Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Sử dụng bài tập lịch sử nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ở trường THPT (vận dụng qua phần lịch sử thế giới giai đoạn 1918 - 1939, lớp 11, chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 120 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới
TS. Nguyễn Văn Ninh - người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em
trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa, gia đình, bạn bè đã
luôn ở bên cạnh động viên và ủng hộ em trong thời gian qua.
Và em xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện
trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, Trung tâm Thông tin và Thư viện trường
Đại học sư phạm Hà Nội 1, Thư viện trường Đại học Quốc gia Hà Nội, đã
giúp đỡ em tìm hiểu, khai thác nguồn tài liệu cần thiết để hoàn thành khóa
luận này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh
trường THPT Yên Phong số 1, THPT Hiệp Hòa số 1, THPT Hiệp Hòa số 3 đã
tạo điều kiện thuận lợi để em điều tra và thực nghiệm đề tài của mình.
Lần đầu tiên bước vào nghiên cứu khoa học nên bản thân không tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
chân thành từ thầy cô, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2017
Sinh viên

Nguyễn Thị Hồng Yến


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TH:

Tự học

THLS:


Tự học lịch sử

BT:

Bài tập

BTLS:

Bài tập lịch sử

KN:

Kĩ năng

KNTH:

Kĩ năng tự học

KNTHLS:

Kĩ năng tự học lịch sử

THPT:

Trung học phổ thông

GV:

Giáo viên


HS:

Học sinh

SGK:

Sách giáo khoa

DHLS:

Dạy học lịch sử

PPDH:

Phương pháp dạy học

BTTNKQ:

Bài tập trắc nghiệm khách quan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 5
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................. 6
6. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................ 6
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài ....................................................................... 6

8. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÀI
TẬP LỊCH SỬ NHẰM RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH
Ở TRƯỜNG THPT ........................................................................................... 8
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 8
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................... 8
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng tự
học cho học sinh........................................................................................ 20
1.1.3. Phân loại bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh THPT 25
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của bài tập đối với việc rèn luyện kĩ năng tự học
cho học sinh trong dạy học lịch sử ........................................................... 30
1.1.5. Những kĩ năng tự học cần hình thành cho học sinh trung học phổ
thông khi sử dụng bài tập lịch sử .............................................................. 32
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 36
1.2.1. Thực trạng của việc dạy học Lịch sử ở trường phổ thông .............. 36
1.2.2. Thực trạng việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho
học sinh ..................................................................................................... 37
1.2.3. Nguyên nhân thực trạng .................................................................. 45
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 47


Chương 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG BÀI TẬP LỊCH SỬ NHẰM
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 1918 - 1939, LỚP 11, CHƯƠNG TRÌNH
CHUẨN ........................................................................................................... 48
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử thế giới giai đoạn
1918 - 1939, lớp 11, chương trình chuẩn ..................................................... 48
2.1.1. Vị trí ................................................................................................ 48
2.1.2. Mục tiêu .......................................................................................... 48
2.1.3. Nội dung.......................................................................................... 50

2.2. Những yêu cầu khi xây dựng và sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ
năng tự học cho học sinh THPT .................................................................. 51
2.3. Một số biện pháp sư phạm sử dụng bài tập lịch sử nhằm rèn luyện kĩ
năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1918 - 1939, lớp
11, chương trình chuẩn ................................................................................ 55
2.3.1. Sử dụng bài tập nhận thức .............................................................. 55
2.3.2. Sử dụng bài tập có tính chất thực hành........................................... 59
2.3.3. Bài tập trắc nghiệm khách quan...................................................... 69
2.4. Thực nghiệm sư phạm........................................................................... 78
2.4.1. Mục đích thực nghiệm .................................................................... 78
2.4.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm ............................................... 78
2.4.3. Nội dung thực nghiệm .................................................................... 79
2.4.4. Tiến hành thực nghiệm ................................................................... 79
2.4.5. Kết quả thực nghiệm ....................................................................... 81
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong vấn đề giáo dục nói chung và việc học nói riêng thì tự học chiếm
một vị trí hết sức quan trọng. Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng
cố và ghi nhớ bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích,
tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng những tri thức đã học vào việc
giải quyết những nhiệm vụ học tập mới. Đồng thời, tự học giúp người học
hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác trong học tập. Vấn đề tự học
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Trung ương V khóa
VIII từng nêu rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng

lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự
học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp toàn dân”. Các nhà giáo dục ở các nước có nền giáo dục
rất phát triển ở châu Á như Nhật Bản và Singapore đều cho rằng tự học và
sáng tạo là những kĩ năng “kép” cần cho một người học sinh hiện đại, để rút
ngắn khoảng cách thua kém và để học sinh trở thành người chủ thực sự của
tương lai.
Môn Lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh những kiến thức
cơ bản của khoa học lịch sử. Kết quả của việc dạy học lịch sử không chỉ phụ
thuộc vào phương pháp giảng dạy của giáo viên mà còn phụ thuộc vào
phương pháp học của học sinh. Giáo viên trước hết phải xác định rõ mục đích
học tập lịch sử cho học sinh. Điều này đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Học tập lịch sử không phải chỉ để “biết” mà phải “tường”, hiểu “gốc
tích” để hiểu hiện tại. Do đó, học sinh học lịch sử không chỉ việc ghi nhớ sự
kiện, mà điều quan trọng phải hiểu được bản chất của sự kiện, hiện tượng và

1


rút ra quy luật, bài học kinh nghiệm của quá khứ với hiện tại, đồng thời có sự
nhìn nhận, phán đoán xu hướng phát triển trong tương lai. Do đó, cần tránh và
khắc phục những sai lầm trong quan niệm học lịch sử là chỉ “nhớ”, “học thuộc
lòng” nhưng lại không “hiểu” bản chất. Trong quá trình dạy học trên lớp, giáo
viên không chỉ cung cấp kiến thức mà còn hướng dẫn học sinh phương pháp,
kĩ năng học tập đúng đắn.
Có nhiều kĩ năng tự học cần hình thành và rèn luyện cho học sinh trong
quá trình giảng dạy môn Lịch sử. Khi giải quyết bài tập, các kĩ năng cơ bản
như làm việc với sách giáo khoa; ghi nhớ sự kiện, tái hiện kiến thức lịch sử;

phân tích, tổng hợp kiến thức; so sánh đối chiếu sự kiện, hiện tượng; đánh giá
nhân vật, sự kiện. Bên cạnh đó, rèn luyện cho học sinh tính tự giác, tích cực,
chủ động và hứng thú đối với bộ môn.
Sử dụng bài tập lịch sử nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong
quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng. Tuy
nhiên, hiện nay phần lớn giáo viên vẫn dạy học theo cách truyền thống, đó là
truyền đạt kiến thức cho học sinh, ít khuyến khích học sinh tự học, ít giao bài
tập về nhà cho học sinh, hay đôi khi chỉ là mang tính hình thức. Học sinh ghi
chép tỉ mỉ, học thuộc lòng. Một số học sinh học thuộc lòng cả quyển sách giáo
khoa, nhất là học sinh khối C. Cách học này, học sinh luôn chú ý ghi chép bài,
nhớ kiến thức nhưng mang tính chất “học vẹt’’ cao hơn, học sinh thụ động,
không có tư duy sáng tạo. Một bộ phận lớn học sinh phổ thông hiện nay
không có ý thức làm bài tập, hoặc chỉ làm một cách đối phó chống đối với
việc kiểm tra của giáo viên. Điều đó khiến cho việc sử dụng bài tập nhằm rèn
luyện kĩ năng tự học cho học sinh chưa phát huy hết tác dụng của nó, hiệu quả
học tập của học sinh chưa cao.
Thực trạng trên là do nhiều nguyên nhân. Do cách dạy của giáo viên; do
tâm lý của học sinh quan niệm sai lệch “môn chính”, “môn phụ” nên ý thức

2


học tập của học sinh chưa tốt; do nội dung chương trình chưa hấp dẫn học
sinh hoặc giáo viên chưa biết cách lựa chọn nội dung kiến thức cơ bản của bài
học nên làm cho kiến thức “quá tải” đối với học sinh; do cách ra đề thi
“đóng”, kiểu “học gì thi nấy” làm cho học sinh bó hẹp cách học của mình.
Giai đoạn lịch sử thế giới giai đoạn 1918 - 1939, thuộc phần lịch sử thế
giới hiện đại trong chương trình lịch sử lớp 11 THPT, đây là giai đoạn tiếp
nối của giai đoạn lịch sử thế giới cận đại. Giai đoạn lịch sử 1918 - 1939 chiếm
một vị trí quan trọng trong phần lịch sử thế giới hiện đại, nó giúp ta nhìn nhận

rõ hơn về tình hình các nước tư bản, cũng như các nước châu Á trong khoảng
thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Muốn hiểu rõ về giai đoạn này,
cũng như vận dụng kiến thức để tìm hiểu giai đoạn tiếp theo, học sinh cần tích
cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện các kĩ năng tự học của bản thân. Sử dụng
hệ thống bài tập lịch sử sẽ giúp các em đạt được mục tiêu đó.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng bài tập lịch sử
nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ở trường THPT (vận dụng qua
phần lịch sử thế giới giai đoạn 1918 - 1939, lớp 11, chương trình chuẩn) làm
đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, vấn đề tự học được quan tâm từ rất sớm và được nhìn nhận
theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trong cuốn “Phát huy tính tích cực trong
học tập của học sinh như thế nào” của I.F.Kharlamop (1979), tác giả đã đề
cao vai trò tự học trong hoạt động nhận thức của học sinh. Trong cuốn
“Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” của N.G Đairi - Tiến sĩ giáo dục Liên
Xô (1969), tác giả đã trình bày với độc giả một vấn đề rất quan trọng của việc
dạy và học bộ môn lịch sử: vấn đề giờ học lịch sử. Cái mới ở cuốn sách này là
ở chỗ tác giả đã đề ra phương thức giải quyết giờ học lịch sử theo hướng mới
của lý luận dạy học Xô Viết: chuẩn bị giờ học nhằm phát huy óc suy nghĩ độc
lập và tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh. Trong cuốn

3


“Nghiên cứu, học tập như thế nào” của nhà giáo dục Cộng hòa Dân chủ Đức
– Hebơc Sruitman đã đề cao giá trị của tự học: “Tất cả những gì mình tự
nghiên cứu, tìm hiểu và tìm cách diễn đạt một cách chính xác sẽ dễ dàng lưu
giữ trong não tốt hơn những gì chỉ tiếp nhận của người khác”. Trong cuốn
“Phát triển kĩ năng học tập” của tác giả Conrad Lashley, dạy cho học sinh
cách sử dụng thời gian và nỗ lực học tập hiệu quả nhất, bằng cách phát triển

các kĩ thuật cơ bản, đơn giản để tổ chức thời gian học, đọc, ghi chép, thu thập
thông tin. Cuốn sách “Phương pháp dạy học Lịch sử qua sơ đồ, bảng biểu và
hình vẽ” của tác giả M.B Kôrôkôva, Stuđennhikin (1999) nêu ra các năng lực
tự học mà giáo viên cần định hướng cho người học như tái hiện và tái tạo lại
các biểu tượng lịch sử, phân tích, xử lí các nguồn thông tin; tư duy logic, tư
duy hiện đại với các nguồn tư liệu lịch sử; sơ đồ hóa; đánh giá sự kiện, hiện
tượng lịch sử.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vần đề tự học và
sử dụng bài tập nhằm nâng cao kĩ năng tự học cho học sinh. Trong cuốn sách
“Phương pháp dạy học lịch sử” do G.S Phan Ngọc Liên chủ biên, khẳng định
vai trò của bài tập lịch sử đối với khả năng phát triển tư duy của học sinh;
cuốn “Phương pháp dạy học môn lịch sử ở trường THPT” của PGS.TS. Vũ
Quang Hiển - T.S Hoàng Thanh Tú, đã đề cập đến phương pháp tự học của
học sinh, đến việc sử dụng bài tập trong việc giảng dạy lịch sử; cuốn “Các
con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
của Nguyễn Thị Côi.
Luận văn thạc sĩ, của Trần Thị Thu “Biên soạn và sử dụng bài tập lịch
sử ở lớp 8 THCS” (2012), bài viết đưa ra cách thức biên soạn câu hỏi, bài tập
trong quá trình dạy học lịch sử; “Một số biện pháp phân tích kỹ năng tự học
cho học sinh qua sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường
THPT” (2012) của Nguyễn Hồng Nhung; “Một số biện pháp rèn luyện kỹ
năng thực hành qua dạy học lịch sử thế giới hiện đại từ 1917-1945 cho học

4


sinh lớp 11, trường THPT chuyên Trần Phú - Hải Phòng” của Nguyễn Thị
Xuân Hương; “Rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam 1858-1918, lớp 11, chương trình chuẩn” của Nguyễn Thị Thanh
Thủy; “Thiết kế và sử dụng bài tập về nhà trong dạy học lịch sử ở trường phổ

thông” của Trần Thị Phương Lan, đề cập đến một số biện pháp sử dụng bài
tập để rèn luyện, phát triển năng lực cho học sinh.
Như vậy, vấn đề tự học và các biện pháp để thực hiện hoạt động tự học
đã được nhiều nhà giáo dục trên thế giới cũng như trong nước quan tâm, đề
cập tới dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong
dạy học lịch sử thế giới 1918 - 1939 (lớp 11 THPT, chương trình chuẩn).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: phần lịch sử thế giới từ 1918 - 1939, SGK lớp 11, chương
trình chuẩn.
- Địa bàn, phạm vi khảo sát: Trường THPT Yên Phong số 1 (Yên Phong
- Bắc Ninh)
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng sử dụng bài tập lịch sử thế giới giai đoạn 1918 1939, SGK lịch sử 11(chương trình chuẩn), nhằm đề xuất các biện pháp sử
dụng bài tập góp phần rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận về kĩ năng tự học, việc sử dụng bài tập
nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh.
- Tiến hành điều tra cơ bản đối với giáo viên và học sinh ở một số trường

5


THPT đánh giá việc sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử.
- Tìm hiểu nội dung chương trình SGK lịch sử lớp 11 THPT (phần lịch
sử thế giới hiện đại 1918 - 1939) để xác định các dạng bài tập lịch sử sử dụng
trong các tiết dạy nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh.

- Đề xuất một số biện pháp sử dụng hiệu quả bài tập nhằm rèn luyện kĩ
năng tự học cho học sinh vào dạy học lịch sử, tiêu biểu phần lịch sử thế giới
1918 - 1939.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm .
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng và Nhà nước ta về lịch sử, giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Phương pháp thực nghiệm
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu việc sử dụng bài tập lịch sử trong dạy học được vận dụng một cách
hợp lí, linh hoạt sẽ góp phần rèn luyện tốt kĩ năng tự học cho học sinh và nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa, sự cần thiết của việc sử dụng bài tập lịch
sử nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử phần lịch
sử thế giới giai đoạn 1918 -1939, lớp 11, chương trình chuẩn.
- Đánh giá được thực trạng sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở
trường THPT nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh.
- Đề ra một số biện pháp sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng tự học
cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới giai đoạn 1918-1939.

6


8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Khóa luận
gồm 2 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng bài tập lịch sử
nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ở trường THPT
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng bài tập lịch sử nhằm rèn luyện kĩ
năng tự học cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới giai đoạn 1918 1939, lớp 11, chương trình chuẩn

7


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
BÀI TẬP LỊCH SỬ NHẰM RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm “học”:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “học” đã được phân loại và
sắp xếp theo trình độ nhận thức của người học từ đơn giản cho đến phức tạp:
Thứ nhất, học là quá trình lĩnh hội thông tin càng nhiều càng tốt. Càng
học càng nắm bắt được nhiều thông tin, qua đó người học làm giàu có, phong
phú thêm kiến thức của bản thân.
Thứ hai, học là quá trình người học ghi nhớ lại kiến thức mà người dạy
truyền đạt, học thuộc lòng, ghi nhớ cho bản thân.
Thứ ba, học là quá trình tiếp thu kiến thức rồi áp dụng vào thực tế, giải
quyết những tình huống đặt ra.
Thứ tư, học là quá trình biến đổi trong nhận thức để hiểu biết thế giới
bằng lí giải và thông hiểu thực tiễn. Học là xác định mô hình thông tin và liên
kết mô hình đó với thông tin từ các tình huống và hoàn cảnh khác nhau.
Thứ năm, học là quá trình biến đổi con người, là sự am hiểu thế giới
bằng nhiều con đường khác nhau, làm cho bản thân tiến bộ về mặt tri thức, kĩ
năng, thái độ và giá trị của một con người.
Theo Nguyễn Kỳ (1996): “Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển

nội tại trong đó chủ thể tự thể hiện mình, tự làm phong phú giá trị của mình
bằng cách thu nhận, xử lí biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong
con người mình” [29].
Nguyễn Kỳ chỉ ra rằng có ba cách tiếp cận cùng với quan niệm chủ yếu
sau đây về học:

8


Cách tiếp cận thứ nhất, quan tâm đến kết quả cuối cùng đạt được là sản
phẩm học hay hành vi nhận biết được. Đó là cách tiếp cận theo hành vi, đáp
lại phản xạ có điều kiện của Paplop, hay theo hành vi tác động phản xạ có
điều kiện của Skinner: “học là quá trình làm biến đổi hành vi từ kinh nghiệm
hay là từ sự tiếp xúc với môi trường sống của chủ thể”.
Cách tiếp cận thứ hai, quan tâm tới qúa trình học bằng cách tìm hiểu
những gì đã xảy ra trong trí óc người học là cách tiếp cận về trí tuệ theo bước
chân Piaget với cơ chế đồng hóa, cân bằng, ..
Cách tiếp cận thứ ba có xu hướng kết hợp hai cách tiếp cận trên thành
một mô hình quá trình thông tin với các thuật ngữ: thu nhận, xử lí … “Học là
tự tạo khả năng xác định vấn để cần giải quyết, thu nhận, xử lí thông tin và
ứng dụng chương trình giải quyết vấn đề”.
Như vậy, ta có thể thấy, học là quá trình thu nhận thông tin, tiếp thu, xử
lí để giải quyết vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Học chính là tự học.
- Khái niệm “Tự học”
Trong học tập bao giờ cũng có tự học, người học tự mình lao động trí óc
để chiếm lĩnh kiến thức. Từ thời cổ đại, các nhà giáo dục, nhà hiền triết đã
bàn luận về vấn đề tự học:
Hêraclit (530 - 475 TCN), nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhận
định: “Thực chất, giáo dục là thắp lên một ngọn đuốc để soi sáng, để người
học nhận ra những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường, rồi

tự mình đi trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy”. Điều
đó chứng tỏ giáo dục có vai trò rất quan trọng thắp lên ngọn đuốc sáng để
giúp mọi người biết tự học, tự vươn lên khẳng định mình [4; tr.9].
Khổng Tử (551 - 479 TCN), nhà giáo dục nổi tiếng Trung Quốc thời cổ
đại đã chú ý đến việc kích thích suy nghĩ của học sinh. Ông đòi hỏi học trò
phải tự mình tìm hiểu, tìm tòi để tiếp nhận kiến thức một cách sáng tạo:

9


“Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ
được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không
suy ra ba góc thì không dạy nữa” [4; tr.9].
Ở Việt Nam, các tác giả đã đưa ra một số ý kiến về tự học:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Trong học tập phải “lấy tự học làm cốt”;
phải xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn; học
hỏi là việc phải tiếp tục suốt đời; phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập;
phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng không lùi bước trước mọi trở
ngại; phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi hình thức để tự học.
Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn, “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, …) và cơ
bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có
chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, …) để chiếm lĩnh
vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến một lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình [26; 14]. Theo GS.TS Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Tự học là một hình
thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống trí thức và kĩ
năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc
không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định. Tự học có quan
hệ chặt chẽ với quá trình dạy học nhưng có tính độc lập cao và mang đậm sắc

thái cá nhân. Theo GS.TSKH Thái Duy Tuyên khẳng định, “Tự học là hoạt
động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, …và kinh nghiệm lịch sử
xã hội loài người nói chung và của chính bản thân người học [4; tr.10].
Theo Từ điển giáo dục học cho rằng: “Tự học là quá trình tự mình lĩnh
hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên và sự quản lí trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo.
Như vậy, từ những quan điểm trên về tự học, chúng ta có thể thấy rằng:
Tự học là một bộ phận của việc học tập, là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm

10


đạt đến một mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của
nhân loại. Nói cách khác, tự học là cách học với sự tự giác, tính tích cực và
độc lập cao của từng cá nhân. Tự học là một phần quan trọng của hoạt động
học tập, là nhân tố “nội lực”có tác dụng quyết định chất lượng học tập và sự
phát triển của người học.
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Trong quá trình dạy
học, giáo viên không chỉ truyền thụ kiến thức, yêu cầu học sinh học thuộc, mà
giáo viên phải là người định hướng cho hoạt động nhận thức của học sinh,
học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo trau dồi kiến thức mới, giải quyết những
vấn đề cuộc sống khoa học đặt ra. Tự học giúp mọi người có thể chủ động học
tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và cống hiến. Tự học
giúp con người thích ứng với mọi hoàn cảnh sống.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức:
+ Tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên, như: tự học của học sinh,
sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh. Kiểu tự học này được tiến hành trên
một nền tảng khoa học đích thực, giáo viên (GV) hướng dẫn người học của
mình tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức có tính chất cá nhân. GV tổ chức cho
người học tự thể hiện mình, hợp tác trao đổi, đối thoại. GV sẽ là người cuối

cùng kết luận, đánh giá kết quả của từng người học.
+ Tự học không có sự hướng dẫn của GV. Trường hợp này thường liên
quan đến hoạt động học tập của những người đã trường thành. Kiểu tự học
này dựa trên niềm đam mê khao khát của người học, khám phá tri thức mới,
trau dồi cho vốn kiến thức của bản thân. Kiểu tự học này, người học thường
đã đạt đến trình độ cao hơn, người học không có sự hướng dẫn của GV mà tự
tìm hiểu va chạm với thực tế để tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.
+ Tự học trong cuộc sống thường gặp ở các nhà văn, các nhà văn hóa,
các nhà kinh tế, các nhà chính trị xã hội, …

11


+ Tự học có sự hướng dẫn từ xa của GV: đây là hình thức tự học của
những người theo học các chương trình, các khóa đào tạo từ xa. Hình thức
này được tiến hành có tổ chức, có kế hoạch với một hệ thống tài liệu hướng
dẫn tự học và sách giáo khoa được biên soạn riêng cho người theo học khóa
học đó. Mặc dù vậy, nhưng vẫn có sự trao đổi thông tin giữa thầy và trò dưới
các hình thức khác nhau.
+ Tự học mò mẫm: đây là hình thức tự học của những người mong muốn
học nhưng không có điều kiện để đi học. Họ tự tìm tòi kiến thức, trau dồi cho
bản thân. Tuy nhiên xã hội ngày càng phát triển hình thức tự học này ngày
càng thu hẹp.
Tự học trong nhà trường phổ thông là tự học có hướng dẫn . Vì vậy, hoạt
động tự học của học sinh có một số dấu hiệu đặc trưng:
+ Học sinh phải tìm ra kiến thức bằng chính hoạt động của mình.
+ Học sinh tự thể hiện mình, tự đặt mình vào tình huống, nghiên cứu
cách xử lí, tự trình bày, tự bảo vệ sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình
trước cách ứng xử của bạn, tập giao tiếp, tập hợp tác với mọi người trong quá
trình tìm ra kiến thức.

+ GV là người hướng dẫn học sinh nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự thể
hiện mình trong lớp học. Đồng thời là trọng tài, cố vấn, kết luận trong các
cuộc tranh luận đối thoại giữa học sinh với học sinh, là người kiểm tra, đánh
giá kết quả tự học của học sinh.
+ Học sinh tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu của mình và
dựa vào kết luận của GV, tự sửa chữa, điều chỉnh, hoàn thiện, rút kinh nghiệm
về cách học, xử lí tình huống và giải quyết vấn đề của mình.
Như vậy, tự học của học sinh là quá trình học sinh chủ yếu dựa vào các
bài học cụ thể trong sách giáo khoa, đối chiếu với các tài liệu tham khảo, so
sánh, làm cho quá trình học tập của học sinh chủ động hơn. Tự học giúp các

12


em nắm vững kiến thức, hiểu rõ sâu sắc trọn vẹn bài học bằng chính năng lực
của mình, do đó ghi nhớ kiến thức lâu hơn.
- Khái niệm “Tự học lịch sử”
Trong chương trình phổ thông, môn lịch sử chiếm một vị trí quan trọng.
Vấn đề tự học lịch sử của học sinh được nhiều người quan tâm, nó là một
trong những yếu tố giúp GV xác định những phương pháp dạy học thích hợp.
Nhưng trước đây đã từng có ý kiến cho rằng môn lịch sử chỉ cần học thuộc
lòng những gì thầy cô cho ghi là được, không cần phải có phương pháp học
nào khác. Như vậy, hiển nhiên môn lịch sử đã bị coi nhẹ và không làm phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Nhưng ngày nay cùng với quá trình đổi mới giáo dục, người ta đã có cái
nhìn khác về vấn đề này. Tự học lịch sử của học sinh là quá trình học sinh tự
mình tìm hiểu, nắm bắt kiến thức và có thể vận dụng kiến thức đó vào trong
học tập hay thực tiễn cuộc sống. Tự học lịch sử phải xuất phát từ chính sự
hứng thú, say mê tìm tòi sáng tạo của học sinh thì quá trình đó mới đạt được
kết quả cao. Học sinh hiểu sâu kiến thức, nắm bắt được những quy luật khách

quan của các sự kiện lịch sử.
Như vậy, có thể hiểu tự học lịch sử là quá trình học sinh nhận thức tự
giác, độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo của người học với sự hướng dẫn
của giáo viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ của bộ môn.
- Khái niệm kĩ năng và rèn luyện kĩ năng tự học lịch sử
+ Khái niệm kĩ năng
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này:
Theo Từ điển tiếng Việt: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn” [4; tr.27].
Ý kiến khác cho rằng, kĩ năng đồng nhất với những kĩ thuật của hành
động, thao tác khi làm một việc gì đó. Theo đó, người có kĩ năng là người có

13


hành động đúng đắn. Hoặc kĩ năng là phương pháp vận dụng tri thức vào hoạt
động thực hành đã được củng cố.
M. Alêxeep quan niệm: “kĩ năng là sự vận dụng trí thức trong thực tiễn,
việc hình thành trí thức tạo điều kiện thuận lợi cho việc rèn luyện kĩ năng”
[22; tr.27].
KK. Platonov, N Đ. Levitov, B. Phlomov, …xem kĩ năng không chỉ là kĩ
thuật của hành động mà bao gồm cả năng lực giải quyết vấn đề, “kĩ năng
không chỉ bao gồm các hành động vận động, mà cả những hành động trí tuệ,
độc lập kế hoạch hóa quá trình làm việc, tìm thấy trong mỗi trường hợp cụ thể
các phương pháp hợp lí”.
Xuất phát từ những cách hiều khác nhau, chúng ta có thể hiểu kĩ năng là
sự thực hiện có kết quả một công việc nào đó (lao động chân tay hay nhận
thức) bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành
động phù hợp với với hoàn cảnh và những điều kiện cho phép. Ở một góc độ
nào đó, kĩ năng gần với phương pháp đúng đắn. Điều ấy có nghĩa là kĩ năng

bao gồm những hiểu biết về đối tượng cần tác động, đặc biệt là những quy
luật vận động của đối tượng. Người có kĩ năng là người trước tiên phải nhận
thức đúng, hiểu rõ công việc mà mình phải làm, phải có hành động đúng phù
hợp với quy luật vận động của đối tượng để đạt được kết quả như mực tiêu đã
đề ra, có thể hành động để đạt được kết quả cao với những công việc, tình
huống tương tự. Như vậy, kĩ năng không chỉ đòi hỏi con người phải có hiểu
biết đúng đắn về đối tượng cần tác động mà còn cần phải biết vận dụng vốn
tri thức kinh nghiệm để hành động đúng đắn, đạt kết quả cao. Bản thân con
người khi sinh ra chưa có kĩ năng hoạt động thực tiễn, nhất là kĩ năng trong
công việc. Đa số kĩ năng mà chúng ta có được là xuất phát từ hoạt động thực
tiễn, từ đào tạo [4; tr.28].
Khi xem xét kĩ năng cần phải lưu ý những điểm sau:

14


Kĩ năng trước hết phải được hiểu là mặt kĩ thuật của hành động, kĩ năng
bao giờ cũng gắn với hành động cụ thể.
Tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt, mềm dẻo là tiêu chuẩn quan
trọng để xác định sự hình thành và phát triển của kĩ năng. Một hành động
chưa được gọi là có kĩ năng nếu còn mắc nhiều lỗi vụng về, các thao tác diễn
ra theo khuôn mẫu cứng nhắc.
Kĩ năng không phải là sinh ra đã có. Đó là sản phẩm của hoạt động thực
tiễn, là quá trình con người vận dụng những tri thức và kinh nghiệm vào hoạt
động thực tiễn để đạt được mục đích đề ra.
Kĩ năng là một biểu hiện, một điều kiện cần thiết, một yếu tố quan trọng
trong tổ hợp nhiều yếu tố tạo nên năng lực (yếu tố cần nhưng chưa đủ).
+ Kĩ năng tự học của học sinh
Kĩ năng tự học là một bộ phận của kĩ năng học tập, kĩ năng này được đặc
trưng bởi tính tự chủ động, tích cực, sáng tạo, độc lập. Hay nói cách khác kĩ

năng tự học là kĩ năng tự thu thập thông tin phục vụ cho những mục đích học
tập nhất định và vận dụng thông tin đó để giải quyết một nhiệm vụ mới.
Kĩ năng tự học được cấu thành bởi những hành động tự học diễn ra theo
một trình tự logic, hướng tới mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ tự học đề ra. Tự
học là quá trình bao gồm các hành động cơ bản như: xây dựng kế hoạch tự
học, đọc, ghi chép, hệ thống hóa, khái quát hóa, giải quyết bài toán nhận thức,
trao đổi đàm thoại, …Các hành động đều đòi hỏi sự hiểu biết và mức độ thành
thạo nhất định, người học phải vận dụng chúng một cách hợp lí để giải quyết
nhiệm vụ học tập, chiếm lĩnh tri thức mới.
Ở trường phổ thông, việc tự học của học sinh được tiến hành bằng việc
ghi chép bài giảng của GV bằng sơ đồ hay gạch những ý chính làm sao để
nhớ một cách nhanh nhất, so sánh đối chiếu với sách giáo khoa, sưu tầm tài
liệu tham khảo, hoặc tìm các dạng đề làm, …dưới sự hướng dẫn của GV. GV

15


hướng dẫn học sinh tự học cả ở trường và về nhà, giúp học sinh chủ động hơn
trong việc học của mình.
+ Kĩ năng tự học lịch sử của học sinh
Kĩ năng tự học nói chung, kĩ năng tự học môn lịch sử trường trung
học riêng là khả năng tự chiếm lĩnh kiến thức lịch sử một cách có hiệu
quả [4; tr.28 - 29].
Chương trình giáo dục của nước Cộng hòa Pháp quy định cụ thể về
những kĩ năng cần đạt cho học sinh ở trường phổ thông với bộ môn lịch sử là:
(1) Kĩ năng xác định sự kiện lịch sử trong bối cảnh không gian, thời gian
(niên đại các sự kiện quan trọng, vị trí của sự kiện lịch sử, xác định tính liên
tục và gián đoạn của lịch sử);
(2) Kĩ năng trình bày (khái quát hay cụ thể về sự kiện lịch sử, miêu tả
nhân vật và hoạt động, vai trò của họ);

(3) Kĩ năng khai thác tư liệu (phân biệt niên đại diễn ra sự kiện lịch sử và
niên đại của tư liệu lịch sử; khai thác thông tin trong tập hợp tư liệu, tài liệu; xác
định ưu điểm, hạn chế của tài liệu; tóm tắt được nội dung cơ bản của tài liệu);
(4) Kĩ năng bộ môn (biết sử dụng và trình bày bằng atlas, bản đồ, sách
giáo khoa; trình bày miệng hoặc viết ngắn gọn, có cấu trúc; ghi chép độc lập
trong giờ giảng).
+ Rèn luyện kĩ năng tự học lịch sử cho học sinh
Theo Từ điển Tiếng Việt, rèn luyện là “luyện tập nhiều để đạt tới trình
độ thông thạo, vững vàng”. Để có được một kĩ năng phải trải qua 3 giai đoạn:
hình thành, luyện tập, phát triển. Để hình thành một kĩ năng trước hết phải
nắm vững các tri thức về hành động, rồi thực hiện hành động theo các tri thức
đó. Hành động này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của GV, và kết quả cao
hay thấp phụ thuộc vào sự nỗ lực của ngươi học giữ vai trò quyết định. Trên
cơ sở các kĩ năng đã được hình thành, người học sẽ luyện tập các kĩ năng theo

16


chiều hướng tích cực từ chưa thuần thục đến thuần thục, từ chưa thành thạo
đến thành thạo.
Việc rèn luyện kĩ năng tự học trong bộ môn lịch sử được hiểu theo hai
khía cạnh. Một là, quá trình hình thành về số lượng các kĩ năng, trên cơ sở các
kĩ năng đã có sẽ luyện tập để hình thành nhiều các kĩ năng mới. Hai là, rèn
luyện để nâng cao về mặt chất lượng kĩ năng. Trên cơ sở các kĩ năng đã được
hình thành sẽ rèn luyện lên một mức độ thông thạo hơn.
Như vậy, rèn luyện KNTH lịch sử là việc GV sử dụng linh hoạt các
phương thức, phương pháp tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, độc
lập, tự giác của người học, dưới sự hướng dẫn, kiểm tra của GV. Học sinh tự
kĩnh hội kiến thức độc lập, vận dụng vào bài học và thực tiễn cuộc sống.
- Khái niệm bài tập và bài tập lịch sử

+ Khái niệm bài tập
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “bài tập”:
Trước hết là khái niệm “bài tập” trong giáo dục.
Theo nghĩa chung nhất, khái niệm “bài tập” (BT) (tiếng Anh: “Exercise”,
tiếng Pháp: “Exercice”, tiếng Nga: “Uprejniê”) dùng để chỉ một hoạt động
nhằm rèn luyện thể chất và tinh thần (trí tuệ): bài tập thể dục, bài tập xướng
âm, …Khi dùng trong lĩnh vực giáo dục (dạy học), theo “Từ điển tiếng Việt”
khái niệm bài tập có nghĩa là “bài ra cho HS làm để vận dụng những điều đã
học [10; tr.17].
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang, khi xem xét khái niệm bài tập ta không
thể tách rời nó với người làm bài tập. Như vậy, bài tập chỉ có thể là bài tập khi
nó trở thành đối tượng hoạt động của một chủ thể, nghĩa là có một người nào
đó, có nhu cầu chọn nó làm đối tượng hoạt động, mong muốn giải bài tập tức là có một “người giải”.
Theo Từ điển tiếng Việt, bài tập là “bài ra cho học sinh làm để vận dụng
kiến thức đã học”. Thuật ngữ này mới chỉ giai thích về mặt thuật ngữ, chưa đi
sâu vào bản chất bên trong của khái niệm bài tập.

17


Trong cuốn Bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Một số vấn đề
lí luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục của tác giảTrần Quốc Tuấn đã định nghĩa:
“Bài tập là một hệ thống tin xác định bao gồm những điều kiện và yêu cầu
được đưa ra trong quá trình dạy học, đòi hỏi người học một lời giải đáp, mà
lời giải đáp này về toàn bộ hoặc từng phần không ở trạng thái có sẵn của
người giải tại thời điểm mà bài tập được đưa ra” [10; tr.18].
Như vậy, bài tập không chỉ là sự củng cố, hoàn thiện kiến thức đã học của
HS mà còn là đơn vị tổ chức, một nguồn nhận thức trong quá trình học tập.
Trong thực tiễn dạy học cũng như trong các tài liệu khoa học, nhiều
người thường sử dụng các thuật ngữ, như câu hỏi, câu hỏi lịch sử; bài tập, bài

tập lịch sử.
Câu hỏi, trong tiếng Anh và Pháp - Question, tiếng Nga - Vôprôx, là
thuật ngữ dùng để chỉ việc nêu vấn đề trong nói hoặc viết, đòi hỏi phải có
cách giải quyết. Câu hỏi được sử dụng phổ biến trong cuộc sống, như trong
dạy học.
Từ định nghĩa trên, chúng tôi nhận thấy câu hỏi và bài tập có điểm giống
nhau và khác nhau, đồng thời có quan hệ với nhau:
Xét về chức năng dạy học, câu hỏi và bài tập trong dạy học lịch sử đều là
phương tiện để tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả
nhận thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo bộ môn cho học sinh.
Xét về hình thức (cấu trúc), câu hỏi và bài tập có nhiều điểm khác nhau, câu
hỏi chỉ nêu yêu cầu hoặc nhiệm vụ mà học sinh cần trả lời, còn trong bài tập vừa
có dữ liệu (điều kiện) vừa có yêu cầu (hoặc câu hỏi) và để giải quyết bài tập, học
sinh phải căn cứ vào những dữ liệu đã cho để tìm ra yêu cầu xác đáng.
Như vậy, so với câu hỏi thì bài tập phức tạp hơn học sinh cần phải đầu tư
thời gian và công sức nhiều hơn để giải quyết được vấn đề đặt ra; do đó tác
dụng, kết quả đối với nhận thức, giáo dục và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo của các

18


em cũng cao hơn.
+ Bài tập lịch sử
Trong cuốn Bài tập lịch sử ở trường phổ thông, tác giả đã đưa ra quan
niệm: “Bài tập lịch sử (BTLS) là khái niệm chỉ một hệ thông tin xác định về
tổ chức quá trình dạy học lịch sử khi kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
học sinh trên các lĩnh vực kiến thức, thái độ và kĩ năng, kĩ xảo” [10; tr.18].
Nội hàm của khái niệm “bài tập lịch sử” có những đặc trưng chủ yếu sau:
(1) BTLS được xem là một hệ thông tin, quy định nhiệm vụ mà học sinh
phải thực hiện hay là mục đích mà GV và HS cần phải hoàn thành trong dạy

học lịch sử (DHLS) (bao gồm kiến thức, thái độ, kĩ năng, kĩ xảo).
(2) BTLS sử được tiến hành ở tất cả các khâu của quá trình dạy học:
nghiên cứu tài liệu mới; củng cố, khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức; vận
dụng và kiểm tra, đánh giá kiến thức, thái độ và kĩ năng, kĩ xảo.
(3) BTLS, đặc biệt là bài tập nhận thức là phương tiện chính yếu, chủ
đạo của dạy học nêu vấn đề, một kiểu cơ bản của phương pháp dạy học nhằm
phát huy năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh.
(4) BTLS là phương tiện thúc đẩy nỗ lực tự học của học sinh, giúp các
em tiếp cận dần với phương pháp tự học, tự nghiên cứu.
BTLS được đặt ra cho tất cả các đối tượng HS với tính chất và mức độ
khác nhau, đảm bảo phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh, thiết kế
phù hợp với từng đối tượng cấp bậc học. BTLS không chỉ đơn thuần là những
câu hỏi trong sách giáo khoa mà là yêu cầu HS phải đầu tư thời gian, công sức
nhiều hơn.
Như vây, BTLS có vai trò quan trọng đối với quá trình học tập, nhận
thức của HS. Nó không chỉ kích thích tư duy độc lập, chủ động sáng tạo của
HS, mà nó còn giúp các em tiếp cận với phương pháp tự học, tự nghiên cứu,
phát triển tư duy lịch sử. Khi HS tự mình thường xuyên làm bài tập lịch sử sẽ

19


hình thành cho các em kĩ năng tự học.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng bài tập nhằm rèn luyện kĩ năng
tự học cho học sinh
1.1.2.1. Mục tiêu, nguyên lí và phương pháp giáo dục
Trong Luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
ghi rõ mục tiêu giáo dục là: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với
lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân

cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ tổ quốc” [10; tr.8].
Mục tiêu giáo dục trên đòi hỏi hoạt động giáo dục phải thực hiện nguyên
lí “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí luận gắn
liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội”. Nó quy định phương pháp giáo dục ở nhà trường phổ thông phải:
“phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học”, “bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”, “tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh”.
Phương pháp giáo dục đòi hỏi việc dạy học ở trường phổ thông phải gắn
liền lí luận với thực tiễn; bảo đảm việc cung cấp lí thuyết hợp với trình độ,
chú trọng thực hiện, rèn luyện; giảm bớt việc truyền thụ tri thức “một chiều”
của GV, tăng cường hoạt động nhận thức độc lập của HS. Trong DHLS phải
làm cho HS tự giác, thích thú việc thực hiện nhiệm vụ học tập dưới sự hướng
dẫn của GV, tự mình phải học, phải viết, phải làm bài tập, chứ không phải
ngồi học theo kiểu “xem người khác học” hay chờ đợi thầy cô truyền kiến
thức cho. Điều này, đòi hỏi HS phải biết tự đặt câu hỏi, tự kiểm tra, đánh giá
kết quả làm việc và sửa chữa những sai sót trong bài làm của mình.
1.1.2.2. Mục tiêu dạy học lịch sử ở trường phổ thông

20


Cũng như học tập các môn khác ở trường phổ thông, học tập lịch sử cần
có trí nhớ, song nhớ không phải mục đích cuối cùng của học lịch sử mà là cơ
sở để hiểu và vận dụng kiến thức đã học một cách thông minh, sáng tạo. Trí
nhớ, tư duy là điều không thể thiếu được trong học tập bất cứ môn học nào.
Vì vậy, trong học tập lịch sử, “nếu không có tư duy tích cực, sáng tạo thi học
sinh không biết chọn lựa những sự kiện cơ bản, điển hình để ghi nhớ trong cái

bể mênh mông, rộng lớn về không gian và thời gian; làm sao tái tạo được lịch
sử qua việc tạo biểu tượng, nắm bắt được khái niệm lịch sử, thường có mức
độ và tính chất trừu tượng khá cao; làm sao có thể rút ra quy luật, nêu bài học
quá khứ cho hiện tại” [10; tr.10].
Trong DHLS ở trường phổ thông phải thực hiện theo chu trình: biết hiểu - vận dụng. Chu trình này làm cho việc nắm kiến thức sâu sắc, tự giác có
hiệu quả; nắm những nét bản chất mới của kiến thức, làm nổi bật mối liên hệ
giữa kiến thức lí thuyết và thực tiễn, biết vận dụng kiến thức vào đời sống,,
trau đôi, củng cố những thao tác tư duy và một số kĩ năng, kĩ xảo, nâng cao
hứng thú học tập của học sinh.
Mục tiêu biết - hiểu -vận dụng kiến thức của HS trong học tập bộ môn
lịch sử ở trường THPT chỉ có thể được thực hiện và đem lại hiệu quả thiết
thực khi GV tăng cường sử dụng bài tập và thực hành. Chính vì vậy, cần phải
loại bỏ quan niệm không đúng đã tồn tại khá lâu ở nước ta là trong DHLS
không có và cũng không cần có bài tập và thực hành mà chỉ đưa ra câu hỏi để
kiểm tra việc ghi nhớ, học thuộc một cách máy móc, đơn điệu, tẻ nhạt.
1.1.2.3. Đặc trưng dạy học lịch sử ở trường THPT
Dạy học lịch sử cũng nhằm cung cấp kiến thức, hình thành thế giới quan
khoa học, giáo dục phẩm chất đạo đức, chính trị và phát triển học sinh. Điều
này giúp các em hiểu được sự phát triển hợp quy luật của tự nhiên và xã hội,
vận dụng sáng tạo những hiểu biết vào thực tiễn. Tuy nhiên, bộ môn Lịch sử

21


×