Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số kinh nghiệm tạo biểu tượng nhân vật lịch sử trong chương trình lịch sử lớp 11 để giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh trung tâm GDNN GDTX huyện thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.33 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRUNG TÂM GDNN - GDTX HUYỆN THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TẠO BIỂU TƯỢNG NHÂN VẬT
LỊCH SỬ TRONG CHƯƠNH TRÌNH LỊCH SỬ LỚP 11 ĐỂ
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG TÌNH CẢM CHO HỌC SINH
TRUNG TÂM GDNN - GDTX HUYỆN THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Cầm Thị Xuân
Chức vụ: Giáo Viên
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Lịch sử

THANH HỐ, NĂM 2021


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí do chọn đề tài


1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG

3

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4

2.2.1. Ưu điểm

4


2.2.2. Hạn chế

4

2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

2.3.1. Giải pháp 1: Ý nghĩa của việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch
sử trong giáo dục học sinh

6

2.3.2. Giải pháp 2: Các hình thức tạo biểu tượng nhân vật lịch sử.

8

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

17

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

19

3.1. Kết luận

19


3.2. Kiến nghị

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


1

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trung tâm GDNN - GDTX huyện Thường
Xuân là nhằm góp phần vào việc đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện.
Trong q trình hội nhập, môn Lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc rất cần được coi
trọng để giúp thế hệ trẻ hình thành nhân cách, bản lĩnh con người và giữ gìn bản sắc
dân tộc. Nhưng thực trạng việc dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện - nay đặt
ra vấn đề cần suy nghĩ. Số lượng học sinh say mê u thích mơn Lịch sử là rất ít. Có
nhiều phụ huynh và học sinh coi mơn Lịch sử là môn học “phụ”. Nhận thức của các
em về lịch sử là sai lệch, các em không nhớ hoặc nhớ khơng chính xác thời gian, đặc
điểm, tính chất của các sự kiện và hiện tượng lịch sử. Kiến thức của học sinh về môn
lịch sử quá kém, dư luận xã hội đang rất quan tâm vấn đề này.
Hiện nay môn Lịch sử không được mọi người trong xã hội nhìn nhận đúng
vị trí của nó. Vấn đề này cần phải có sự chung tay góp sức của nhiều người, nhiều
ngành đặc biệt là ngành giáo dục. Phần lớn các học sinh không đam mê học sử một
phần là do phương pháp giảng dạy của giáo viên không thu hút, hấp dẫn đối với
các em. Để các em quan tâm nhiều hơn thì người giáo viên cần linh hoạt trong
cách giảng dạy, tìm ra nhiều phương pháp dạy mới khơng nên rập khuôn trong một
cách dạy nào hết. Làm sao để đổi mới? Phương pháp nào đạt hiệu quả cao nhất?

Đó là trăn trở của những người trong ngành giáo dục nói chung và đối với những
thầy cơ giáo như chúng tơi nói riêng, nhằm góp phần tạo ra nhiều phương pháp
giảng dạy mới và đem niềm đam mê lịch sử đến các thế hệ học sinh.
Tất cả các nước hiện nay, đặc biệt là các nước phát triển đều phải tiến hành
đổi mới giáo dục, coi đổi mới giáo dục là một trong những chiến lược để phát triển
đất nước của mình. Trong quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế, vấn đề giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành một yêu cầu cấp thiết. Môn Lịch sử
không chỉ cho học sinh thấy được quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, mà
còn giáo dục lòng yêu nước, biết ơn tiền nhân, giáo dục hồi bão và ý chí xây dựng
đất nước cho thể hệ trẻ. Làm thế nào để biến tư tưởng đổi mới đó thành thực tiễn
dạy học nhằm nâng cao chât lượng bộ môn ở trường phổ thông.
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu tâm huyết, đã đưa ra nhiều
nguyên nhân khiến tình trạng chất lượng dạy - học môn lịch sử chưa đạt hiệu quả
cao. Một trong những nguyên nhân đó là giáo viên chưa để ý đến tầm quan trọng
của việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong bài giảng nhằm gây hứng thú
cho học sinh để hình thành thái độ, tư tưởng, tình cảm của các em thơng qua các
nhân vật lịch sử. Nên giáo viên chưa dành một dung lượng thời gian cần thiết để
khắc họa nhân vật lịch sử trong bài giảng.


2

Vậy khắc họa nhân vật lịch sử là gì? Theo cách hiểu của những nhà nghiên
cứu lịch sử thì khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử là “Biểu tượng về những hình
ảnh nhân vật lịch sử, nó vừa mang sắc thái riêng của nhân vật vừa chứa đựng bản
chất của giai cấp, tập đoàn xã hội mà nhân vật đó đại diện được phản ánh trong
đầu học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất”.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử tôi rất trăn trở về vấn đề này.
Vì vậy, tơi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số kinh nghiệm tạo biểu tượng
nhân vật Lịch sử trong chương trình lịch sử lớp 11 để giáo dục tư tưởng tình

cảm cho học sinh trung tâm GDNN - GDTX huyện Thường Xuân” nhằm góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục môn Lịch sử trong nhà trường phổ thơng, tìm
ra hướng đi và vị trí xứng đáng dành cho môn Sử ở Trung Tâm GDNN - GDTX
huyện Thường Xuân hiện nay.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Phát huy tính tích cực, chủ động, óc quan sát và tạo hứng thú học tập Lịch sử
cho học sinh thông qua việc khắc họa sâu sắc biểu tượng nhân vật Lịch sử.
Thông qua việc tìm hiểu tình hình học tập mơn Lịch sử hiện nay giáo viên
có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong khi học tập
Lịch sử.
Đề ra phương pháp tối ưu trong việc tạo biểu tượng nhân vật Lịch sử khi học
phần Lịch sử Việt Nam từ 1858 - 1918.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về việc tạo biểu tượng các nhân vật Lịch sử Việt
Nam thời kì từ năm 1858 đến năm 1918 cho học sinh lớp 11 Trung tâm GDNN GDTX huyện Thường Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng làm nền tảng phương pháp luận cho nghiên cứu. Trình bày
sự kiện trung thực, xem xét sự vận động của chúng trong mối liên hệ với nhau.
Thực hiện đề tài này tôi chú trọng những phương pháp sau: Thu thập tài liệu,
khái quát hóa những tài liệu từ sách, báo, tạp chí… Và tổng hợp tài liệu lại cho
hoàn chỉnh. Khi đã tiến hành xong các bước trên tơi bắt đầu phân tích, so sánh và
đối chiếu các tài liệu với nhau.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


3

Lịch sử là những gì đã diễn ra, tồn tại khách quan ngồi ý muốn của con

người. Nói đến lịch sử xã hội lồi người là nói đến lịch sử của tất cả các quốc gia,
dân tộc, cộng đồng người hồ vào sự phát triển ấy. Mơn lịch sử ở trường phổ thông
nhằm cung cấp khối lượng kiến thức cơ bản cho học sinh về tiến trình lịch sử dân
tộc và lịch sử thế giới. Những kiến thức ấy sẽ giúp các em hình thành thế giới
quan, nhân sinh quan khoa học khi bước vào cuộc sống.
Theo giáo sư Phan Ngọc Liên, “cũng như các môn học khác, việc học tập
lịch sử cũng địi hỏi phát triển tư duy, thơng minh, sáng tạo”. Chính vì vậy quan
niệm cho rằng lịch sử chẳng qua chỉ là mơn học thuộc lịng khơng có tác dụng phát
triển tư duy học sinh là hồn tồn sai lầm. Nó góp phần thực hiện nhiệm vụ giáo
dục, giáo dưỡng phát triển thông qua nội dung và đặc trưng bộ môn. Trên cơ sở
tiếp xúc tài liệu, qua lời giảng cũng như đồ dùng trực quan... học sinh thu nhận
được lượng thông tin cần thiết cũng như đánh giá khoa học về nhân vật lịch sử,
hiện tuợng hay q trình lịch sử, từ đó vận dụng vào thực tế. Vậy nên bộ môn lịch
sử trong trường phổ thơng cũng địi hỏi q trình nhận thức của học sinh ở ba cấp
độ: Biết, hiểu và vận dụng.
Lịch sử là bộ mơn hấp dẫn song cũng rất khó. Giáo viên ngồi kiến thức sâu
rộng, nhiệt tình sư phạm cần phải huy động, lựa chọn cũng như xử lý về mặt
phương pháp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất của giờ học. Tạo biểu tượng nhân
vật trong dạy học các khố trình lịch sử là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả bài học, góp phần thực hiện việc áp dụng quan điểm mới vào bộ môn.
Ở trung Tâm GDNN - GDTX huyện Thường Xuân đa số học sinh cịn
lười học và chưa có sự say mê mơn học Lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử.... còn yếu. Đa số các em chưa độc lập suy nghĩ để trả
lời một câu hỏi mà phải đọc nguyên xi trong sách giáo khoa hay chỉ nêu được mốc
thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói lên sự kiện gì... Bởi vậy bản thân
các em nên có một phương pháp học như thế nào để chiếm lĩnh kiến thức từ bài
giảng của giáo viên Mặt khác giáo viên giảng dạy bộ mơn lịch sử ở trường một
phần nào đó chưa đưa ra được hệ thông câu hỏi và sử dụng câu hỏi đó như thế nào
cho phù hợp, cho nên chất lượng kiểm tra một số em ở một số lớp còn thấp và tỉ lệ
yếu kém còn nhiều. Nhằm giảm bớt số lượng học sinh yếu kém và nâng cao chất

lượng dạy và học của nhà trường bản thân tơi đã thấy được điều đó và cố gắng đưa
ra các phương pháp học tập tích cực mà cụ thể là: “Phương pháp sử dụng hệ thống
câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy học lịch sử’’.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Ưu điểm
* Về phía giáo viên


4

- Đại đa số giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thơng qua các phương pháp dạy
học như phương pháp trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp
trường hợp (phương pháp tình huống), phương pháp vấn đáp thơng qua sự trình
bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện,
hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử...
- Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hổ trợ kiến thức
cho nhau và thơng qua hoạt động này những bạn yếu kém được hoạt động một cách
tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn học sinh khá giỏi và học sinh
nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử…
- Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học,
khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiên dạy học như tranh ảnh, bản
đồ, sa bàn, mơ hình, phim đèn chiếu, phim vi déo....và từng bước ứng dụng công
nghệ thông tin phù hợp trong dạy học lịch sử…
* Về phía học sinh
- Học sinh đa số chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà
giáo viên đặt ra như các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời các câu hỏi cuối mục
trong bài cho nên khi học các em luôn chú ý để nắm chắc bài hơn.
- Đa số học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đã đưa lại hiêụ quả cao
trong q trình lĩnh hội kiến thức.

- Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt các kiến thức trọng tâm cơ
bản thông qua các hoạt động học như thảo luận nhóm, vấn đáp, đọc sách giáo
khoa... các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân
vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.
2.2.2. Khuyết điểm
* Về phía giáo viên
- Vẫn cịn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp
dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hoá hoạt động của học sinh
tạo điều kiện cho các em suy nghĩ , chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như vẫn còn
sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trị nghe ”, “thầy đọc, trị chép ”. Do đó
nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy
móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hồn tồn ...
- Đa số giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học tức là sau khi
kiểm tra bài cũ giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài qua việc nêu câu hỏi


5

nhận thức, điều này làm giảm bớt sự tập trung, chú ý bài học của học sinh ngay từ
hoạt động đầu tiên.
- Một số câu hỏi giáo viên đặt ra hơi khó, học sinh khơng trả lơì được nhưng
lại khơng có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi phải trả lời thay cho học
sinh .Vấn đề này được thể hiện rất rõ trong hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên
chỉ biết nêu ra câu hỏi nhưng lại không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi đó như
thế nào vì khơng có hệ thống câu hỏi gợi mở vấn đề.
- Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động một số học
sinh khá, giỏi trả lời, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu kém .Cho
nên đối tượng học sinh yếu kém ít được chú ý và khơng được tham gia hoạt động,
điều này làm cho các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán
nản mơn học của mình.

* Về phía học sinh
- Học sinh thường trả lời câu hỏi giáo viên đặt ra thơng qua việc nhìn sách
giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên
xi sách giáo khoa để trả lời câu hỏi.
- Học sinh còn lười học và chưa có sự say mê mơn học, một số bộ phận học
sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, trên lớp các em thiếu
tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch
sử... còn yếu.
- Học sinh chỉ có trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày),
cịn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh... thì học sinh cịn rất
lúng túng khi trả lời hoặc trả lời thì mang tính chất chung chung...
Qua thực tế khảo sát
Mơn
Lịch sử

Lớp

TSHS

11A

38

Giỏi
SL TL
0

0%

Khá

SL
7

TL

Trung bình
SL

18,4% 21

Yếu

TL

SL

TL

55,2%

10

26,4%

Lịch sử
11B
40
0 0% 8
19% 25 61%
9

20%
Trung Tâm GDNN - GDTX huyện Thường Xn khơng nằm ngồi vịng quay
ấy, một số gia đình xem nhẹ bộ mơn Lịch sử, đạo đức học sinh có dấu hiệu đi xuống.
Thế nên đối với học sinh tư tưởng xem nhẹ môn lịch sử khá nhiều. Các em
học sử chỉ đơn giản vì nó là mơn học chính khố, liên quan đến điểm trung bình và
xét duyệt thành tích học tập. Thành thử hứng thú học tập bộ môn lịch sử Trung Tâm
GDNN - GDTX huyện Thường Xuân là rất hiếm, các em chỉ biết mường tượng về


6

lịch sử nên dẫn đến tình trạng giờ học lịch sử là giờ học đơn điệu. Đứng trước tình
trạng ấy những năm gần đây các cơ quan đã lên tiếng về rất nhiều về tình trạng này.
Từ những kết luận và qua khảo sát thực tế chúng ta cần xem xét lại tình hình
dạy học lịch sử ở Trung Tâm GDNN - GDTX huyện Thường Xuân hiện nay. Từ đó
đưa ra biện pháp giảng dạy lịch sử tích cực nhất để khắc phục những khuyết điểm
của việc dạy và học lịch sử. Đặc biệt phải kết hợp học với hành, phương châm giảng
dạy và học tập khoa học nhất. Thực hiện được điều đó thì hiệu quả bài học lịch sử sẽ
được nâng cao, từ đó hiểu được quá khứ, biết hiện tại và dự đoán tương lai.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Ý nghĩa của việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử
trong giáo dục học sinh
- Việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử sẽ tạo ra sự kích thích và gây
hứng thú học tập cho học sinh
Vậy hứng thú học tập học sinh là gì? Theo I.Fkharla Noops (nhà tâm lí giáo
dục) “Hứng thú đó là nhu cầu nhuốm màu xúc cảm, xúc cảm đi trước gây động cơ
và làm cho hoạt động của con người có tính hấp dẫn.” Một bài giảng lịch sử mà
nghèo nàn, tẻ nhạt thì chắc chắn sẽ làm cho học sinh mệt mỏi, chán học. Chính vì
vậy, việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử có tác dụng rất lớn trong việc kích
thích hứng thú học tập của học sinh. Bởi vì trong khi lĩnh hội kiến thức khoa học

hồn thành nhiệm vụ nhận thức thì đồng thời học sinh cũng phát triển năng lực
nhận thức kích thích phát triển tư duy của mình. Hơn nữa mỗi nhân vật lịch sử đều
có cá tính, đặc điểm riêng nên khơng tạo sự nhàm chán cho học sinh.
Ví dụ: Khi khắc họa về hình ảnh cụ Phan Châu Trinh trong bài 23“Phong
trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới lần thứ
nhất năm (1914)”[5] khi dạy phần 2, có thể cho học sinh hiểu rằng, với hoạt động
đấu tranh cứu nước rất sôi nổi song cụ đã thất bại, rơi vào cảnh “hoa như sắp tàn,
hiềm vì quốc phá gia vong, dù hơi tàn cũng phải gào cho hả dạ, may ra có tỉnh
giấc hơn mê”. Hoặc biểu tượng về cụ Phan Bội Châu, với những hoạt động yêu
nước sôi nổi, kết thúc cuộc đời với cảnh “thân cá chậu chim lồng”, bị giam lỏng ở
Bến Ngự (Huế). [7]


7
Sinh: 09 tháng 9, 1872 phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, Đại Nam.
Mất: 24 tháng 3, 1926 (53 tuổi) Sài Gịn, Đơng Dương thuộc Pháp.
Nơi an nghỉ: Sài Gịn.
Tên khác: Phan Tây Hồ.
Dân tộc: Kinh.
Học vị: Phó bảng.
Nghề nghiệp: Nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động chính trị.
Phối ngẫu: Lê Thị Tỵ (vợ).
Con cái: Phan Châu Dật (trai); Phan Thị Châu Liên (gái); Phan
Thị Châu Lan (gái).
Cha mẹ: Phan Văn Bình (cha); Lê Thị Chung (mẹ).
Phan Bội Châu

Qua đó, học sinh sẽ hình dung được phong trào yêu nước chống Pháp vào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX “dường như trong đêm tối khơng có đường ra”.
- Việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử góp phần hình thành nhân

cách cho học sinh
Việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử cho các em có nhiều ưu thế trong
việc giáo dục tư tưởng tình cảm vì nó khơng những tác động lên trí tuệ mà cịn tác
động vào cả tâm hồn tình cảm của các em.
Thơng qua những hành động của các anh hùng những người đấu tranh qn
mình vì chính nghĩa, vì hạnh phúc và hịa bình, điều này tạo ra sự kính phục, lịng
tự hào đối với các vĩ nhân và trong một hoàn cảnh nhất định nó cịn thổi bùng ngọn
lửa cách mạng của tuổi trẻ.
Ngược lại với những nhân vật lịch sử có những hành động đi ngược lại với
quyền lợi của dân tộc, là nguyên nhân gây ra chiến tranh và tội lỗi, điều này sẽ tạo
ra sự phản ứng từ các em, các em sẽ căm ghét trước những hành động hung bạo tàn
ác…Về ý nghĩa này giáo viên cần đưa ra những việc làm cụ thể của nhân vật, để
học sinh cảm nhận, bày tỏ thái độ đối với nhân vật lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 20“Chiến sự lan rộng ra cả nước, cuộc kháng chiến
của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884, Nhà Nguyễn đầu hang”[5] Giáo
viên khắc họa về nhân vật Nguyễn Tri Phương. Ông là người thơng minh có trí và
được thăng tới chức quan võ đầu triều. Ông được cử làm kinh lược sứ ở Bắc Kỳ,
đối phó với Pháp khi Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, ông đã chiến đấu dũng
cảm hy sinh để bảo vệ thành. Bị thương rồi bị bắt, Nguyễn Tri Phương kiên quyết
giật băng, vứt thuốc và tuyệt thực tới chết. Một giáo sĩ người Pháp phải thừa nhận


8

Nguyễn Tri Phương là con người xuất sắc nhiều mặt: yêu nước nồng nàn, là một
chiến binh dũng cảm.
Qua việc khắc họa biểu tượng nhân vật Nguyễn Tri Phương, học sinh nhận
thức được rằng: Không phải bất kỳ vị quan triều Nguyễn nào cũng tỏ ra nhu
nhược, tham sống sợ chết, mà qua đó giúp học sinh lịng khâm phục và biết cảm
thông trước vận mệnh của đất nước.

- Thông qua việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử giúp học sinh hiểu
sâu sắc hơn một thời kỳ lịch sử
Ở đây chúng ta không phải đề cao cá nhân lịch sử mà quên đi vai trò của
quần chúng nhân dân, chính nhân dân là người làm nên lịch sử. Đồng thời thơng
qua đó cũng giúp các em hiểu rằng: Nếu cá nhân lịch sử nào có những hoạt động
hợp với quy luật phát triển của thời đại nó sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
xã hội và có thể trở thành anh hùng, vĩ nhân. Ngược lại nếu cá nhân đó đi ngược lại
với quy luật của lịch sử thì có thể bước đầu có một số kết quả nhất định nhưng cuối
cùng cũng bị lịch sử đào thải và họ có thể trở thành tội đồ.
Tuy nhiên, lịch sử cũng khơng phủ nhận đã có nhiều nhân vật có đóng góp
to lớn tạo nên bước ngoặt trọng đại của mỗi quốc gia, dân tộc, thậm chí có tầm ảnh
hưởng tới cục diện thế giới.
- u cầu đối với việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử
Đây là một yêu cầu rất quan trọng khi tìm hiểu về nhân vật lịch sử. Trước
tiên tư liệu chúng ta tiếp cận phải có tính tin cậy cao, đầy đủ và cùng một tính chất,
chúng ta khơng được “tô hồng” hay “bôi đen” nhân vật lịch sử. Khi nhận định về
nhân vật lịch sử cần có tính khách quan, cơng bằng để cho học sinh có cách nhìn
đúng đắn.Tài liệu, sự kiện chính xác yêu cầu người giáo viên phải biết vận dụng
những thành tựu mới nhất của khoa học lịch sử, được nhiều người cơng nhận.
Tính đầy đủ ở đây là chọn lựa một số sự kiện điển hình nhất vừa sức tiếp thu
của học sinh làm nổi bật được bản chất của nhân vật.
Truyền thống quê hương gia đình dịng họ là quan trọng nhưng khơng phải là bất
biến, càng khơng thể phủ nhận ý chí vươn lên của những người từ tầng lớp cần lao.
2.3.2. Giải pháp 2: Các hình thức tạo biểu tượng nhân vật lịch sử
- Sử dụng tiểu sử của nhân vật [2]
Mỗi bài học lịch sử đều cần phải khắc họa cho học sinh những nhân vật lịch
sử cụ thể, kể cả nhân vật chính diện lẫn nhân vật phản diện, lịch sử là do con người
tạo ra. Vì vậy, khơng thể có được lịch sử mà thiếu yếu tố con người.



9

Đối với những bài mà kiến thức cơ bản gắn bó chặt chẽ với một nhân vật
lịch sử thì phải khắc họa cho học sinh những nét tiểu sử quan trọng của nhân vật
đó, giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung của bài.
Ví dụ khi dạy bài 19 “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm
lược (từ năm 1858 đến trước năm 1873)” [5] ở mục III giáo viên cần khắc họa
cho các em thấy được hình ảnh của một Bình Tây đại ngun sối (Trương Định)
thơng qua tiểu sử.
Sinh: 1820 Bình Sơn, Quảng Ngãi, Việt Nam.
Mất: 19 tháng 8, 1864 (43 - 44 tuổi) Biên Hòa, Việt Nam.
Tên khác: Trương Cơng Định.

Bình Tây Đại Ngun sối Trương Định [7]

Trương Định (1820 - 1864) sinh tại làng Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn
Tịnh, tỉnh Quãng Ngãi. Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam rồi ông cưới vợ ở
Gị Cơng. Năm 1850, ơng chiêu mộ dân nghèo, khai hoang, lập ấp ở vùng Gia Thuận.
Năm 1859, quân Pháp đánh thành Gia Định, ông đánh trả và từng thắng nhiều trận ở
Cây Mai, Thị Nghè. Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định
đem nghĩa quân tới giúp Nguyễn Tri Phương phòng giữ đại đồn Kì Hịa.
Tháng 6/1862, triều đình Huế thăng chức cho Trương Định lên làm lãnh
binh điều ông ra vùng Phú Yên nhưng Trương Định đã khẳng khái từ quan để ở lại
Gị Cơng mà đánh Pháp và ơng được nhân dân tơn là Bình Tây đại ngun sối.
Đây chính là mốc thời gian đã đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời của Trương
Định, từ nay ông sẽ gắn liền với danh xưng Bình Tây đại ngun sối, đồng thời sẽ
trở thành kẻ đối lập với triều đình và đem lại nỗi khiếp sợ cho quân Pháp tronh
những trận đánh bất ngờ với lối đánh du kích.
Tháng 12/1863, nhờ có viện binh, Pháp bao vây Gị Cơng nhưng Trương
Định vẫn ẩn nấp trong vùng Gị Cơng mà đánh trả. Ngày 19/8/1864, Huỳnh Công

Tấn phản bội, đã dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đại bản doanh ở Gị
Cơng. “Đám lá tối trời” thất thủ, Trương Định tự sát tại ao Dinh để bảo tồn khí
tiết vào sáng ngày 20/8/1864.


10

Với hành động rút gươm tự sát sẽ giúp cho các em có thái độ khâm phục và
ngưỡng mộ ơng. Thà ơng tự sát chứ quyết khơng để mình rơi vào tay giặc, hành
động này sẽ cho các em thấy được lòng căm thù giặc của những người yêu nước
lúc bấy giờ sâu sắc như thế nào. Ông là một trong số ít người đã dám kháng lệnh
của triều đình để ở lại cùng nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp. Việc tạo biểu
tượng này nhằm giúp cho các em hiểu thêm về một vị tướng đã chấp nhận từ chối
tất cả bổng lộc của vua ban, ở lại nhận chức “Bình Tây đại ngun sối” do nhân
dân sắc phong mà khí thế vẫn rất hiên ngang.
Hay khi dạy bài 23 “Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX
đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm (1914)”,[5] khi dạy phần 1 Phan Bội
Châu và xu hướng bạo động thì ta cần nói cho các em hiểu về Phan Bội Châu như:
Ông là một người tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Phan Bội Châu (1867 - 1940) tên thật là Phan Văn San, hiệu là Sào Nam, tự là Hải
Thụ, sinh ra ở làng Đan Nhiễm, xã Nam Hịa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Năm 17 tuổi ơng soạn Bình Tây Thu Bắc. Từ năm 1887 đến năm 1897 lo
đọc sách Tân Thư, tìm kiếm hướng đi mới. Ông đã tiếp nhận và đi theo con đường
cách mạng dân chủ tư sản.
Từ năm 1897 đến năm 1908 chủ trương xây dựng nền quân chủ lập hiến.
Viết tác phẩm “Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư” năm 1903, lập Duy Tân hội năm
1904. Tổ chức phong trào Đông Du. Từ năm 1909 đến năm 1912 hướng đến nền
dân chủ cộng hòa.
Từ năm 1913 đến năm 1925 khủng hoảng và tiếp tục tìm kiếm hướng đi
mới. Ơng bị bắt và ngồi tù ở Quảng Đơng từ năm1913 đến năm1917. Sau đó tìm

hiểu về cách mạng tháng 10 Nga.
Ngày 30/6/1925 ơng bị mật thám bắt tại Hàng Châu và dẫn giải về Hà Nội
xử án chung thân khổ sai. Nhưng trước sức ép của nhiều tầng lớp nhân dân Việt
Nam, bản án được đổi lại thành án quản thúc tại gia.
Từ năm 1926 ông bị đưa về sống ở Bến Ngự - Huế cho đến khi mất vào
ngày 29/12/1940.
Tuy nhiên, có trường hợp khơng cần thiết trình bày tồn bộ tiểu sử của nhân
vật mà chỉ cần nêu đặc trưng, tính cách của nhân vật đó.
Ví dụ như khi dạy bài 21 “Phong trào kháng chiến chống Phápcủa nhân
dân trong những năm cuối thế kỉ XIX” [5] khi dạy mục 1 phong trào Cần Vương
bùng nổ, chỉ cần nói sơ qua về vua Hàm Nghi là được. Ta chỉ cần nói tuy ông lên
làm vua khi tuổi còn nhỏ nhưng tinh thần chống giặc của ơng rất mạnh. Vì khơng
chịu sự khống chế của Pháp nên ơng đã ra ngồi thảo chiếu Cần Vương.


11
Phong trào Cần Vương: Một phần của Phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Thời gian: 1885 - 1896.
Địa điểm: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Kết quả: Phong trào thất bại.
Toàn văn Chiếu Cần Vương

- Sử dụng văn học, thơ ca [1]
Người xưa thường nói: “Văn, sử bất phân” là nhấn mạnh tới mối quan hệ
máu thịt giữa các lĩnh vực nhận thức này. Dẫu rằng đặc trưng của văn học là hư
cấu, nhưng vẫn có thể nhận ra sự thực lịch sử đằng sau những tác phẩm văn học.
Điều này địi hỏi người giáo viên ln biết tìm tịi, khám phá để có kiến thức
về xã hội, đặc biệt những bài văn thơ liên quan đến bài học lịch sử nói chung và
nhân vật lịch sử nói riêng. Hơn nữa giáo viên cũng cần biết sử dụng kiến thức đúng

lúc, đúng chỗ, biết vận dụng và kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tạo cho học sinh
có cái nhìn tổng qt nhiều chiều trên phương diện lịch sử. Một điều tôi nhận thấy
rằng: thường các nhân vật lịch sử lại chính là đề tài cảm hứng để các nhà văn, nhà
thơ sáng tác.
Ví dụ khi giảng về “Khởi nghĩa Hương Khê” [5] giáo viên sẽ dùng bài thơ
“Lâm chung thời tác” để khắc học cho các em thấy được tấm lòng của Phan Đình
Phùng dành cho dân, cho nước cùng với một quyết tâm chống giặc mạnh mẽ,
không ngại gian khổ, hi sinh.
Bài thơ được viết trong hoàn cảnh sau một thời gian chiến đấu với giặc Pháp,
do thiếu thốn về thuốc men nên bệnh của Phan Đình Phùng ngày càng trở nặng. Biết
mình khơng qua khỏi, ơng đã căn dặn gắng chờ đợi thời cơ mà đánh giặc. Sau đó ông
viết bài thơ “Lâm chung thời tác”, chừng ba khắc sau thì ơng mất.
LÂM CHUNG THỜI TÁC
Nhung trường phụng mệnh thập canh đông
Võ lượt do nhiên vị tấn công
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong
Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại.
Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung
Trách vọng dũ lang ưu dũ trọng


12

Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
Dịch nghĩa
THƠ LÀM PHÚT LÂM CHUNG
Mười năm vâng chiếu cầm quân
Quân cơ võ lượt đâu phần tấu cơng?
Dân như nhạn đói kêu sương

Qn thù như kiến như ơng tụ về.
Vua cịn lội suối trèo khe
Dân làng chốn chốn đầy khê lửa nồng.
Ngày đêm canh cánh bên lịng
Tướng mơn luống thẹn, anh hùng thuở xưa. [7]
Bài thơ “Lâm Chung Thời Tác”, đã cho thấy tấm lịng ln hướng về đất
nước của ơng, khơng bao giờ tắt. Dù đã gây cho địch nhiều tổn thất nhưng ông
không hề kiêu ngạo. Dù hơi sắp tàn nhưng lòng yêu nước thương dân vẫn không hề
suy giảm. Bài thơ tuy ngắn nhưng đã nói lên được tâm tư của một người có tấm
lịng u nước nhưng lại khơng đủ sức để bảo vệ yên bình cho đất nước, đem lại
cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Đọc bài thơ cho các em nghe để các em hiểu được người xưa khơng chỉ biết
đánh trận mà cịn có tâm hồn thơ ca rất phong phú, họ luôn mượn lời thơ, ý nhạc để
nói lên tâm sự của mình và Phan Đình Phùng cũng không ngoại lệ trước lúc nhắm
mắt ông cũng đã trút cạn bầu tâm sự của mình vào bài thơ “Lâm chung thời tác”.
Qua những bài thơ như vậy các em sẽ hiểu được rằng học sử và hiểu được
sử khơng q khó và cũng khơng phải nhớ theo kiểu học vẹt. Cần phải tự mình tìm
hiểu và trao dồi thêm rất nhiều, lịch sử khơng chỉ có những ngày, tháng, năm mà
cịn có sự bay bổng trong thơ. Khi hiểu được vấn đề này thì tự động các em sẽ u
thích lịch sử, muốn tìm hiểu những điều thú vị ẩn chứa trong những trang sử vốn
được các em cho là khơ khan, khó hiểu, khó học. Làm được như vậy thì mơn sử sẽ
khơng cịn là nổi ám ảnh đối với các em mà nó sẽ trở thành niềm đam mê, đam mê
khám phá và học những cái hay của nó.
Hay khi giảng về Phan Châu Trinh ở bài 23 mục 2 “Phong trào yêu nước
và cách mạng ơ Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1914)” [5] giáo viên có thể khắc họa cho các em thấy được ở Ơng ln có
hồn thơ dạt dào thơng qua đó giúp cho các em hiểu và cảm phục hơn đối với Phan
Châu Trinh, một con người có tư tưởng tiến bộ.



13

Khi bị giam ở nhà tù Côn Đảo Phan Châu Trinh đã gặp được một người bạn
là Huỳnh Thúc Kháng. Hai người rất thân với nhau xem nhau như huynh đệ.
Huỳnh Thúc Kháng rất mến mộ tài làm thơ của ơng, ngay cả khi bị xiềng xích thì
hồn thơ của ông vẫn dạt dào cảm xúc. Điển hình cho những bài thơ được ơng sáng
tác trên đảo có hai bài thơ được làm bằng chữ quốc ngữ. Đó là “Đập đá ở Côn
Lôn” và “Côn Lôn tức cảnh”.
Một hôm trong lúc trị chuyện ơng đã đọc cho Huỳnh Thúc Kháng nghe cả
hai bài thơ này. Nội dung của hai bài thơ đó như sau:
ĐẬP ĐÁ Ở CƠN LƠN
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời, khi lỡ bước
Gian nan chi việc con con.
CÔN LÔN TỨC CẢNH
Biển dâu biến đổi mấy thu đông
Cụm núi Côn Lôn vẫn đứng trông
Bốn mặt giày vị, oai sóng gió
Một mình che chở, tội non sông
Cỏ hoa đất nảy cây trăm thước
Rồng cá trời riêng biển một vùng
Nước biển non xanh thiêng chẳng nhẽ
Gian nan, xin độ khách anh hùng……[8]
Từ khi Phan Châu Trinh được đưa đến Côn Đảo đã làm cho tinh thần đấu
tranh của anh em ở đây dâng cao hơn. Không chỉ trong tù mà cả bên ngồi cũng có

rất nhiều cuộc biểu tình, bãi cơng, bãi thị… địi phải thả Phan Châu Trinh. Dù
không muốn nhưng dưới áp lực của quần chúng nhân dân thì bọn Pháp cũng phải
ra lệnh thả cụ Phan.


14

Thông qua những bài thơ giúp các em hiểu thêm về Phan Chu Trinh. Dựa
vào Pháp để cứu nước nhưng tấm lịng vì dân, vì nước của ơng thì khơng thể nào
phủ nhận được. Ở tù, nhưng tư tưởng của ơng thì vẫn thống chứ khơng hề bị nao
lịng hay gị bó gì về tư tưởng. Những bài thơ trên phần nào đó sẽ giúp cho các em
hình thành tinh thần yêu nước từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường.
Khi đọc các bài thơ trên ta sẽ giúp cho các em nhìn thấy được khí phách của
một nhà cải cách ra sao. Dù đã lâm vào cảnh tù tội nhưng ông vẫn hiên ngang
không hề khiếp sợ, hơn thế nữa đó là một tinh thần quả cảm, lạc quan, tràn đầy hi
vọng. Ta cũng nhấn mạnh cho các em thấy được sức ảnh hưởng của Phan Châu
Trinh đối với mọi người, ở tù thật nhưng mà họ vẫn nghe đến thơ và tư tưởng cải
cách của ông, tất cả mọi người đều rất khâm phục ông và thời gian ông ở Côn Đảo
đã càng tiếp thêm sức mạnh cho mọi người đấu tranh. Đọc những bài thơ đó ta
thấy được một tình u nước dạt dào của ơng. Dù trong thời gian ở tù nhưng ý chí
của ơng vẫn không bị lung lay.
- Sử dụng truyện kể [1]
Cùng với Nguyễn Tri Phương thì Hồng Diệu cũng là người đã quyết sống chết
với giặc để giữ thành Hà Nội. Hoàng Diệu vốn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm
chính trực, hết lịng vì dân, vì nước. Vì thế ơng rất được lòng của vua Tự Đức. Khi
được giao trọng trách giữ thành Hà Nội, Hoàng Diệu đã dồn hết tâm sức của mình để
chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu với giặc Pháp. Vì ơng biết rất rõ dã tâm của Pháp.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai đã gửi tối hậu cho Tổng
đốc Hoàng Diệu, địi nộp khí giới và giao thành khơng điều kiện. Để cho các em
thấy được Hoàng Diệu đã chiến đấu như thế nào để bảo vệ thành Hà Nội thì tơi sẽ

sử dụng một câu chuyện kể. Qua câu chuyện này sẽ giúp cho các em hình thành
được lịng yêu nước và biết ơn những người đã dùng chính máu của mình để viết
lên những trang sử vẻ vang cho dân tộc Việt Nam. Khi nghe xong câu chuyện này
thì khi nhắc đến thành Hà Nội các em sẽ nghĩ ngay đến Nguyễn Tri Phương và
Hoàng Diệu, hai người đã dùng hết tâm sức của mình để bảo vệ thành Hà Nội.
HOÀNG DIỆU TỬ TIẾT VỚI THÀNH HÀ NỘI [1]
Đỗ cử nhân 20 tuổi và phó bảng năm 25 tuổi, Hoàng Diệu chưa đầy 50 tuổi
đã lên đến Thượng thư bộ binh. Chính lúc ơng đang giữ chức vụ quan trọng này thì
được Tự Đức sai ra Bắc làm tổng đốc Hà Ninh để đối phó với thực dân Pháp.
Đường lối của Tự Đức là thỏa hiệp với Pháp, dựa vào lực lượng quân đội Pháp để
bảo đảm trật tự an ninh. Nhưng Hoàng Diệu trong thâm tâm của mình lại nghĩ rằng
đường lối ấy sẽ dẫn đến mất cả Bắc Kì lẫn Trung Kì. Cho nên khi ra Hà Nội, ơng
rất quan tâm đến cơng việc phịng thủ nhất là đối với nội thành Hà Nội.


15
Trận thành Hà Nội lần thứ hai: Một phần của Chiến
tranh Pháp - Đại Nam.
Thời gian: 25 tháng 4 năm 1882.
Địa điểm: Hà Nội, Đại Nam.
Kết quả: Pháp chiến thắng.

Quân Pháp đánh thành Hà Nội

Cơng cuộc phịng thủ đang tiến hành thì mờ sáng ngày 20/4/1882, Hồng
Diệu nhận được tối hậu thư của tên đại tá Hen-ri Ri-vi-e-rơ.
(Henri Riviere), được bọn thực dân Pháp ở Sài Gòn giao trách nhiệm chỉ
huy cuộc đánh chiếm thành Hà Nội lần này: “Tôi yêu cầu phải giao thành theo
những điều kiện dưới đây: Ngay ngày hôm nay tiếp được thư này ông phải ra lệnh
cho quân đội của ông rời khỏi thành sau khi đã hạ khí giới và mở cửa thành. Để

cho tơi tin rằng ơng thực hiện những điều đó, ơng phải nộp mình cho tơi và cả các
ơng tuần phủ, bố chánh, án sát, đề đốc, chánh, phó lãnh binh cũng đều phải nộp
mình ở dinh bản chức đúng 8 giờ sáng.”
Bức thư láo xược này làm cho Hoàng Diệu vơ cùng căm tức, nhưng ơng vẫn
bình tĩnh cho triệu tập ngay các quan văn võ lại để bàn việc giữ thành. Mọi người
có mặt đều thề thà chết, chứ nhất định không đầu hàng. Nhằm tranh thủ thêm thời
gian đẩy mạnh cơng cuộc chuẩn bị kháng chiến, Hồng Diệu lập tức cử Tôn Thất
Bá đi gặp Ri-vi-e đề nghị hỗn trả lời một hơm. Nhưng Tơn Thất Bá vừa ra khỏi
cửa thành thì giặc Pháp nổ súng ngay và bộ binh của chúng ở dưới sông Hồng nã
hàng loạt đại bác vào thành.
Ngay từ phát súng đầu tiên của giặc, Hoàng Diệu mặc dù đang ốm vẫn lập
tức cùng tuần phủ Hồng Hữu Xứng dẫn đầu tướng sĩ xơng lên mặt thành bố trí
chống giữ. Ơng ra lệnh đóng chặt cửa Đông và cửa Bắc, dồn quân vào cửa phía
Nam và cửa Tây và tuyên bố ai giết được giặc sẽ được thưởng vàng bạc, giết được
càng nhiều phần thưởng càng lớn.
Thừa thế bên trong thành đang rối ren, quân Pháp dồn lực lượng vào đánh
phá cửa thành phía Đơng và phía Tây bằng đạn đại bác và thuốc nổ. Phá được cửa
thành rồi, giặc ồ ạt kéo vào như nước chảy. Thấy thành lâm nguy, Bố chánh Phạm
Văn Tuyển, đề đốc Lê Văn Trinh bỏ chạy trước… thế là qn lính rối loạn và tan
rã…
Đau lịng nhìn thấy thảm cảnh ấy, Hoàng Diệu quay về dinh, mặc triều phục
chỉnh tề, đi vào hành cung bái vọng và khóc “sức thần đã hết”. Sau đó Hồng Diệu
đến Võ Miếu thắt cổ tự tử.


16

Qua câu chuyện kể trên giúp cho các em hiểu thêm về người anh hùng
Hồng Diệu. Ơng đã dùng cả cuộc đời của mình để phụng sự cho đất nước, khi mất
thành ơng đã tự vẫn để giữ tấm lịng trung của mình. Từ đó giúp các em học hỏi và

rèn luyện tinh thần yêu nước.
Hoàng Diệu nổi tiếng nhất là trận đánh giữ thành Hà Nội và đã tự vẫn theo
thành, người đời sau hay ví von ơng như sau “Thành cịn người cịn, thành mất
người mất” đó chính là nét đặc trưng và đáng trân trọng nhất đối với nhân vật anh
hùng Hồng Diệu. Chính vì lí do đó mà thay vì phân tích bức hình trong sách giáo
khoa thì tơi sẽ kể các em nghe câu chuyện này để các em thấy được ý chí quật
cường của ông cũng như là giáo dục cho các em tấm lịng u nước.
Hoặc khi giảng về phong trào Đơng du, để các em hiểu rõ hơn về thời gian
hoạt động của Phan Bội Châu khi ở Trung Quốc tôi sẽ kể một câu chuyện khi ông
bị bắt giam ở Quảng Châu trong lúc đang chuẩn bị cho nghĩa quân trở về nước.
ĐỒNG HƯƠNG [1]
Khi Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng đã chuẩn bị xong cho việc đưa nghĩa
quân về nước thì ở Quảng Châu lại có biến làm cho hai người rất lo lắng. Vì đây, là
nơi mà nghĩa qn tập trung đơng nhất. Cuối cùng thì lo lắng của họ cũng thành sự
thật, Long Tế Quang lên nắm quyền đã cho bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lão
Bạng. Dù ở trong tù nhưng khí phách của Phan Bội Châu hiên ngang điềm tĩnh mà
giải quyết tất cả các vấn đề.
Ý chí, khí phách của ơng được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại giữa ông với
viên thanh tra hình sự được Long Tế Quang cử đến hỏi cung. Hắn hỏi:
- Ông là người Việt Nam, sắm vũ khí ở đất Trung Hoa là có ý gì?
Phan Bội Châu nói:
- Tơi ở đất Trung Hoa đâu chỉ mới một vài ngày, đâu chỉ có một mình. Ai ở
Quảng Đơng mà chẳng biết rõ mục đích của chúng tơi. Chúng tơi sắm vũ khí là lo
phục quốc, đánh đuổi kẻ xâm lược ra khỏi nước chúng tơi. Có độc lập, tự chủ rồi,
chúng tơi sẽ đưa đất nước mình sánh vai cùng năm châu bốn biển.
Viên thanh tra trẻ mặt lạnh như tiền, khẽ hỏi:
- Ơng khơng sợ chết ư?
Phan Bội Châu cười vang trả lời:
- Đã làm cách mạng thì đâu có sợ chết! Tơi xin đọc một lời di mệnh của một
đồng chí của chúng tơi trước khi bị giặc Pháp bắn để ông nghe: “Yêu nước có tội

gì? Chỉ có tinh thần là chẳng chết! Đánh tây chưa được. Nguyện đem tâm sự gửi
đời sau...”


17

Sau khi hỏi cung được vài ngày thì Long Tế Quang đã cho thả họ ra. Có lẽ
chính những lời đanh thép với một lòng yêu nước, thương dân được Phan Bội
Châu nói một cách hung hồn, mạnh mẽ đã có tác dụng. Ngồi trong tù một thời gian
làm cho sức khỏe ông không được tốt lắm nhưng điều đầu tiên ông nghĩ đến không
phải nghĩ ngơi dưỡng sức mà là phải về xem xét tình hình của anh em ở hội.
Húy danh: Phan Văn San.
Hiệu: Hải Thụ / Sào Nam.
Bút danh: Thị Hán, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo
Sinh, Hiếu Hán.
Phu nhân: Thái Thị Huyên - Nguyễn Thị Em.
Hậu duệ: Phan Nghi Huynh (con bà Huyên); Phan Nghi
Đệ (con bà Em).
Thân phụ: Phan Văn Phổ.
Thân mẫu: Nguyễn Thị Nhàn.
Sinh: 26 tháng 12 năm 1867, làng Đan Nhiễm, xã Xuân
Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.

Phan Bội Châu

Mất: 29 tháng 10 năm 1940 (72 tuổi) Huế, Đại Nam.
Dân tộc: Kinh.
Triều đại: Nhà Nguyễn. [6]

Qua câu chuyện này giúp các em hiểu rỏ hơn về Phan Bội Châu. Dù phải

ngồi tù nhưng lịng ơng khơng hề khiếp sợ mà luôn tỏ ra tự tin trước mặt của kẻ
thù. Mặc dù ngồi tù nhưng lịng ơng vẫn hướng về việc cứu nước, cứu dân. Đó là
nỗi lo khơng lúc nào ngi trong lịng của Phan Bội Châu.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Nhược điểm: Trước khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm học sinh
chưa hăng say học tập, chất lượng giáo dục môn học còn thấp đặc biệt là các em
nhớ các nhân vật lịch sử cịn ít.
Tình trạng học sinh “học vẹt”, “học tủ” bằng những sự kiện lịch sử khô khan
cũng diễn ra rất phổ biến. Trong đó, việc học sinh nhận thức về các nhân vật lịch
sử tỏ ra rất mơ hồ. Ngay cả nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng vĩ đại như chủ tịch
Hồ Chí Minh một số học sinh vẫn cịn rất mơ hồ: có học sinh lớp 11 còn cho rằng
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. Hay Nguyễn Huệ Quang Trung là hai anh em ruột…
- Ưu điểm: Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến
kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đã đạt được kết quả khả quan trong năm học.


18

Trước hết bản thân đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp
với chương trình sách giáo khoa và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học
sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết,
đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và
phát triển kĩ năng. Khơng khí học tập sơi nổi, nhẹ nhàng và học sinh u thích môn
học hơn.
Chất lượng đại trà cũng như chất lượng mũi nhọn được nâng cao, ln bảo
đảm được tính ổn định và có chiều hướng phát triển.
Kết quả năm học 2019 - 2020 cụ thể như sau: `
Mơn


Lớp

TSHS

Lịch sử

11A

Lịch sử

11B

Giỏi

Khá

SL

TL

SL

38

2

5,3%

22


40

3

7,5%

24

TL

Trung bình
SL

57,8% 14
60%

13

Yếu

TL

SL

TL

36,9%

0


0

32,5%

0

0

Việc áp dụng chuyên đề này theo chúng tôi là rất phù hợp với đối tượng học
sinh ở độ tuổi THPT (BTTH) và trên địa bàn toàn huyện, điều này sẽ giúp các em
tiếp cận tốt nhất, hiệu quả nhất bài học lịch sử, các em sẽ nắm rõ nhân vật lịch sử
kích thích tối đa khả năng khám phá của các em và từ đó sẽ giúp các em hiểu rõ
tiến trình lịch sử của dân tộc và nhân loại.
Vì vậy việc khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử có vai trị to lớn trong dạy
học lịch sử là cịn đường ngắn nhất giúp học sinh khơng quay lưng lại với mơn học
có sứ mệnh cao q này. Đây chỉ là một khía cạnh trong tồn bộ nội dung bài
giảng lịch sử, góp phần kích thích tạo nên sự tích cực, chủ động sáng tạo trong
hoạt động dạy - học thơng qua đó hình thành cho các em thái độ, tư tưởng tình cảm
góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


19

3.1. Kết luận
Lịch sử vốn đã không được mềm mại, nên khi dạy người giáo viên cần chú ý
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong một tiết dạy để có thế thu hút sự chú ý
của học sinh hơn. Thay vì cứ thao thao nói rồi đọc nội dung cho các em chép vào thì
có thể đặt các câu hỏi phát vấn để có sự giao lưu, tương tác giữa thầy và trò trong

một tiết học. Giáo viên cần phải gợi mở vấn đề để các em tự tìm hiểu như vậy sẽ
nhớ lâu hơn, kích thích được sự hứng thú, say mê đối với môn Sử.
Hiện nay, khi học xong và khi được hỏi bất ngờ về một nhân vật nào đó thì
hầu như các em đều khơng nhớ được những nét đặc trưng, nổi bật của nhân vật. Là
do khi dạy người giáo viên không chú ý nhiều đến việc tìm cách giúp cho các em
khắc họa được hình ảnh của nhân vật đó. Vì thế mà người giáo viên cần phải quan
tâm nhiều hơn nữa về việc tìm kiếm, sưu tầm tài liệu có liên quan đến các nhân vật
mà mình sẽ giảng dạy để giúp cho các em dễ nhớ và nhớ lâu hơn.
Cùng với các phương pháp giảng dạy khác, phương pháp tạo biểu tượng là
một phương pháp cần thiết và quan trọng trong giảng dạy. Nó vừa minh họa cho
nội dung bài học, vừa tạo hứng thú cho học sinh, đồng thời giúp học sinh thực hiện
tốt các hoạt động trong học tập nhằm đạt được mục tiêu kiến thức, kỹ năng của
từng tiết học đặt ra.
Trong thực tế dạy học hiện nay các phương pháp giảng dạy cịn đơn điệu,
chưa có sự kết hợp hài hòa với nhau, khi giáo viên sử dụng phương pháp tạo biểu
tượng vào việc giảng dạy kết hợp các phương pháp khác như: vấn đáp, tường
thuật, miêu tả… thì đã mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy hiệu quả không
phải là 100% nhưng cũng đã một phần nào đó thực hiện được những yêu cầu cơ
bản của một tiết dạy.
Vì thời gian có hạn, tơi chỉ mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm của
mình trong việc tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử ở chương trình lịch sử lớp 11
góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Với sáng kiến kinh nghiệm này, tơi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc
giúp học sinh Trung tâm GDNN - GDTX huyện Thuờng Xuân nói riêng, các đồng
nghiệp và học sinh trường bạn nói chung thực hiện phương pháp này để phát huy
tính tích cực của học sinh đạt hiệu quả hơn.
3.2. Kiến nghị
Lịch sử Việt Nam rất phong phú, hấp dẫn và đáng tự hào, trong khi việc
tuyên truyền lịch sử dân tộc đến nhân dân với nhiều kênh khác nhau (như sách
truyện, báo viết, báo điện tử, đài truyền hình, phim ảnh, tham quan...) cịn hạn chế.

Khơng ít người Việt Nam hiểu lịch sử nước ngoài hơn lịch sử nước nhà. Yêu lịch


20

sử dân tộc không đồng nhất với việc học giỏi mơn Lịch sử. Cơ hội tìm việc làm
cho cử nhân ngành sử rất hiếm hoi, thu nhập và địa vị của giáo viên hay cán bộ
nghiên cứu khoa học lịch sử quá thấp so với xã hội,...
Từ sự phân tích nói trên, để học sinh u thích mơn Lịch sử, tôi mạnh dạn
đưa ra một số kiến nghị sau:
- Cần đặt mơn Lịch sử đúng với vị trí của nó trong xã hội, từ đó có chính
sách phù hợp đối với việc học môn này trong nhà trường và với việc sử dụng cán
bộ ngành khoa học Lịch sử. Ðây là biện pháp đầu tiên mang tính vĩ mơ, khuyến
khích việc học sinh u thích và theo học mơn Lịch sử.
- Về chương trình và thi cử, Bộ Giáo dục và Ðào tạo cần bố trí chương trình
hợp lý trong hệ thống các môn học. Ðặt môn Lịch sử là một trong những mơn cơ
bản như Tốn, Văn tăng tiết học hợp lý cho môn này.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tơi trong q trình giảng dạy môn
lịch sử. Hiểu biết và kinh nghiệm chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, rất
mong được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp.
Con đường phía trước cịn rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng tơi tin rằng
với sự tận tụy, lòng yêu nghề, mến trẻ, người giáo viên sẽ ln tìm tịi những điều
lí thú để đưa thế hệ trẻ trở về quá khứ một cách sống động và hướng đến tương lai
là những con người tồn diện.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thường Xn, ngày 14/05/2021
Tơi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình không sao chép nội

dung của người khác.

Người thực hiện

Cầm Thị Xuân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

Tác giả

Nhà xuất bản


21

1

Kể Chuyện Lịch Sử Nước
Nhà, thơ ca, văn học dành
Ngô Văn Phú
cho học sinh thời kì chống
thực dân Pháp.

Nhà xuất bản trẻ.

2


Một số chuyên đề phương
Phan Ngọc Liên
pháp dạy học lịch sử.

NXB Đại học quốc
gia Hà Nội

3

Một số vấn đề về Lịch sử.

4

Phương pháp dạy học lịch
Phan Ngọc Liên
sử.

5

Sách giáo khoa Lịch sử lớp Bộ giáo dục và đào
NXB giáo dục
11.
tạo

6

Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia.

NXB Đại học quốc

gia Hà Nội

7

2. Trung tâm Văn hố ngơn
ngữ Đơng Tây, Phan Đình
Đinh Xn Lâm
Phùng - Cuộc đời và sự
nghiệp.

NXB Nghệ An, Sở
Văn hoá - Thông tin
Hà Tĩnh, NXB Nghệ
An,

8

Tuyển tập Phan Châu Trinh.

NXB Đà Nẵng, 1995

Trường Đại học sư NXB Đại học quốc
phạm Hà Nội
gia Hà Nội

Nguyễn Văn Dương

NXB giáo dục



DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH, SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Cầm Thị Xuân.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trung Tâm GDNN - GDTX huyện
Thường Xuân.

TT

1

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
Kết quả
giá xếp
đánh
loại
giá xếp
(Ngành
loại
GD cấp
(A, B,
huyện/tỉnh;
hoặc C)
Tỉnh...)

Hướng dẫn học sinh khai thác Đồ
SỞ
dùng dạy học Lịch sử lớp 10,11 theo GD&ĐT

hướng tích cực ở Trung Tâm GDTX tỉnh Thanh
Thường xuân, Tỉnh Thanh Hóa
Hóa

C

Năm học
đánh giá
xếp loại

2013 - 2014



×