Tản mạn về ngôn ngữ di cư sang quốc gia khác, thời điểm khác
Nguyên Nguyên
Gần đây trên báo mạng talawas.org (ngày 12 tháng 6, 2003) Ts. Trịnh Nhật có viết
một bài khá dí dỏm, mang tựa “Tiếng Anh: Ngôn ngữ thứ ba tại Việt Nam”, cho biết,
qua một số thí dụ viện dẫn từ những quan sát “tại chỗ”, có một sự khác biệt giữa
tiếng Anh dùng tại Việt Nam và tiếng Anh dùng tại Úc, tại Mỹ.
Trước hết để hỗ trợ bài viết của anh Trịnh (từ đây xin gọi tắt bài TN), người viết xin
thuật lại một quan sát vào khoảng 1990, trong chuyến thăm viếng Việt Nam lần đầu
sau nhiều năm xa cách. Trong buổi đi dạo chơi khu nhà Bưu Chính của thành phố và
nhà thờ Ðức Bà, người viết chợt “phát hiện” một tấm lịch đẹp in bằng tiếng Anh.
Trong đó khó ai có thể không để ý đến những ngày nghỉ lễ, chẳng hạn như lễ Lao
Ðộng 1 tháng 5, lễ Sinh Nhật 25 tháng 12. Quyển lịch đẹp ghi những ngày nghỉ lễ là
Feast Day, thay vì Holiday. Thật quái dị. Nhưng chỉ cần thoáng suy nghĩ chừng vài
giây những người có chút vốn liếng tiếng Anh có thể hiểu ra ngay – nhà nước Việt
Nam lúc đó hãy còn dị ứng với những gì liên quan đến “thần thánh” nên phải thay từ
tiếng Anh mang nghĩa “thánh thần” HOLY trong Holiday bằng từ Feast. Feast mang
nghĩa cơ bản là Yến Tiệc, Tiệc Tùng. Feast Day thay thế Holiday hoàn toàn không ổn
- bởi Holiday tuy nghĩa nguyên thủy là một ngày lễ tưởng niệm Thánh, nhưng trong
vài thế kỷ qua nó mang nghĩa phổ quát: ngày nghỉ, ngày lễ. Trong tiếng Anh Feast
Day dùng thay cho Holiday thật tình không giống ai hết.. Nhưng dùng riết chắc cũng
quen. Ðến ngày nay, người viết không có dịp xem lại lịch bằng tiếng Anh in tại Việt
Nam, nhưng có thể đoán chắc rằng Holiday đã tái xuất giang hồ với việc quốc tế hoá
ngành thương mại mậu dịch Việt Nam, trong vòng mười ba năm qua.
1. Ngôn ngữ thứ ba, ở đâu cũng có, thời nào cũng có
Bài TN rất vui và ý nhị trong việc đề cập đến vấn đề Anh ngữ di cư sang Việt Nam đã
có những biến dạng hơi lạ. Thế nhưng, điểm mấu chốt góp ý cho bài TN, và cũng
động cơ thúc đẩy nên câu chuyện tản mạn này, là: Hiện tượng đó không có gì lạ hết.
Nó có từ lúc con người có tiếng nói, có chữ viết. Nó có từ thời tiền sử. Nó thể hiện rất
đậm nét tại nước Nam Việt từ khi nước này bị nhà Hán xâm chiếm, phản ảnh qua sự
khác biệt, giữa tiếng Hán Việt và Hán ngữ, như sẽ trình bày sơ lược ở phía sau. Nó
hiện diện ngay tại những quốc gia nguyên thủy có cùng chung thứ tiếng, như tiếng
Mỹ khác với tiếng Anh. Tiếng Úc khác với tiếng Anh và cũng khác với tiếng Anh
dùng tại Tân Tây Lan. Anh ngữ tại các hải đảo ở Thái Bình Dương, thuộc địa cũ của
Anh quốc - thường được gọi Pidgin English - cũng khác xa với Anh ngữ dùng tại
Anh quốc. Cả lối dùng từ, phát âm và đôi khi văn phạm, cú pháp. Tiếng Pháp dùng ở
Paris khác với tiếng Tây ở Québec, tiếng Tây tại Nouvelle Calédonie, v.v. Tiếng Anh
tại Hongkong khác với tiếng Anh ở Ấn Ðộ, ở Singapore, ở Nhật, v.v.
Ngay cả chữ cái, cách viết cũng dễ thay đổi khi di cư từ nước này sang nước kia, hoặc
ở thời đại này hay thời điểm nọ. Chữ cái - gọi nôm na A, B, C… - đầu tiên được
người Phoenicians (tiền thân người Li-Băng ngày nay) phát minh từ thời cổ đại.
Người Hy Lạp tiếp theo đó biến đổi thành mẫu tự Hy Lạp bao gồm: alpha, beta,
gamma, … omega. Rồi đến người Etruscans (sắc dân từng định cư tại Rome trước
người Romans), và sau cùng người Romans (La Mã) “chuyển ngữ” thành chữ cái
Latinh. Người Hy Lạp cũng biến đổi lối viết từ phải sang trái của lớp người
Phoenicians đến cách từ trái qua mặt. Chữ Hán cũng vậy, sau hàng chục thế kỷ viết từ
trên xuống dưới, phải sang trái, ngày nay ở Trung Hoa lục địa người ta viết thành
hàng ngang, trái sang mặt như Tây phương.
Rồi cả ông Trời hay Thần thánh cũng biến đổi khi di cư sang một dân tộc khác: Khi
Rome đã trở nên hùng cường - họ tôn thờ ông Trời của họ là Thần Jupiter, có rất
nhiều đặc điểm giống y như Thần Zeus của Hy Lạp, và thánh Minerva - biến chuyển
từ Athena của người Hy Lạp.
Biến dạng ngôn ngữ còn có thể xảy ra tại chỗ, ngay trong một thành phố! Anh ngữ
vẫn thường biến dạng khi di cư đến một cộng đồng sắc tộc. Người di dân tại Úc, như
cộng đồng người Việt ở Sydney chẳng hạn, cũng dần dà biến đổi Anh ngữ tại chỗ,
trong lúc họ hội nhập với cộng đồng chính của người Úc bản xứ. Rất dễ phát hiện
những điểm khác biệt do ở việc “di cư tiếng Anh tại chỗ”. Khác biệt giữa tiếng Anh
“giữa giòng” đến tiếng Anh dùng trong những cộng đồng di dân. Xin đơn cử một thí
dụ điển hình chứng minh khi ngôn ngữ di cư vào một cộng đồng khác nó phải biến
đổi. Ðó là lối phiên dịch “Nữ Bác Sĩ”. Hôm nào, những ai sống tại thành phố Sydney
có dịp lái xe dạo một vòng thành phố – chú tâm đến các tấm bảng đề “phòng mạch
Nữ Bác Sĩ”. Ở Bankstown hoặc ở Cabramatta nơi cộng đồng Việt tập trung tại
Sydney. Các nữ Bác Sĩ ở đó tự xưng mình là gì? Lady Doctor. Ở khu Lakemba nơi
tập trung cộng đồng Lebanese, cũng vậy, cũng “Lady Doctor”. Nhưng nếu để ý
những khu đa số dân Úc đặc biệt các “nữ bác sĩ” người Úc chính cống, ta sẽ thấy họ
đề trên bảng tại cửa phòng mạch là FEMALE DOCTOR. Rõ ràng, có một sự khác
biệt giữa cách tự xưng hô của người nữ bác sĩ di dân với các bác sĩ phái nữ chính gốc
Úc. Theo thiển ý, hội nhập chữ nghĩa rất dễ, nhưng hội nhập văn hoá thật ra một
chuyện khó khăn nhất trong con người. Ai cũng vậy. Người Úc da trắng chính gốc
nếu có đi sinh sống và làm việc ở Á Châu, dù cho nhiều năm và học được ngôn ngữ
địa phương, cũng gặp những lổng chổng tương tự.
Văn hoá chứa ngôn ngữ. Và ngôn ngữ là cốt lõi của văn hoá. Những người nữ bác sĩ
di dân đó tất nhiên nói tiếng Anh rất trôi chảy, vì ít lắm họ cũng sống tại nước Úc
hoặc một quốc gia nào đó xử dụng Anh ngữ cũng đã trên dưới 10 năm. Nhưng thu
nhập truyền thống văn hoá hay muốn hiểu những cái sâu sắc của một văn hoá khác,
người di dân cần đến một thời gian dài hơn, hoặc rất nhiều dịp tiếp cận với người dân
bản địa - nhất là trong đời sống hàng ngày. Trong lối xử dụng hàng ngày, ta thường
nghe “Ladies first”, khi xếp ghế ngồi trong tiệm ăn. Khi xếp hàng mua vé xem xinê,
xem ca kịch - kể cả những lúc phải xếp hàng cả ngày, nếu hai người một nam một nữ
vào xếp hàng cùng một lúc - rất thông thường người nam sẽ nhường cho người nữ
đứng phía trước, Ladies First. Trong một buổi họp của một nghiệp đoàn anh chị em
bán hột vịt lộn, bà chủ tịch khi khai mạc phiên họp hoặc mở đầu diễn văn bằng câu:
Ladies and Gentlemen. Ladies trong lối dùng hàng ngày, chỉ mang nghĩa quý Bà, hay
quý Cô. Nhưng Lady dùng trước một tên hoặc một chức tước lại mang một ý niệm
hoàn toàn khác hẳn. Nhất là dùng trong chốn công cộng. Trong Anh ngữ, nó đặc biệt
chỉ dùng để xưng gọi những người phụ nữ có chức, hay thuộc giai cấp quý tộc. Thông
thường nhất, đó là những mệnh phụ phu nhân của các ngài có tước SIR, trong xã hội
Anh quốc. Thí dụ ca sĩ lừng danh Anh quốc Sir Cliff Richard - nếu Sir Cliff lập gia
đình với một người mang tên Olivia (thí dụ vậy thôi) - người ta sẽ gọi bà đó Lady
Olivia Richard. Ở một góc cạnh nào đó, ta có thể thấy việc xử dụng LADY để chỉ một
người chuyên viên thuộc nữ phái có vẻ không phù hợp với giá trị cốt lõi của văn hoá
và xã hội Úc. Bởi lý do giản đơn, người Úc rất tự hào xã hội họ - dù trong một ý
nghĩa chừng mực tương đối – là một xã hội đồng đẳng, không có giai cấp quý tộc.
Không còn phong chức Sir nữa, và cũng không có thêm Lady, dính liền với ý niệm
chức tước nữa.
Trong những năm cuối thập niên 70, người viết có nhiều dịp “tiếp cận” văn hoá Nhật.
Bắt đầu bằng việc mê xem phim Nhật chiếu “chùa” tại trung tâm văn hoá Nhật ở dưới
phố. Cũng theo học vài khoá tiếng Nhật cho vui. Rồi cũng lượm mấy tờ tạp chí hình
ảnh đẹp đẽ tuyên truyền nước Nhật và văn hoá Nhật. Các tạp chí đó viết bằng tiếng
Anh. Cũng có lần mượn được một quyển luận án của nữ giáo sư xã hội học Chie
Nakane, dịch ra Anh ngữ. Ðọc tiếng Anh do người Nhật viết, và in ấn tại Nhật. Có vẻ
rất dễ đọc, bởi nó ít dùng những từ khó và lạ. Nhưng hoàn toàn khác hẳn Anh ngữ của
các sách báo tại Úc do người Úc viết [1]. Các tờ báo bằng Anh ngữ tại Hongkong, tại
Thailand, tại Singapore, tại Nhật, tại Việt Nam, . . . tất cả cùng viết bằng Anh ngữ -
nhưng đều khác với thứ Anh ngữ dùng tại Sydney. Hôm nọ, nhân viết bài này người
viết muốn tìm một tờ báo tiếng Anh từ Nhật tại thư viện dưới phố. Nhưng bây giờ là
thời đại của Trung quốc, của Taiwan, nên chỉ mượn được tờ Beijing Review và tờ
Taiwan Review. Xin thử ghi lại những lối dùng chữ hơi lạ đối với kiểu người Úc.
Trong tờ Beijing Review số May 15, 2003, trang 4: An aviation factory in Shanghai
will begin production of the country’s first domestically designed regional jet this
year, . . . (Những từ in nghiêng là những từ hơi lạ đối với người Úc – nhưng ai đọc
cũng hiểu được)
- Trang 24: Tựa Dampening the US Economic Recovery. Phiá dưới một hình màu
chụp một cô bán rượu có ghi: …. The Iraq war has dampened British consumer
confidence, resulting in decline in spending.
- Trang 15, trong bài viết về Trà của một ký giả khác: Although coffêe, Coca Cola
and other soft drinks have dampened the traditional tea market, tea is still loved
by a great number of people. (Có lẽ mấy Thầy dạy tiếng Anh đầu tiên của người
Tàu ở Beijing rất khoái động từ “to DAMPEN”, mang nghĩa nôm na là “làm suy
giảm” hay chăng mà hai ba ký giả khác nhau đều ưa dùng “dampen”?)
Trong tờ Taiwan Review số March 2003, trang 9: Imported cars may now be more
accessible and less expensive, but the production of locally made cars increased in
2002, and Taiwan’s carmakers grabbed a record 87 percent of the market. (Ðể ý, báo
chí Úc ít khi dùng car-makers - họ có vẻ ưa dùng car manufacturers hơn. Họ cũng ít
khi dùng “grabbed” – nhưng thường dùng “recorded” hay “registered” hoặc
“achieved”, . . .)
- Trang 42: The national arts center grew from a smaller project that was given
similar goals when the Cabinet-level Council for Cultural Affairs (CCA) in 1989
proposed constructing the Northeastern Folk Art Park in Ilan.
(Hành văn câu này hơi nặng nề mặc dù vẫn có thể đúng cú pháp).
Ai cũng phải chấp nhận một điểm rất cơ bản: Khi ngôn ngữ du nhập vào một cộng
đồng khác, nó phải biến đổi. Từ Anh quốc sang Tân Tây Lan, sang Úc, sang Ấn Ðộ,
đến Singapore, đến Hongkong, sang Mỹ, sang vân vân - tiếng Anh đều bị biến đổi.
Bài TN vẫn có thể viết cho mọi xứ, mọi thứ ngôn ngữ. Xin đơn cử một vài thí dụ về
tiếng Anh trong đời sống hằng ngày.
Ở Anh quốc, ở Úc và ở Tân Tây Lan, v.v. khi người ta nói muốn mua thức ăn mang
đi, như vào tiệm Burger King đặt mua một cái bánh thịt nướng hamburger Whopper
và khoai tây lát rán, một ly Coca Cola, người ta nói TAKE AWAY. Nhưng ở Mỹ phải
nói TO GO. Thức ăn mang đi: Food To Go ở Mỹ và Food To Take Away tại Úc, tại
Anh. Bởi Take Away theo văn hoá Mỹ có thể mang nghĩa “Cướp Giật”, “giật đi”!
Khoai tây lát chiên ở McDonalds hoặc Burger King gọi French Fries, nhưng ở các
tiệm bán Cá hoặc đồ biển theo truyền thống người Ăng Lê lại được gọi theo kiểu
nguyên thủy: Chips hay potato chips. Tiệm bán cá lăn bột chiên với khoai tây được
gọi FISH & CHIPS.
Ở Tân Tây Lan, khi nói “Chị đã đọc quyển sách mới của J.K. Rowling mang TỰA
Harry Potter – Rise of the Phoenix chưa” - ở Tân Tây Lan người ta phát biểu “mang
tựa” bằng “Entitled”. Nhưng ở Úc họ gọi “Titled”. Sao kỳ lạ vậy? Có lẽ xã hội Úc ưa
kiện tụng hơn xã hội Tân Tây Lan hay sao, bởi “entitle” mang một nghĩa thiên về
ngành luật như “được đặc ân”, “được đặc quyền”, “được hưởng” - thường đi với danh
từ là “entitlement”. Do đó ở Úc người ta tránh dùng “entitled” với nghĩa “mang tựa”,
“quyển sách mang tựa”, và chỉ dùng “titled”.
Cũng ở Tân Tây lan và ở Anh quốc khi dùng một danh từ như một hình dung từ,
người ta rất ít khi dùng số nhiều. Thí dụ: Department of Energy Resource Engineering
tại đại học Auckland - với từ Resource không dùng S. Nhưng ở Úc – Anh ngữ đã biến
đổi vài mươi năm nay. Người Úc ưa giữ số nhiều cho hình dung từ: Energy
ResourceS Engineering / International Brands Fund. (một loại quỹ đầu tư quốc tế) /
Business NameS Act 1962 (đạo luật về tên cơ sở thương mại), v.v.
Ở Anh quốc, Úc, Tân Tây Lan, và Hongkong, người ta thường gọi luật sư
SOLICITOR (hoặc lawyer hoặc attorney-at-law hay attorney cho gọn), trạng sư là
Barrister. Nhưng ở Mỹ - không ai đi gọi Luật Sư Solicitor hết – mà gọi ATTORNEY.
Bởi ở xã hội Mỹ Solicitor có thể mang nghĩa một người kỹ nữ, bán phấn buôn hương
- xuất xứ từ động từ “to solicit” tức “mời mọc”! Trong khoảng đầu tháng 7 năm 2003
tại bang Victoria (Melbourne) giới luật pháp bắt đầu thấy chuyện gọi luật sư Solicitor
có vấn đề, nên sắp sửa ra luật bỏ đi truyền thống gọi Solicitor và thay thế bằng
lawyer. Báo chí tại Sydney đăng tin này kèm theo một hí hoạ nhỏ đại khái vẽ văn
phòng luật sư là một động điếm (solicitors) và phòng cố vấn của các luật sư chuyên về
tranh cãi - tức Trạng Sư “Barrister” như một tiệm bán càphê espresso. Bởi barrister,
mang nghĩa Trạng Sư, có lối phát âm gần giống như BARISTA một từ của tiếng Ý
mang nghĩa “thợ chuyên pha càphê”!
Ngay ở Úc, cũng còn có chuyện Bang này dùng từ này và Bang kia dùng từ khác. Thí
dụ những chuyên gia phụ trách sang nhượng nhà cửa đất đai, giống giống như luật sư,
nhưng chỉ chuyên lo việc giấy tờ cho buôn bán địa ốc mà thôi. Ở Bang New South
Wales ta gọi đó là Conveyancers. Nhưng ở Bang Western Australia (Tây Úc), ta gọi
đó Settlement Agents.
Người xử dụng tiếng Anh tại Việt nam chẳng hạn, rất khó lòng viết và nói tiếng Anh
y như một người sinh và lớn lên tại một xứ có tiếng Anh ngôn ngữ chính. Lý do chính
vẫn là lý do văn hoá. Bởi ngôn ngữ và văn hoá là hai thứ luôn luôn phải sống chung
với nhau. Sống chung nhau hàng ngày và hàng giờ, hàng phút, hàng giây. Nói nôm na
dễ hiểu, người xử dụng tiếng Anh tại một nước Á Châu không bao giờ có thể luôn
luôn viết ra thứ tiếng Anh dùng tại Úc y như người Úc được bởi thức ăn của họ không
phải là đồ ăn Úc, những cảm xúc của họ là những xúc cảm Á Châu, và đặc biệt giấc
chiêm bao của họ vẫn là một giấc mộng mang tính Á Châu 100%.
Xin đưa ra thêm một vài thí dụ. Khi con em học sinh tại Úc phải ở lại trường làm bài
và sẽ về nhà trễ. Con em thường điện thoại về nhà nói với phụ huynh rằng “I have to
WORK late tonight – please save dinner for me, Mum”. Nội câu chuyện rất nhỏ này
ta thấy đến 3-4 điểm ngôn ngữ “bất đồng” qua văn hoá. Trước hết, bây giờ là thời đại
của điện thoại cầm tay. Ở Úc gọi Mobile phone, ở Mỹ Cellular phone hay Cell phone,
ở Việt Nam khi thì Mobile phone, khi thì Cell phone, khi Portable phone. Tiếng Việt
khi nói Cha Mẹ hay Anh Chị của học sinh ta nói: Phụ Huynh mang chính nghĩa Cha
và Anh [2]. Tiếng Anh tương đương: Parents, mang nghĩa chính Cha Mẹ. Thế nhưng
nghĩa rộng ai cũng hiểu, lại cũng giống như Phụ Huynh - nhất là khi không có Cha
Mẹ - parents có thể bao hàm Anh và Chị của học sinh. Ðộc sáng và khác biệt với văn
hoá Á Ðông là động từ To WORK. Người học Anh ngữ tại Việt Nam bởi không sống
trong môi trường văn hoá Anh ngữ rất khó có thể thấu triệt được việc dùng động từ to
work để chỉ to study hay to do assignment. Bởi họ học qua các Thầy Cô (ngay cả các
thầy cô người nước ngoài), to work= làm việc, công tác, và to study, to learn= Học,
học hỏi [3]. Trong tiếng Anh, WORK mang ý nghĩa … thiên hình vạn trạng! Làm
việc, học bài, làm bài, học ôn bài (“You work too hard”: Anh học chăm quá!), hoặc…
công trình nghiên cứu (Quý has done some work on Kiều: Ông Quý có nghiên cứu về
truyện Kiều), một tác phẩm nghệ thuật, sức lao động, sửa chữa một cái gì (cái nhà
chẳng hạn: Since we bought the house we have done a lot of work on it= Từ khi mua
nhà chúng tôi đã sửa chữa nó rất nhiều), v.v. tất cả đều có thể dùng WORK.
Vấn đề khác biệt văn hoá thường xuyên xảy ra hai chiều. Chiều thuận, tức văn hoá
nguyên thủy của tiếng Anh khác với văn hoá của quốc gia tiếng Anh đã di cư sang.
Chiều ngược, bởi văn hoá nước vay mượn tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, thứ ba
không giống với văn hoá của tiếng Anh – nên tiếng Anh phải biến đổi. Thử khảo sát
từng chiều một.
2. Văn hoá và xã hội tại nước dùng tiếng Anh ngôn ngữ chính
Trước hết văn hoá và xã hội nước dùng tiếng Anh khác biệt với quốc gia muốn dùng
tiếng Anh, bởi tiếng Anh đã trở thành một sinh ngữ quốc tế và toàn cầu. Tất nhiên
khác biệt văn hoá và xã hội rất to tát. Thêm vào đó những “cơ viện” dựa trên ngôn
ngữ vẫn thường xuyên biến đổi. Biến đổi với thời gian. Khi chú trọng đến biến
chuyển tại xã hội dùng tiếng Anh sinh ngữ chính, ta có thể thấy một vài vấn đề nổi bật
như sau.
Trước hết việc du nhập các từ, các thành ngữ, lối hành văn và ngay cả cú pháp, nhất là
những từ thường dùng luôn tùy thuộc vào thời điểm tiếng Anh được di cư vào quốc
gia khác. Thí dụ: những người đồng tính luyến ái. Có lẽ ý niệm “thuần Nôm” có trước
tiên. Ngày xưa người ta thường gọi: “lại cái”. Tất nhiên không chút gì thanh tao, có vẻ
miệt thị là đằng khác. Thế rồi, qua ảnh hưởng văn minh Hán tộc, người Việt du nhập
cụm từ Hán Việt “đồng tính luyến ái” để mô tả hiện tượng người nam, hoặc người nữ,
luyến ái với người cùng phái tính. Có vẻ thanh cảnh hiểu biết hơn. Xong rồi người
Pháp sang đô hộ nước Ðại-Nam - họ mang sang từ “pédéraste” và hội nhập sang tiếng
Việt bằng viết tắt Pédé, thành ra PêÐê. PêÐê dính chặt với tiếng Việt nên sau này
những từ Anh ngữ như Queer hay Poofter, hoặc chính danh Homosexual, khó lòng
thay thế được PêÐê. Ở các nước tiền tiến Tây Phương, ngôn ngữ ưa dính liền với tiến