiến sĩ ấy )…
Qua chương trình phát thanh những nội dung liên quan đến lịch sử trên
giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về lịch sử, các em có tâm lý tiếp nhận những
thông tin và kiến thức lịch sử một cách thoải mái, tự nguyện và không bị áp đặt.
Qua đó khích lệ tinh thần học tập, rèn luyện kỹ năng sống góp phần giáo dục,
bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, niềm tự hào, tin tưởng của thế hệ trẻ vào lịch sử
của dân tộc, sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại: Chương trình phát thanh trường học về những kiến thức lịch sử
thật sự là một phương tiện rất bổ ích đối với các em học sinh, giúp học sinh nắm
bắt kịp thời những tin tức, những kiến thức lịch sử . Qua đó nâng cao kiến thức
trong học tập, rèn luyện kỹ năng sống, đồng thời khích lệ tinh thần học tập, sự
hứng thú, yêu thích bộ môn lịch sử của các em…
Kết quả các năm học qua cho thấy, sau các buổi phát thanh, thì học sinh
khi bước vào các tiết học lịch sử các em cảm thấy rất tự tin và có sự hiểu biết
sâu sắc hơn về kiến thức lịch sử.
Phương tiện phát thanh trường học thực sự trở thành món ăn tinh thần đối
với các em học sinh của trường THPT Bá Thước 3. Thiết nghĩ, hoạt động này
cần được phát huy, thực hiện ở các trường học trong toàn tỉnh.
2.3.5. Sử dụng bảng tin tổ chức giải kiến thức lịch sử

Tổ chức giải kiến thức lịch sử trên bảng tin khác với việc dạy theo bài học
thông thường nhưng vẫn phải đảm bảo các chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ của
chương trình và sách giáo khoa hiện hành, câu hỏi đặt ra không dừng lại ở biết
lịch sử mà nâng cao trình độ nhận thức lịch sử. Những câu hỏi đưa ra để học
sinh thi giải phải là những kiến thức về lịch sử đã được dạy và học trong chương
trình giáo dục phổ thông, có mối quan hệ mật thiết với nhau, có những điểm
tương đồng về nội dung kiến thức và các vấn đề học tập cần giải quyết. Từ
những kiến thức đó để học sinh có thể tổng kết, hệ thống hoá kiến thức, củng cố,
thực hành, rút ra quy luật, bài học lịch sử và tự nghiên cứu, đào sâu kiến thức đã
học. Nội dung câu hỏi cần đảm bảo tính toàn diện, có tính hệ thống, thể hiện mối
quan hệ của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc. Nội dung câu hỏi gồm các cột
mốc lịch sử quan trọng của đất nước; các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa,
anh hùng liệt sĩ, những người Việt Nam tiêu biểu xuất sắc trên các lĩnh vực, qua
12


các thời kỳ; thành tựu trên các lĩnh vực của đất nước trong thời kỳ đổi mới, đặc
biệt những câu hỏi mở để học sinh có thể trình bày suy nghĩ và phát huy tính tư
duy, suy nghĩ của bản thân, tăng cường khả năng vận dụng các kiến thức đã học
vào giải quyết những vấn đề khác trong học tập và thực tiễn...
Ví dụ 1: Hãy phát biểu suy nghĩ của em khi học nội dung sau trong Tuyên
ngôn Độc lập ngày 2- 9-1945 của Hồ Chủ Tịch “…Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy” trong bối cảnh Trung Quốc đang có những hành động vi
phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước ta ở biển Đông?.
Ví dụ 2: Qua tìm hiểu mục đích, nguyên tắc hoạt động của tổ chức Liên
Hợp Quốc. Hiện nay, Việt Nam đã vận dụng nguyên tắc hoạt động của tổ chức
Liên Hợp Quốc trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ và quan hệ quốc tế như
thế nào?.
Ví dụ 3: Vì sao nói “Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhất là sau Chiến

tranh lạnh, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế trở thành tất yếu”? Việt Nam
từng bước hội nhập như thế nào và có những lợi ích gì?...
Sau khi ra câu hỏi học sinh có thể thực hiện ở trên lớp hoặc ở nhà, học
sinh tự chủ, tìm tòi giải quyết vấn đề đặt ra. Với sự theo dõi, định hướng, giúp
đỡ của giáo viên.
Ví dụ 4: Thanh niên chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ và giữ vững các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam trong thời kỳ hiện nay?
Kết quả: Thông qua hình thức này, đã thu hút được đông đảo học sinh
toàn trường tham gia, với tinh thần viết bài tích cực, tự lực và sáng tạo của học
sinh trong học tập. Ví dụ như tính tích cực, tự lực thể hiện qua thái độ hăng hái
tham gia thi giải các câu hỏi, khả năng tập trung tự lực giải quyết vấn đề, sự tiến
bộ về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của học sinh sau mỗi chủ đề đưa ra, khả
năng ghi nhớ những kiến thức đã học và có thể trình bày lại nội dung đã học
bằng ngôn ngữ riêng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, khả năng sáng tạo thể
hiện qua mức độ đáp ứng của học sinh trong quá trình học tập, sự phát hiện và
giải quyết vấn đề, liên hệ giải quyết những yêu cầu mới được nảy sinh.
Tạo tâm thế học tập, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng
thú với bộ môn. Qua đó giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng mới và
đưa các kiến thức, kĩ năng mới vào hệ thống kiến thức, kỹ năng của bản thân.
Trên cơ sở tổ chức thi giải kiến thức trên bảng tin giúp học sinh xây dựng
kiến thức mới của bản thân, góp phần tạo điều kiện cho học sinh tham gia các
hoạt động học tập và hình thành phát triển năng lực trong học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Nếu sử dụng các phương pháp truyền thống, thì học sinh còn thụ động
trong việc lĩnh hội kiến thức, chưa thật sự tích cực, sôi nổi trong học tập. Học
sinh chưa thật sự hứng thú với môn học, các em chưa thể hiện được khả năng, trí
tưởng tượng, khả năng tư duy và sử dụng ngôn ngữ, tái hiện sự kiện lịch sử chưa
được chi tiết.

13



Việc sử dụng một số phương tiện và đồ dùng trực quan nêu trên vào giảng
dạy lịch sử đã góp phần tạo sự chú ý, học tập một cách sôi nổi, tiếp thu bài dễ
dàng hơn, không khí học tập thoải mái, hào hứng hơn. Phát huy được tính tự
giác, chủ động, sáng tạo, qua đó góp phần rèn luyện kỹ năng tổng hợp kiến thức,
năng lực đánh giá, học tập của học sinh trong giờ học, khích lệ động cơ, hứng
thú học tập của học sinh, giúp các em yêu thích hơn với bộ môn lịch sử. Việc sử
dụng phương pháp này cũng giúp học sinh tái hiện một cách khách quan, phát
triển trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của mình.
Kết quả kiểm tra hoạt động nhận thức của các em cho thấy, các em nghiêm
túc trong học tập, hiểu được kiến thức cơ bản của bài học và biết vận dụng kiến
thức đã học vào giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống.
Sau nhiều năm áp dụng phương pháp này, tôi thấy có sự phân hóa học sinh
như sau: học sinh giỏi, khá nắm vững, vận dụng tốt kiến thức, kỹ năng, học bài,
làm bài rất tốt; Học sinh trung bình nắm được kiến thức cơ bản, học bài, làm bài
tương đối tốt; Một số học sinh chưa chăm chỉ, chưa chú ý, lười suy nghĩ kết quả
học tập chưa cao.
Kết quả xếp loại học lực môn lịch sử các năm gần đây ( chỉ tính riêng học
sinh khối 12) như sau:
Khá
SL
%
82 48.2

Học lực
T.Bình
SL
%
78

46

6.2

78

53.4

57

39.1

2

1.3

0

0

8.6

81

58.3

46

37.6


0

0

0

0

15 14.1

79

74.5

12

11.4

0

0

0

0

TT

Năm học


Tổng
số học
sinh

1

2012-2013

170

2

2013-2014

146

9

3

2014-2015

139

12

4

2015-2016


106

Giỏi
SL %
6 3.5

Yếu
SL %
4 2.3

Kém
SL %
0 0

Số học sinh đăng ký học và thi khối C của nhà trường ngày càng tăng: năm
2012 – 2013 mới 10 em; đến năm 2013 – 2014 là 14 em; năm 2014 – 2015 là 17
em; năm học 2015 – 2016 trong tổng số 28 em đăng ký thi ĐH của trường thì có
tới 21 em thi khối C. Kết quả thi khối C các năm, riêng điểm thi môn lịch sử học
sinh đạt tối thiểu từ 5 điểm trở lên... Mặc dù kết quả này chưa thật sự cao, nhưng
với một trường miền núi cao, học sinh chủ yếu là con em dân tộc, có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn như trường THPT Bá Thước 3 thì đây là một
kết quả đáng khích lệ cần được biểu dương và phát huy.
Như vậy, so với phương pháp truyền thống thì việc sử dụng một số phương
tiện và đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói chung và
trường THPT Bá Thước 3 nói riêng mang lại hiệu quả cao.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
14



Dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh được thực hiện một nhiệm vụ
học tập thích hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Nhiệm vụ này
được học sinh thực hiện với tính tích cực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ
việc xác định được kiến thức cơ bản, học sinh còn biết cách phân tích, đánh giá,
phát triển khả năng trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ. Học sinh có thể phát
huy sự độc lập, sáng tạo của mình trong tư duy, học tập, kiểm tra qua những
hình thức và phương pháp mới thay vì phải chịu quá nặng hình thức kiểm tra ghi
nhớ kiến thức như hiện nay.
Đừng kết tội “Học sinh ta đã quay lưng với môn Lịch sử” mà phải thấy
rằng các em đang “Đòi” được học Lịch sử tốt hơn cái mà nhà trường chúng ta
đang có. Học đi đôi với hành, tăng cường thực hành bộ môn và vận dụng kiến
thức Lịch sử vào cuộc sống là một phương cách để phát huy giá trị bộ môn Lịch
sử ở trường phổ thông, để mỗi bài học Lịch sử là một “món quà” chứ không
phải là một “cuộc tra tấn”.
Điều này rất cần thiết và phù hợp với mục tiêu của nền giáo dục nước ta
hiện nay là phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng
lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Đó cũng là niềm mong
mỏi và hy vọng của tất cả những người làm công tác giáo dục.
Để đạt mục tiêu chung của chương trình lịch sử thể hiện cụ thể ở mặt giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển, người giáo viên cần phải nhận thức và quán triệt
mục tiêu vào mọi hoạt động giáo dục theo hướng tích cực hoá việc dạy và học
môn lịch sử của thầy và trò. Điều này phải đòi hỏi sự nổ lực, cố gắng cao, người
giáo viên phải biết phát huy những ưu điểm, kinh nghiệm có sẳn, đồng thời biết
sáng tạo linh hoạt trong quá giảng dạy trên lớp, phải biết khắc phục những tồn
tại, thiếu sót trong dạy và học, nhất thiết phải bỏ kiểu dạy “thầy giảng trò ghi”,
“thầy đọc trò chép”. Trò trả lời theo sách mà không có những sáng tạo chủ động
nào trong quá trình học tập của trò. Việc sử dụng một số phương tiện và đồ dùng

trực quan vào giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT, cũng là một trong biện
pháp cách thức để gây hứng thú học tập bộ môn lịch sử đối với học sinh bậc
trung học phổ thông nói chung và ở trường THPT Bá Thước 3 nói riêng. Tuy là
một vài biện pháp nhỏ nhưng góp phần hoạt động giáo dục theo hướng tích cực
hoá trong dạy và học hiện nay.
3. 2. Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở trường THPT, bản thân
tôi có các kiến nghị sau:
- Các cấp lãnh đạo cần quan tâm, hỗ trợ, bồi dưỡng giáo viên về chuyên
môn, công tác đổi mới phương pháp dạy học,…..
- Hỗ trợ và trang bị thêm cácđồ dùng trực quan và phương tiện dạy học.
- Về phía giáo viên không ngừng học tập, nghiên cứu, tham gia sinh hoạt
chuyên môn, chuyên đề…. nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
15


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Lê Việt Hồng

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Trịnh Thanh Tâm

TÀI LIỆU THAM KHẢO


16


1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo;
2. Công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH ngày 08/10/2014 của Bộ GDĐT về đổi
mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá;
3. Công văn số 5333/GDTrH-BGDĐT ngày 29/9/2014 của Bộ GDĐT về
Triển khai đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học
sinh;
4. PGS.TS. Trần Ngọc Giao, Quản lý trường phổ thông. Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam, 2013.
5. ww.Wikipedia.org/wiki/chinhphudientu.

PHỤ LỤC
Một số tranh ảnh, bản đồ, lược đồ sử dụng trong đề tài:
17


Đại hội Tua (Pháp) tháng 12/1920
(Ảnh tư liệu)

Hình ảnh Phi đen Cátxtơrô

Trần Phú ( 1904 – 1931)
(Ảnh tư liệu)

Hình ảnh về N. Manđêla


18


Hình ảnh về Hội nghị Muy ních
( 29/9/1938)

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan sát Mặt
trận Đông Khê (1950

Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên
Phủ ( 1954)

Lược đồ hình thái chiến trường trong
đông – xuân 1953 - 1954

19



×