Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Một số biện pháp sử dụng nguồn tư liệu gốc khi dạybài 17 nước việt nam dân chủ cộng hòa nhằm phát huy năng lực chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.58 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU

2

1.1. Lí do chọn đề tài:

2

1.2. Mục đích nghiên cứu:

3

1.3 Đối tượng nghiên cứu:

3

1.4 Phương pháp nghiên cứu:

3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

4

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:

4

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:



5

2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:

6

2.3.1. Một số ưu điểm của nguồn tư liệu gốc

6

2.3.2. Nội dung kiến thức cơ bản Bài 17…

7

2.3.3. Một số biện pháp sử dụng tư liệu gốc ….

7

2.3.4. Một số lưu ý đối với giáo viên khi sử dụng tư liệu gốc…
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, 17
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối tượng kiểm nghiệm:

17

2.4.2. Cơ sở thực nghiệm:

17


2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm:

17

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

18

Tài liệu tham khảo

19

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ
1


học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học…”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới
căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng
về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
người học.
Môn lịch sử ở trường phổ thơng có vị trí chức năng và nhiệm vụ quan trọng
trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Tuy nhiên, Lịch sử là một môn học đặc

thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ
của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ
quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Hưởng ứng công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng
tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung
đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh
viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình phát huy tính chủ
động, sáng tạo của người học, biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình
huống thực tiễn nảy sinh, từ đó phát triển tư duy độc lập, phát triển năng lực, tạo
niềm tin và vui thích trong học tập cho học sinh, nhất là đối với học tập mơn Lịch
sử - mơn góp phần dạy chữ và dạy người .
Vậy làm thế nào phát triển được năng lực, sự thích thú, muốn tìm tịi, khám
phá của học sinh trong q trình học tập mơn Lịch sử? Đó là điều bản thân tơi hết
sức trăn trở. Trong những năm vừa qua trong q trình cơng tác, bản thân tơi đã có
nhiều đổi mới trong phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực học tập của học
sinh, nhất là phát huy năng lực chủ động lĩnh hội kiến thức trong quá trình khai
thác, sử dụng các tư liệu Lịch sử, đặc biệt là nguồn tư liệu gốc để học tập.
Với lí do đó tơi mạnh dạn đưa ra: Một số biện pháp sử dụng nguồn tư liệu
gốc khi dạy Bài 17. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945
đến trước ngày 19/12/1946 - Lịch sử lớp 12 – THPT, nhằm phát huy năng lực
chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh.

1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi tiến hành nghiên cứu, tơi đã đặt ra mục tiêu cho đề tài là:
- Phải thay đổi được thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trường Trung học
phổ thông hiện nay.
- Phải phát triển được tối đa năng lực chủ động học tập, chủ động lĩnh hội
kiến thức của học sinh trong quá trình học tập môn Lịch sử.
2



- Nâng cao được kết quả học tập môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
- Tạo động lực để thúc đảy đổi mới phương pháp dạy và học môn Lịch sử ở
trường phổ thông.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đưa ra “Một số biện pháp sử dụng nguồn
tư liệu gốc khi dạy Bài 17. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 - Lịch sử lớp 12 – THPT, nhằm phát huy năng
lực chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh.”
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứ đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, giải thích, tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thơng tin
- Phương pháp thống kê xử lí số liệu.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Dạy học môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong nhà
trường THPT là mục tiêu đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên để đạt
được kết quả như mong muốn, địi hỏi giáo viên phải tìm tịi, đầu tư nghiên cứu,
đặc biệt phải biết lựa chọn và vận dụng phù hợp, sáng tạo các phương pháp, kĩ
3


thuật dạy học với từng nội dung, từng đối tượng học sinh. Làm được việc này sẽ
kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của nhiều học sinh, sẽ nâng cao được hiệu
quả học tập bộ môn, đặc biệt sẽ phát huy được tối đa năng lực.
Có nhiều biện pháp khác nhau trong dạy học lịch sử nhằm phát triển năng
lực, nhất là năng lực chủ động lĩnh hội kiến thức cho học sinh, trong đó tư liệu gốc

có vị trí và vai trị quan trọng trong cơng tác học tập và lĩnh hội kiến thức lịch sử.
Tư liệu gốc là “dữ liệu” cần thiết để học sinh có thể khôi phục lại bức tranh quá
khứ một cách khoa học và chính xác nhất, là nguồn kiến thức quan trọng giúp học
sinh có biểu tượng chân thực, sinh động, cụ thể về các sự kiện hiện tượng lịch sử,
tránh việc “hiện đại hóa lịch sử”. Bên cạnh đó, qua q trình tiếp xúc, làm việc, tìm
tịi, khám phá tư liệu gốc dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ
chủ động nắm kiến thức, giải quyết những bài tập nhận thức mà giáo viên đưa ra,
từ đó các em có các cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về lịch sử. Đặc biệt, việc
sử dụng tư liệu lịch sử gốc trong dạy học lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực
học tập của học sinh, sẽ giúp học sinh nắm vững, nhìn nhận các sự kiện hiện tượng
lịch sử một cách chính xác, khoa học, khách quan và sâu sắc.
Tuy nhiên, một thực tế đang diễn ra với bộ môn Lịch sử, hiện nay nhiều giáo
viên dạy học còn thiên về “truyền thụ tri thức”. Học sinh tiếp cận lịch sử chủ yếu
thông qua sách giáo khao theo kiểu “thầy đọc trị chép”, coi đó là thứ bất di, bất
dịch. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh “chán học
sử”, “sợ học sử”, thậm chí chán ghét và quay lưng lại với bộ môn Lịch sử. Thực
trạng trên đã đặt ra yêu cầu đối với giáo viên bộ môn phải không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học để vừa tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, vừa
đáp ứng được yêu cầu định hướng phát triển năng lực đầu ra
Vậy sự thay đổi đó thể hiện như thế nào? Sự thay đổi đó là: Trước hết giáo
viên từ chỗ là người chủ động truyền tải cho học sinh tất cả những tri thức đã được
chuẩn bị sẵn, cịn học sinh thì chăm chú để tiếp thu những tri thức mà thầy đã
truyền cho; sang chỗ giáo viên là người đóng vai trị chỉ đạo, định hướng nội dung
học tập cho học sinh, còn học sinh là người được chủ động khám phá, chiếm lĩnh
nguồn tri thức và vận dụng tri thức tiếp thu được vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn hiện nay. Tiếp theo là sự thay đổi về cách thức làm bài thi của học sinh: từ chỗ
học sinh phải học thuộc, nhớ máy móc các năm tháng sự kiện sang chỗ học sinh
nắm được bản chất các sự kiện, vấn đề, hiểu được mối quan hệ logic giữa các vấn
đề, sự kiện lịch sử, hiểu được quy luật phát triển của lịch sử... Rồi từ đó, rút ra các
bài học vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn hiện nay.

Tóm lại, đề tài sẽ thay đổi hai vấn đề trọng tâm đó là: Thứ nhất là thay đổi từ
chỗ Thầy dạy cái gì? Học trị nắm được gì? sang việc Thầy tổ chức cho học sinh
học tập như thế nào? Học trò phải và sẽ làm gì? Thứ hai là sử dụng các phương
pháp dạy học nào, các tư liệu Lịch sử nào để phát huy được năng lực chủ động lĩnh
hội kiến thức của học sinh, năng lực chủ động học tập của học sinh?
Từ việc thay đổi được cách dạy và học như trên có thể khẳng định học sinh
khơng chỉ nắm vững hơn kiến thức, kĩ năng mà quan trọng nhất là đã tạo điều kiện
4


cho học sinh phát huy được tối đa những năng lực của bản thân, qua đó sẽ thay đổi
được tư duy để giải quyết tốt hơn các tình huống trong thực tiễn cuộc sống.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Làm thế nào để học sinh chủ động học tập, lĩnh hội tri thức Lịch sử? Đó là câu
hỏi thường được đặt ra đối với mỗi học sinh, nhất là khi học sinh tham gia kì thi
Tốt nghiệp THPT để làm căn cứ vừa cơng nhận tốt nghiệp bậc THPT, vừa xét
tuyển vào các trường đại học, cao đẳng.
Trong q trình giảng dạy bộ mơn Lịch sử tại trường THPT Triệu Sơn 3, tôi
thấy rằng: mặc dù các thầy cơ đã có nhiều đổi mới phương pháp dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ mơn, song việc sử dụng phổ biến và có hiệu quả
nguồn tư liệu gốc để phát huy tính chủ động, tích cực trong việc học tập, lĩnh hội
tri thức Lịch sử của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Nguồn tư liệu đó rất ít được
khai thác, nhất là nguồn tư liệu viết như các Chỉ thị, Nghị quyết, các bài đánh giá,
tổng kết các giai đoạn, sự kiện Lịch sử.
Vậy ngun nhân vì sao? Các Thầy Cơ cần phải điều chỉnh những gì khi dạy
bộ mơn Lịch sử để phát huy được năng lực chủ động học tập, chủ động lĩnh hội
kiến thức Lịch sử cho học sinh? Để từ đó năng cao chất lượng học tập mơn Lịch
sử.
Từ thực trạng nêu trên, cho thấy:
Vấn đề đặt ra đối với giáo viên dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ

thơng là cần phải làm gì, làm thế nào để thay đổi cách học, cách tiếp nhận tri thức
của học sinh một cách chủ động, sáng tạo, khơng lệ thuộc hồn tồn vào Thầy Cơ?
Việc áp dụng đề tài “Một số biện pháp sử dụng nguồn tư liệu gốc khi dạy Bài 17.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày
19/12/1946 - Lịch sử lớp 12 – THPT, nhằm phát huy năng lực chủ động lĩnh hội
kiến thức của học sinh.” vào thực tiễn dạy học sẽ thay đổi cách dạy của Thầy và
cách học của Trị. Trong đó, Thầy là người tổ chức, định hướng các hoạt động học
tập cho học sinh, Trò là người được tự lực, chủ động trong việc tìm kiếm, chiếm
lĩnh nguồn tri thức; nguồn tri thức khơng cịn bị gị bó chỉ là sách giáo khoa. Từ
thay đổi trên học sinh sẽ phát huy được tối đa năng lực của bản thân trong học tập
và phát huy được năng lực của học sinh trong việc chủ động lĩnh hội kiến thức, học
sinh có được nguồn tri thức với những góc nhìn đa dạng hơn, phong phú hơn.

2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
2.3.1 Một số ưu điểm của nguồn tư liệu gốc
Tư liệu gốc gồm tư liệu tranh ảnh, tư liệu viết là những văn kiện, tài liệu ra
đời vào thời điểm xảy ra các sự kiện Lịch sử. Đây là nguồn tư liệu đóng vai trị hết
5


sức quan trọng trong công tác nghiên cứu và học tập Lịch sử, bởi nó có những đặc
điểm sau:
Tư liệu gốc mang tính khách quan, chân thực: Tư liệu gốc là những mảnh
vỡ, bằng chứng của quá khứ, được ra đời trong thời điểm xảy ra sự kiện, hiện
tượng Lịch sử đó. Là nguyên gốc, truy nguyên về văn bản, chưa thơng qua một
lăng kính chủ quan nào nên có sự khách quan, chân thực hơn so với các tư liệu, tài
liệu Lịch sử khác.
Tư liệu gốc đáng tin cậy và thơng tin chính xác hơn các loại tư liệu, tài liệu
khác. Tư liệu gốc ra đời đồng thời, gần nhất với sự kiện lịch sử diễn ra vì thế sẽ
được ghi lại rõ ràng, chi tiết và sống động nhất. Mặt khác, tư liệu Lịch sử gốc là

sản phẩm của con người sống trong xã hội đương thời. Đó khơng phải là những tài
liệu viết theo trí nhớ, trí tưởng tượng hình dung theo các lời kể lại, vì the bản thân
các tài liệu này mang tính tin cậy và có độ chính xác cao.
Tư liệu gốc cho ta những nhận thức, những thông tin trực tiếp về các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật Lịch sử như nhận thức về không gian, thời gian sự kiện, hiện
tượng, những số liệu hay những bảng thống kê chi tiết, những câu nhận xét, miêu
tả về nhân vật lịch sử của người đương thời. Đó là những thơng tin mà khi nghiên
cứu, học tập và giảng dạy người nghiên cứu cần phải làm việc, xử lý trực tiếp để
thu thập thông tin cần thiết.
Tư liệu gốc không phải là một tư liệu tổng hợp tất cả các khía cạnh của đời
sống xã hội, mà nó chỉ phản ánh một khía cạnh, một chi tiết nào đó của biến cố
Lịch sử. Vì vậy, cần sử dụng nhiều loại tư liệu gốc khác nhau để có cái nhìn tồn
diện và đầy đủ hơn về vấn đề Lịch sử cần tìm hiểu.
Tư liệu gốc ra đời cùng với thời điểm và địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử, do đó
có những hạn chế nhất định về mặt ngôn ngữ, văn bản, số lượng. Đây là tư liệu khó
khai thác, nội dung đơn lẻ nên khi học sinh làm việc với tư liệu này sẽ vấp phải
nhiều khó khăn, giáo viên cần chú ý lựa chọn các tư liệu lịch sử gốc phù hợp với
nội dung và đối tượng học sinh.
2.3.2. Nội dung kiến thức cơ bản Bài 17. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946 - Lịch sử lớp 12 – THPT.
Bài 17. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước
ngày 19/12/1946 - Lịch sử lớp 12 – THPT, nằm trong giai đoạn Lịch sử 1945 1954 thuộc Chương III phần Lịch sử Việt Nam, bao gồm những nội dung cơ bản
sau:
- Những thuận lợi và khó khăn của nước ta sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
- Những chủ trương, biện pháp của Đảng và Chính phủ nhằm giải quyết khó
khăn về đối nội, đối ngoại trong năm đầu sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
2.3.3. Một số biện pháp sử dụng tư liệu gốc nhằm phát huy năng lực chủ
động lĩnh hội kiến thức của học sinh.
6



2.3.3.1. Sử dụng tư liệu gốc để tạo tình huống có vấn đề và xác định
nhiệm vụ học tập.
Như chúng ta đã biết, phát hiện vấn đề là năng lực hoạt động trí tuệ của học
sinh khi đứng trước những nhiệm vụ học tập cụ thể, đòi hỏi học sinh phải huy động
kiến thức đã học kiến thức mới và những thao tác của tư duy để chủ động tìm ra
giải pháp cho vấn đề cần giải quyết.
Có nhiều con đường khác nhau để phát huy tính tích cực học tập của học sinh
như trao đổi, đàm thoại, phản biện...Trong đó, việc giáo viên sử dụng các tư liệu
Lịch sử gốc để tạo tình huống có vấn đề, xác định nhiệm vụ học tập là một biện
pháp đem lại hiệu quả cao. Vì việc xác định nhiệm vụ học tập có tác dụng định
hướng nội dung cơ bản cần nắm cho học sinh, đồng thời làm cho các em thấy hấp
dẫn, cuốn hút vào bài học, muốn được tìm hiểu khám phá những kiến thức Lịch sử
chứa đựng trong tư liệu.
Tư liệu lịch sử gốc là nguồn kiến thức đã được giáo viên thẩm định, lựa chọn
phù hợp với nội dung bài giảng trên lớp. Do đó, việc sử dụng tư liệu Lịch sử gốc
để tạo tình huống có vấn đề sẽ giúp học sinh biết được nhiệm vụ học tập ngay từ
đầu tiết học, tạo hứng thú học tập và sự tập trung chú ý của các em vào bài giảng.
Ví dụ: Khi dạy tiết 1, Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946”, để xây dựng bài tập nhận thức, giáo viên sử
dụng “kĩ thuật mảnh ghép”, lần lượt đưa ra 5 bức ảnh Lịch sử tư liệu gốc không có
ghi chú như sau:

Hình 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn độc lập tại
Quảng trường Ba Đình – Hà Nội

7


Hình 2: Qn Trung Hoa dân quốc đến Hải phịng Hình 3: Qn Anh đến Sài Gịn


Hình 4: Nạn đói 1945

Hình 5: Nạn dốt 1945

Giáo viên chiếu lần lượt từng mảnh ghép, yêu cầu học sinh cho biết nội dung
của từng mảnh ghép và trả lời câu hỏi: Những hình ảnh này phản ánh giai đoạn
nào của lịch sử dân tộc? Sau khi học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên đặt câu hỏi: Em
hãy cho biết những hiểu biết của em về giai đoạn lịch sử này? Học sinh trình bày
hiểu biết của mình.
Giáo viên giới thiệu 5 mảnh ghép: Hình 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tun ngơn độc lập tại Quảng trường Ba Đình – Hà Nội; Hình 2: Qn Trung Hoa
dân quốc và Hải Phịng; Hình 3: Qn Anh đến sài Gịn; Hình 4: Nạn đói 1945;
Hình 5: Nạn dốt 1945. Từ đó, giáo viên dẫn dắt vào bài mới: đây là những tư liệu
gốc phản ánh những sự kiện tiêu biểu của Lịch sử Việt Nam trong năm đầu sau
cách mạng tháng 8/1945. Vậy tình hình cách mạng nước ta trong năm đầu sau cách
mạng tháng 8/1945 có những thuận lợi và khó khăn gì? Đảng, Chính phủ và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có những chính sách nào để giải quyết những khó khăn của
cách mạng nước ta trong năm đầu sau cách mạng tháng 8/1945? Chúng ta cùng tìm
hiểu Bài 17: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước
ngày 19/12/1946.
Với việc tạo tình huống có vấn đề như trên, học sinh sẽ chú ý vào bài học
8


ngay từ đầu. Những hình ảnh tư liệu gốc sẽ tạo được hứng thú cho học sinh, kích
thích được sự tị mị, thắc mắc cho các em rằng: Những hình ảnh ấy là gì? Ở đâu?
Ra đời trong hồn cảnh thời gian nào?... Nếu như học sinh đã từng nhìn thấy, được
đọc, hay thậm chí đã đọc trước sách giáo khoa ở nhà sẽ lập tức nảy sinh những
phỏng đoán, suy luận, những mâu thuẫn trong nhận thức về những hình ảnh sự

kiện mới mà các em chưa biết, học sinh có mong muốn được giải đáp thắc mắc và
giải quyết vấn đề giáo viên đặt ra, muốn biết tư liệu đó là gì? Khi giáo viên dẫn dắt
vào vấn đề bằng những câu hỏi mở một mặt thu hút được sự chú ý từ học sinh, mặt
khác giúp học sinh biết được những nội dung sẽ tìm hiểu của bài học. Đây chính là
bước giáo viên xác định nhiệm vụ học tập, nhận thức cho học sinh, hướng dẫn các
em suy nghĩ và tiếp nhận bài học, xác định kiến thức trọng tâm, nhiệm vụ cần tìm
hiểu đối với bài học.
2.3.3.2. Sử dụng tư liệu gốc để làm rõ bản chất của sự kiện Lịch sử.
Nếu như hiện thực Lịch sử mang tính khách quan, thì nhận thức Lịch sử lại
mang tính chủ quan, phản ánh lập trường, tư tưởng, quan điểm của người nhận
thức. Cùng một sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử nhưng có nhiều nguồn tư liệu
phản ánh dưới nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên
cần phải định hướng học sinh nhìn nhận vấn đề, nhân vật, sự kiện, hiện tượng Lịch
sử một cách toàn diện, khách quan, khao học. Trong đó, việc sử dụng tư liệu Lịch
sử gốc là một trong những lợi thế để học sinh nhìn nhận đánh giá vấn đề Lịch sử,
sự kiện Lịch sử, nhân vật Lịch sử một cách toàn diện, khách quan, khoa học, chính
xác hơn. Qua các tư liệu gốc, giáo viên cho học sinh thảo luận, tranh luận với nhau
từ đó giáo viên gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một sự kiện, hiện tượng,
nhân vật Lịch sử. Qua đó khơng chỉ giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức một cách
chủ động, độc lập, mà còn phát triển năng lực tư duy giải quyết vấn đề, và tư duy
biện chứng cho các em.
Ví dụ: Khi dạy Bài 17: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946. Phần II. 3. Giải quyết nạn dốt. (Lịch sử 12),
để học sinh nhận thức được bối cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng trong việc diệt
giặc dốt, giáo viên cung cấp tư liệu gốc:
Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch để chống nạn thất học
“Quốc dân Việt Nam!
Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng hạn
chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối dân ta và
bóc lột dân ta.

Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95 phần trăm,
nghĩa là hầu hết người Việt nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được!
Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập, một trong những công việc phải
thực hiện cấp tốc lúc này, là năng cao dân trí.
9


Chính phủ đã ra hạn trong một năm, tất cả mọi người Việt Nam đều phải biết
chữ Quốc ngữ. Chính phủ lập một Nha Bình dân học vụ để trơng nom việc học của
dân chúng
Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết chữ Quốc ngữ.
Những người đã biết chữ dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức
mình vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây
dựng phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ, giúp đồng bào thất học.
Những người chưa biết chữ hãy gắng sức học cho biết đi. Vợ chưa biết thì
chồng bảo, cha mẹ khơng biết thì con bảo, em chưa biết thì anh bảo, người ăn
người làm chưa biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia
dạy cho những người khơng biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn
điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm
của mình.
Phụ nữ lại càng phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố
gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu
cử và ứng cử
Công việc này mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức.
Chủ tịch

Chính phủ nhân dân lâm thời
Hồ Chí Minh”
(Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 36)
Sau khi cung cấp đoạn tư liệu gốc “Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch để chống
nạn thất học” giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận bằng các câu hỏi: Lí do vì
sao ta phải tiến hành giải quyết nạn dốt ngay sau khi cách mạng tháng 8/1945
thành công? Để giải quyết nhiệm vụ đó Đảng, Chính phủ đã có những chủ trương
gì? Em có nhận xét gì về chủ trương của Đảng và Chính phủ trong việc giải quyết
nạn dốt ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công?
Dựa vào tư liệu gốc, sách giáo khoa học sinh thảo luận trả lời các câu hỏi định
hướng của giáo viên, học sinh nhận thức được:
- Sau khi Cách mạng tháng 8/1945 thành cơng, ta đã giành được chính quyền
về tay nhân dân, nhân dân ta đã được làm chủ đất nước, làm chủ thân phận mình.
Nhưng đất nước phải đối mặt với vơ vàn khó khăn, trong đó có khó khăn đó là phổ
10


biến nhân dân ta (95%), nhất là nông dân bị mù chữ, đây là hậu quả của chính sách
ngu dân người Pháp thuộc để lại. Nay đất nước đã có độc lập người dân phải có
quyền được đi học, được biết chữ.
- Những chính sách của Chính phủ trong việc diệt nạn dốt: Chính phủ chủ
trương kêu gọi nhân dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ, với “tinh thần ai
biết chữ dạy cho người không biết chữ”, ai cũng có quyền được học, được biết chữ
để góp phần vào xây dựng đất nước.
- Những chủ trương, chính sách của Chính phủ trong việc giải quyết nạn dốt thể
hiện sự quan tâm, chăm lo của chế độ mới đối với nhân dân, qua đó thể hiện tính
ưu việt của chế độ mới, khẳng đinh niềm tin của nhân dân với Đảng, với Chính
phủ và với chế độ. Từ đó, tiếp tục khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết
của dân tộc.
Như vậy, sử dụng tư liệu gốc sẽ lôi cuốn học sinh tham gia bài học một

cách tích cực, chủ động, độc lập và sáng tạo. Đồng thời rèn luyện khả năng khai
thác và sử dụng các nguồn tư liệu, đặc biệt là tư liệu gốc, kết hợp với những kiến
thức đã có và kiến thức sách giáo khoa để giải quyết những vấn đề bài học đặt ra,
qua đó thúc đẩy sự phát triển năng lực chủ động lĩnh hội kiến thức cho học sinh.
2.3.3.3. Sử dụng tư liệu gốc trong kiểm tra, đánh giá học sinh.
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng trong dạy học nói chung và dạy
học Lịch sử nói riêng, quá trình kiểm tra đánh giá học sinh diễn ra thường xuyên,
liên tục và kiểm tra dưới nhiều hình thức khác nhau. Kiểm tra, đánh giá là công cụ
chủ yếu để xác định năng lực nhận thức, tư duy của người học, đồng thời kiểm tra,
đánh giá còn nhằm điều chỉnh quá trình dạy học.
Trong quá trình tiến hành kiểm tra, đánh giá giáo viên có thể tiến hành bằng
nhiều phương pháp, trong đó việc sử dụng tư liệu gốc để kiểm tra, đánh giá nhằm
tạo sự mới mẻ, phấn khởi, chủ động của học sinh trong kiểm tra, đánh giá cũng là
một cách để đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá học sinh.
Việc sử dụng tư liệu Lịch sử gốc trong kiểm tra, đánh giá, giúp giáo viên vừa
kiểm tra được kết quả học tập của học sinh, vừa có thể tránh được lối học máy
móc, học thuộc lòng theo bài ghi, sách giáo khoa, đồng thời giúp phát triển tư duy,
tránh sự nhàm chán cho các em.
Ví dụ: Khi tiến hành kiểm tra thường xuyên, giáo viên chiếu hình ảnh về nạn
đói năm 1945 ở nước ta:

11


Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh: Em hãy đặt tên cho bức tranh theo suy
nghĩ của em? Bức tranh phản ánh thực trạng gì của đất nước ta sau Cách mạng
tháng 8/1945? Nếu là nhà lãnh đạo đất nước lúc bấy giờ em sẽ có những chính
sách gì để giải quyết tình trạng trên? Học sinh sẽ trả lời câu hỏi theo yêu cầu kiểm
tra của giáo viên.
Như vậy, việc sử dụng tư liệu Lịch sử gốc trong việc kiểm tra, đánh giá là

một cách để đổi mới phương pháp dạy và học Lịch sử, nhằm phát huy năng lực chủ
động sáng tạo trong việc lĩnh hội tri thức của học sinh, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học bộ môn ở các trường phổ thông. Dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, học sinh sẽ đóng vai là những “nhà sử học tí hon”, trực tiếp làm việc với tư
liệu, tìm tịi, khám phá, phân tích, và đưa ra những nhận định, đánh giá của bản
thân mình về các nhân vật Lịch sử, sự kiện, hiện tượng Lịch sử. Sử dụng hiệu quả
nguồn tư liệu này, sẽ phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập, đồng
thời rèn cho học sinh những kĩ năng bộ mơn, qua đó góp phần thiết thực nâng cao
chất lượng dạy học Lịch sử.
2.3.3.4. Sử dụng tư liệu gốc để giao bài tập về nhà, định hướng học sinh tự
học.
Trong học tập nói chung, học tập Lịch sử nói riêng bài tập về nhà là một
trong những phương thức để phát triển tư duy độc lập, chủ động lĩnh hội kiến thức
của học sinh. Tuy nhiên, bài tập chỉ có hiệu quả khi nó tiếp tục hồn thiện mục
đích học tập trên lớp như củng cố kiến thức, giáo dục tình cảm, đạo đức, phát triển
năng lực chủ động lĩnh hội tri thức của học sinh. Việc sử dụng tư liệu lịch sử gốc
để ra bài tập về nhà là một biện pháp nhằm cho học sinh khai thác tư liệu gốc, làm
việc độc lập với tư liệu gốc ở nhà, học sinh tự “đọc tư liệu”, “tự giải mã tư liệu”
12


bằng sự làm việc nghiêm túc của mình, theo những câu hỏi gợi mở của giáo viên,
từ đó sẽ góp phần giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng đã học và
biết vận dụng kiến thức từ các bộ môn khác vào học tập Lịch sử. Bên cạnh đó, rèn
luyện cho các em ý thức hồn thành bài tập trước khi đến lớp. Trong Bài 17:
“Nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày
19/12/1946”, giáo viên có thể xây dựng nhiều bài tập về nhà để giao cho học sinh
như: trước bài học để học sinh tìm hiểu nội dung liên quan đến bài học, hoặc sau
bài học để học sinh ôn tập, khái quát, củng cố lại nội dung bài học. Cụ thể:
- Thứ nhất: Trước khi vào bài học, giáo viên giao bài tập dưới dạng yêu cầu

học sinh về nhà sưu tầm các tư liệu phục vụ bài học:
Ví dụ: Sau khi học xong Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi
nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Để
chuẩn bị cho Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến
trước ngày 19/12/1946, giáo viên có thể yêu cầu học sinh sưu tầm tranh ảnh, phim
tư liệu, các chỉ thị của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bài báo trong
thời kì này để trả lời các yêu cầu của giáo viên như:
- Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng 8/1945 có những thuận lợi và khó
khăn gì?
- Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những biện pháp gì để
đưa đất nước vượt qua khó khăn?
- Những chính sách đó có tác dụng gì đối với cách mạng nước ta trong năm
đầu sau Cách mạng tháng 8/1945 thành công?
Với việc giao nhiệm vụ chuẩn bị bài trước như vậy, học sinh sẽ nắm được
những kiến thức về tình hình nước ta trong năm đầu sau Cách mạng tháng 8/1945,
cũng như những chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh để từng bước đưa nước ta thốt khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” trong
thời gian từ 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946.
- Thứ hai: Giáo viên có thể giao bài tập về nhà dưới dạng cho trước học sinh
tư liệu hoặc yêu cầu học sinh sưu tầm tư liệu, sau đó viết cảm nhận.
Ví dụ: Sau khi học xong Bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau ngày
2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946, giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm 6 bức ảnh
điển hình trong các lĩnh vực: củng cố chính quyền sau cách mạng tháng 8/1945,
xây dựng quân đội, giải quyết nạn đói, nạn dốt, giải quyết khó khăn về tài chính,
giặc ngoại xâm. Đồng thời giáo viên cung cấp cho học sinh tư liệu bài viết của
PGS.TS Trần Nam Chuân - nguyên cán bộ Viện Chiến lược quốc phòng, Bộ
Quốc phịng, đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, tiêu đề: Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 – Bài học giành và giữ chính quyền, xây dựng chính quyền của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân:
“Mặc dù ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, chính

quyền đã về tay nhân dân lao động, nhưng bên trong các thế lực phản động vẫn
còn đang cấu kết với nhau chống lại chính quyển cách mạng. Bên ngồi, các thế
lực đế quốc (Anh, Mĩ, Pháp...) vẫn chưa từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đất
13


nước ta. Nếu khơng chăm lo xây dựng chính quyền gắn với bảo vệ chính quyền thì
khó giữ được thành quả cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dù nhân dân
ta đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mô đế quốc
xâm lược vẫn cịn” (1). Do đó, xây dựng chính quyền phải đi đơi với bảo vệ chính
quyền, hai nhiệm vụ quan trọng này không được tách rời nhau. Đồng thời, phải
luôn gắn nhiệm vụ bảo vệ chính quyền non trẻ với nhiệm vụ xây dựng chế độ xã
hội mới. Muốn bảo vệ được chính quyền cách mạng, thì phải xây dựng chính
quyền dân chủ, thực sự vững mạnh về mọi mặt, đủ sức tự bảo vệ; lấy xây để chống,
lấy xây dựng để tự bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
Xây dựng chính quyền đi đơi với bảo vệ chính quyền là một trong những tư tưởng
quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước,
xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện cách mạng Việt Nam đã giành được chính quyền. Người khẳng định: “Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền” (2).
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền nhân dân non trẻ đã
cùng một lúc phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Tình thế cách mạng lúc này
như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền dân chủ nhân dân - thành quả của cuộc
đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ, hi sinh đang đứng trước nhiều thử thách, có
nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập dân tộc vừa mới giành được có nguy cơ bị mất.
Thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lenin, nhận thức sâu sắc rằng giành
được chính quyền dã khó, nhưng bảo vệ chính quyền cịn khó hơn, Đảng ta đã nêu
lên tư tưởng quan trọng về xây dựng chính quyền phải đi đơi với bảo vệ chính

quyền để lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách;
giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ thành công chế độ xã hội mới.
Theo quan điểm của Đảng, xây dựng chính quyền đi đơi với bảo vệ chính quyền là
vấn đề có tính quy luật của cách mạng vơ sản nói chung, của cách mạng Việt Nam
nói riêng. Bởi vì, mặc dù cách mạng dã thành cơng, chính quyền đã về tay nhân
dân, nhưng nếu khơng chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh thì khơng thể
quản lý, điều hành được đất nước. Điều đó càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh
các thế lực thù địch, phản động cả bên trong và bên ngồi vẫn cịn cấu kết với
nhau để chống phá cách mạng…”
Giáo viên yêu cầu học sinh kết hợp tư liệu ảnh, báo và kiến thức đã học viết
suy nghĩ của bản thân về bài học giành chính quyền và giữ chính quyền ở nước ta
sau Cách mạng tháng 8/1945.
Với các loại bài tập này học sinh tự làm ở nhà và giáo viên thu để chấm lấy
điểm. Qua bài tập trên, học sinh chủ động làm việc để trả lời các câu hỏi. Khi các
em đã tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi trên thì các em một lần nữa tìm hiểu về
những nội dung quan trọng của thời kì lịch sử này, hơn nữa bằng những dạng bài
tập viết cảm xúc thì các em có cơ hội bày tỏ tình yêu quê hương đất nước của mình
14


thơng qua việc phân tích, đánh giá vai trị lãnh đạo của Đảng, vai trò của quần
chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng qua đó các em biết trân trọng lịch sử,
biết ơn các thế hệ cha ông đã hi sinh vì đất nước, vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân
tộc.
2.3.4. Một số lưu ý đối với giáo viên khi sử dụng tư liệu gốc trong dạy học
lịch sử ở trường THPT
Một là: Xác định rõ mục đích sử dụng: Các tư liệu gốc sử dụng trong dạy
học Lịch sử ở trường THPT không phải nhằm cho học sinh nghiên cứu để trở thành
nhà sử học, mà các tư liệu này là các tư liệu đã được kiểm nghiệm chính xác, khoa
học lịch sử khẳng định. Mục đích khi cho học sinh tiếp cận với nguồn tư liệu này là

để các em có được cái nhìn khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ ai, bất cứ luận
điểm nào trong các tài liệu viết về vấn đề Lịch sử đó. Các em có thể đưa ra quan
điểm riêng của cá nhân về vấn đề Lịch sử đang bàn luận hoặc tìm hiểu trên cơ sở
nghiên cứu tư liệu gốc. Đồng thời cịn nhằm hình thành cho các em cách tiếp cận
tri thức khoa học. Mặt khác, thông qua quá trình hướng dẫn học sinh sử dụng tư
liệu gốc sẽ giải quyết được các nhiệm vụ học tập, rèn luyện cho học sinh kĩ năng
chủ động tìm tịi, khám phá tri thức trong học tập không thụ động tiếp nhận kiến
thức một chiều như trước đây.
Hai là: Sử dụng tư liệu gốc trong dạy học lịch sử cần phải đáp ứng mục tiêu
bài học: Mục tiêu dạy học là cái đích bộ mơn cần đạt hay nói cách khác mục tiêu
dạy học chính là đích khi tiến hành hoạt động dạy học mà thầy trò cần đạt đến. Tư
liệu lịch sử là một trong những phương tiện hữu hiệu giúp giáo viên thực hiện
những mục tiêu dạy học cụ thể đã đề ra đối với bài học Lịch sử. Do vậy, để đáp
ứng mục tiêu bài học, khi sử dụng tư liệu gốc trong dạy học Lịch sử ở trường
THPT, giáo viên cần phải xem xét kĩ nội dung của bài học để tiến hành chọn lọc tư
liệu trước khi sử dụng trên lớp. Có như vậy khi đưa vào sử dụng mới có tính chính
xác, đem lại hiệu quả và đáp ứng mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng của bài học.
Ba là: Sử dụng tư liệu gốc phải làm nối bật nội dung cơ bản của bài, đảm
bảo tính khoa học trong nội dung: Trong dạy học Lịch sử, chúng ta không thể cung
cấp hết cho học sinh mọi kiến thức của khoa học Lịch sử mà chỉ có thể làm cho các
em nắm vững những kiến thức cơ bản của bài, là những kiến thức tối ưu cần thiết
cho việc hiểu biết của học sinh về Lịch sử. Để xác định kiến thức trọng tâm, nội
dung cơ bản của bài, giáo cần căn cứ vào sơ đồ Đai-ri chọn tư liệu Lịch sử gốc phù
hợp, nhằm làm rõ kiến thức cơ bản của bài, khắc sâu kiến thức cho học sinh, tránh
việc sử dụng tư liệu gốc một cách nặng nề, tràn lan, biến giờ học thành giờ nghiên
cứu tư liệu gốc.
Bốn là: Sử dụng tư liệu gốc phải đảm bảo tính vừa sức, trình độ và tâm lý của
học sinh: Trong dạy học Lịch sử ở trường THPT, tính vừa sức được thể hiện ở việc
giáo viên lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học và cách tức tổ chức quá trình
nhận thức phù hợp với từng đối tượng học sinh. Cịn tính vừa sức trong việc sử

dụng tư liệu gốc được thể hiện:
15


- Khối lượng kiến thức trong các tư liệu gốc đưa vào sử dụng phải thiết thực,
hợp lí. Tùy theo yêu cầu của từng cấp học, lớp học, đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi
cũng như khả năng tư duy của từng đối tượng học sinh, ở từng vùng miền... để giáo
viên lựa chọn tư liệu gốc phù hợp với từng đối tượng học sinh, tránh tình trạng tư
liệu quá dễ hay quá khó với tư duy của học sinh.
- Khi sử dụng tư liệu gốc giáo viên cần tránh sử dụng những tư liệu bằng
tiếng nước ngồi khơng có bản dịch tiếng Việt làm mất thời gian giải thích, và gây
khó khăn trong việc tìm hiểu của học sinh.
- Giáo viên khơng nên trích dẫn q nhiều tư liệu lịch sử, nên sử dụng
những tư liệu dễ hiểu, có nội dung liên quan trực tiếp đến bài học. Tránh việc trích
dẫn q nhiều làm “lỗng” nội dung kiến thức cơ bản, phân tán sự chú ý của học
sinh làm bài học thêm nặng nề hơn.
Năm là: Sử dụng tư liệu gốc phải kết hợp với các phương pháp và kĩ thuật
dạy học dạy học khác nhằm phát huy năng lực học sinh: Trong dạy học nói chung,
dạy học Lịch sử nói riêng có rất nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát
triển năng lực học sinh. Bởi vậy, khi dạy học Lịch sử cần phải biết kết hợp nhiều
phương pháp, kĩ thuật khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất khi khai thác tư liệu gốc.
Tư liệu gốc là một nguồn tư liệu quan trọng bên cạnh nguồn tư liệu từ sách giáo
khoa. Vì vậy, khai thác và sử dụng tư liệu gốc cũng là một phương pháp dạy học
của giáo viên. Do đó, cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn việc sử dụng tư liệu gốc với
các phương pháp dạy học khác.
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối tượng kiểm nghiệm:
Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy học,
tôi chọn 2 lớp 12 của Trường trung học phổ thông Triệu Sơn 3, cụ thể:

- Học sinh ở lớp đối chứng: 12E8 (năm học 2019 – 2020)
- Học sinh ở lớp thực nghiệm: 12E7 (năm học 2019 – 2020)
Các lớp được chọn tham gia nghiên cứu cho đề tài có nhiều điểm tương đồng
nhau về tỉ lệ học sinh, kết quả điểm trúng tuyển vào lớp 10, ý thức học tập của học
sinh... đặc biệt là năng lực học tập và kết quả điểm kiểm tra môn Lịch sử trước khi
tác động. Và một điểm đặc biệt hơn nữa đó là: hai lớp tôi chọn để đối chứng và
thực nghiệm là hai lớp trường tôi phân là lớp cơ bản - nghĩa là lớp các em có xu
hướng học để thi tốt nghiệp.
2.4.2. Cơ sở thực nghiệm:
Tôi sử dụng kết quả bài kiểm tra 15 phút lần 2 học kì I năm học 2019 – 2020
của học sinh ở 2 lớp 12E8 - lớp đối chứng và lớp 12E7 - lớp thực nghiệm để làm
cơ sở kiểm nghiệm.
16


2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm:
Sau khi tiến hành giảng dạy ở 2 lớp thực nghiệm và lớp đối chứng kết
quả đạt được như sau:
Điểm
Lớp

12E7
(Thực nghiệm)
12E8
(Đối chứng)

Sĩ số

Giỏi


Khá

Số
Tỉ lệ
lượng %

Trung bình

Yếu

Số Tỉ lệ Số
Số Tỉ lệ
Tỉ lệ
lượng % lượng % lượng %

39

10

25.6

20

51.5

6

15.3

3


7.6

39

6

15.3

16

41,2

10

25.6

7

17,9

Như vậy, sau khi tổng hợp thông tin từ kết quả học sinh thi mơn sử trong kì thi
đại học cao đằng năm học 2013-2014 và kết quả học sinh thi trung học phổ thông
quốc gia chọn môn Sử để xét đại học năm học 2014 - 2015cho thấy như sau:
- Điểm số ở lớp thực nghiệm tăng đáng kể, số lượng điểm khá giỏi đạt tỉ lệ cao.
Tỉ lệ học sinh đạt điểm trung bình và điểm yếu ở lớp thực nghiệm ít hơn nhiều so
với lớp đối chứng. Điều đó cho thấy, việc áp dụng biện pháp sử dụng tư liệu gốc để
phát triển năng lực chủ động lĩnh hội kiến thức cho họ sinh bước đầu có hiệu quả
đối với việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở trường THPT.
- Chất lượng học tập của học sinh lớp thực nghiệm cao hơn học sinh lớp đối

chứng. Ở lớp thực nghiệm, hầu hét các em biết khai thác tư liệu gốc, giải quyết
tương đối tốt các nhiệm vụ học tập, các bài tập nhận thức mà giáo viên đưa ra.
Phần lớn học sinh trả lời đúng trọng tâm dưới sự định hướng nhận thức bằng các
câu hỏi gợi mở của giáo viên. Trong khi làm bài, trả lời các câu hỏi học sinh biết
chọn lọc kiến thức cơ bản, sắp xếp logic, vận dụng kiến thức tốt, thể hiện sự tìm
tịi, khám phá thơng tin, sáng tạo trong câu trả lời với những đánh giá nhận xét theo
quan điểm của riêng mình. Vì vậy tỉ lệ % học sinh đạt điểm 7, 8 (51.5%), đạt 9, 10
(25.6%).
Từ kết quả kiểm nghiệm trên cho thấy việc sử dụng tư liệu gốc trong dạy học
Lịch sử nhằm phát triển năng lực chủ động học tập, lĩnh vực kiến thức của học sinh
đã đưa lại những chuyển biến rõ rệt:
- Điểm kiểm tra theo hướng phát triển năng lực của học sinh nhiều em đạt điểm
cao, sáng tạo.
- Bước đầu đã thay đổi được thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trường
Trung học phổ thông hiện nay.
17


- Đã phát triển được tối đa năng lực chủ động học tập, chủ động lĩnh hội kiến
thức môn Lịch sử của học sinh.
- Đã tạo được hứng thú và nâng cao được kết quả học tập cho học sinh khi học
tập môn Lịch sử.
- Đã tạo được hứng thú, động lực để giáo viên tiếp tục đổi mới phương pháp
dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Việc áp dụng đề tài “Một số biện pháp sử dụng nguồn tư liệu gốc khi dạy
Bài 17. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước nhày
19/12/1946 - Lịch sử lớp 12 – THPT, nhằm phát huy năng lực chủ động lĩnh hội
kiến thức của học sinh” tại Trường THPT Triệu Sơn 3 sẽ thay đổi được thực trạng

dạy và học môn Lịch sử trong các trường Trung học phổ thông hiện nay. Đặc biệt
đã tạo điều kiện cho học sinh phát huy được tối đa năng lực học tập của bản thân
trong quá trình học tập, đã thay đổi đáng kể nhận thức của học sinh khi học và thi
môn Lịch sử trong bối cảnh hiện nay. Đề tài có tính khả thi cao và dễ phổ biến rộng
rãi trong công tác đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ở những năm học
tiếp theo. Đồng thời tạo động lực tốt để các giáo viên Lịch sử ở các trường THPT
tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy và học môn Lịch sử để đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục của Bộ đề ra.
3.2. Đề xuất:
Để không ngừng phát triển năng lực chủ động học tập và lĩnh hội kiến thức cho
học sinh học trong quá trình dạy học Lịch sử tại trường THPT, đòi hỏi:
Đối với giáo viên, phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn để đổi mới được phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.
Đối với các cấp lãnh đạo, cần phải quan tâm về cơ sở vật chất như: trang thiết
dạy học, mở ở các lớp bồi dưỡng, hội thảo về đổi mới phương pháp, hình thức dạy
học, khuyến khích và động viên giáo viên tích cực đổi mới phương pháp, hình thức
dạy học.
Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các đồng nghiệp sẽ quan tâm và
nghiên cứu để áp dụng. Từ đó sẽ thay đổi đáng kể thực trạng dạy học Lịch sử trong
trường THPT hiện nay.

18


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2021
CAM ĐOAN KHÔNG COPY


Lê Thị Diệp

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hệ thống tư liệu Lịch sử gốc trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội 2017
- Tạp chí giáo dục.
- Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học môn Lịch sử
Nhà xuất bản ĐHSP 2010
- Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học
Nhà xuất bản ĐHSP 2010
- Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng
lực học sinh
Bộ GD& ĐT năm 2014

19



×