Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Một số biện pháp nâng cao kỹ năng tự học cho học sinh trong chương trình môn giáo dục công dân cấp trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 46 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH TRONG CHƯƠNG TRÌNH MƠN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT CỜ ĐỎ
____________________________________________________

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH TRONG CHƯƠNG TRÌNH MƠN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN

Họ và tên:
Tổ:
Năm thực hiện:
Số điện thoại:

Trần Thị Oanh
Xã hội
2020 - 2021


0963.768.881

Nghĩa Đàn, tháng 3 năm 2021
MỤC LỤC



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

1

GDCD

Giáo dục công dân

2

GV

Giáo viên

3

HS


Học sinh

4

PPDH

Phương pháp dạy học

5

THPT

Trung học phổ thông



PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc học sinh học cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì
qua việc học. Để làm được điều đó nhất định phải thực hiện thành công việc
chuyển từ phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức sang dạy cách học,
cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất.
Hiện nay trong các trường đã và đang vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, đó là
cách dạy hướng vào người học hay còn gọi là lấy người học làm trung tâm. Người
giáo viên (GV) là người hướng dẫn chỉ đạo trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức của
học sinh (HS), với các mơn học nói chung và mơn GDCD nói riêng. Để vận dụng
tốt được cách dạy học mới này đòi hỏi người GV phải tâm huyết với nghề. Thực tế
giảng dạy cho thấy dù giáo viên có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ

nghiệp vụ vững vàng đến mấy, nếu HS khơng chịu khó học tập, đào sâu nghiên cứu,
mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì chất lượng học tập cũng
không thể cao.
Trong điều kiện học tập ở nhà trường như nhau nhưng kết quả học tập của HS
khác nhau rõ rệt, điều đó phần lớn là do khả năng tự học của mỗi HS. Vì vậy, cách
thức rèn luyện kỹ năng tự học cho HS được đề cập trong bài này sẽ góp phần vào
việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) và nâng cao chất lượng đào tạo. Bản
thân mỗi cá nhân đều tiềm ẩn một khả năng tự học, khả năng đó được tăng cường
hay không là nhờ vào cách thức học tập của học sinh. Lối học nhồi nhét sẽ làm
người học thui chột khả năng tự học; trái lại, lối học tự tìm tịi, nghiên cứu, chú
trọng sự phát triển óc tư duy, vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống...sẽ
tăng cường khả năng tự học. Như vậy, cách học có tác dụng rõ ràng đến việc phát
triển năng lực tự học. Việc tự học với mức độ, đặc điểm hành động của học sinh
quyết định đến hiệu quả học tập. Hiệu quả của các hành động học tập tự học cao hay
thấp tùy thuộc vào kỹ năng thực hiện các hành động đó. Vì vậy việc hình thành kỹ
năng tự học trong học tập có vai trị rất quan trọng trong quá trình tiếp thu kiến thức
của học sinh. Đó cũng chính là lí do tơi viết đề tài “Một số biện pháp nâng cao
kỹ năng tự học cho học sinh trong chương trình mơn Giáo dục cơng dân cấp
trung học phổ thông”. Hy vọng qua đề tài này tơi nhận được nhiều ý kiến đóng
góp của các đồng nghiệp để đề tài được sự dụng rộng rãi với các giáo viên môn
GDCD ở các trường THPT.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài nhằm mục đích cung cấp một số cơ sở lí luận về đổi mới phương pháp
dạy học, kĩ thuật dạy học cho học sinh nghiên cứu nội dung tự học trong môn Giáo
1


dục công dân (GDCD). Đồng thời cung cấp một số giải pháp của bản thân tôi trong
việc hướng dẫn học sinh nâng cao kỹ năng tự học môn GDCD một cách có hiệu quả
trong q trình tiếp thu kiến thức.

3. Tính mới và kết quả đạt được của đề tài
Đây là đề tài lần đầu tiên được áp dụng thực hiện tại Trường THPT Cờ Đỏ.
Đề tài đã khai thác, trang bị, mang tính hệ thống trong việc tổ chức hướng dẫn học
sinh nội dung tự học ở các tiết học môn GDCD. Đồng thời giúp học sinh nâng cao
kỹ năng tự học mơn GDCD để học sinh có thể lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến
thức vào thực tế cuộc sống một cách có hiệu quả. Tên đề tài có thể là khơng mới
hoặc đã có những tác giả khai thác nhưng tôi xin khẳng định những vấn đề tơi nêu ra
ở đây hồn tồn là những kinh nghiệm, những tâm huyết mà bản thân tôi đã đúc kết
lại trong quá trình giảng dạy của mình và đã được kiểm định qua thực tế. Đề tài đã
góp phần nâng cao tính hứng thú, hấp dẫn và hiệu quả cho các giờ học. Đồng thời
phát huy tối đa khả năng chủ động, sáng tạo tiếp thu kiến thức của học sinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu ở bộ môn Giáo dục công dân cấp trung học phổ thông
- Thực nghiệm tại trường THPT Cờ Đỏ - Huyện Nghĩa Đàn;
- Thời gian thực hiện: Từ năm học 2019 - 2020 đến năm học 2020 - 2021.

2


PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới PPDH và đổi mới
đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay
đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Về phương pháp dạy học, tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa

dạng, chú ý các hoạt động tự học, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Bởi vậy một
giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp
tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác
động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Về
bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân)
với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); Chú trọng kết hợp học
với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỹ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống;
Phát huy thế mạnh của các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại; Các phương
tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin…; Chú trọng cả
hoạt động đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh. Mặt khác đổi mới
phương pháp dạy học còn được cụ thể hóa trong các văn bản chỉ đạo về việc thực
hiện nhiệm vụ năm học hàng năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ năm học của Sở Giáo dục và Đào tạo; Kế hoạch năm học của nhà
trường, kế hoạch tổ, nhóm chuyên mơn và kế hoạch giáo dục của mỗi giáo viên.
Chính vì lẽ đó trong những năm gần đây, nhiều giáo viên đã có sáng kiến
trong việc áp dụng kỹ thuật dạy học, đổi mới phương pháp dạy học đã góp phần
tăng hiệu quả giờ dạy.
1.2. Quan niệm về tự học và sự cần thiết phải nâng cao năng lực tự học của học sinh
Có thể nói rằng tự học giữ một vị trí quan trọng trong phương pháp dạy học ở
trường học. Tự học giúp cho học sinh nắm vững kiến thức nói chung và phát huy
được tính tích cực của học sinh nói riêng.
Quan niệm về “Tự học” có rất nhiều quan niệm khác nhau, sau đây là một số
định nghĩa cơ bản về ‘Tự học’:
Nhà tâm lý học N.Arubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức - có nghĩa là tự học
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: Tự học là tự mình suy nghĩ, sự dụng các năng
lực trí tuệ, phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định.
3



Theo Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất của
mình, rồi cả động cơ, tình cảm cá nhân sinh quan, thế giới quan… để chiếm lĩnh
một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình.
Theo GS.TSKH Thái Duy Tuyên: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí
tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm
để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử,
xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả
Nguyễn Kỳ cho rằng: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri
thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình
vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn
đề, thử nghiệm các giải pháp… Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Cịn
GS Trần Phương cho rằng: “Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là
biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của
mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri
thức ấy”.
Theo Từ điển Giáo dục học “Tự học là quá trình tự mình lĩnh hội tri thức
khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành khơng có sự hướng dẫn của giáo viên và
sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục đào tạo”.
Tác giả Nguyễn Kỳ cũng bàn về khái niệm tự học: Tự học là hoạt động trong
đó người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành
động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là người học tự đặt mình vào tình huống
học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm
các giải pháp.
Từ những quan niệm về tự học nêu trên tơi có cách hiểu về tự học như sau:
Tự học là q trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức ở
một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt
được mục đích nhất định. Như vậy cho dù tiếp cận dưới cách thức nào thì cũng có

thể hiểu rằng tự học là quá trình bản thân người học tích cực, độc lập, tự giác chiếm
lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng động tìm tịi, phân tích sách vở, tài liệu tham
khảo bằng những phương pháp phù hợp trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên. Như
vậy, vấn đề tự học cần có sự đổi mới về bản chất, khơng cịn là một hoạt động tự
phát hay ép buộc mà phải là một hoạt động tự giác và chịu sự điều khiển của giáo
viên trong nội dung học tập. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý giáo dục, biểu hiện
của ý thức tự học rất đa dạng: Một học sinh có ý thức tự học tốt phải là người biết
cách sắp xếp thời gian học tập: Học tập trên lớp, nghiên cứu tài liệu mọi nơi mọi lúc
ngay cả trong vui chơi giải trí hoặc học qua mạng Internet. Trên lớp một người có ý
thức tự học tốt chính là người tập trung nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng
bài, nêu câu hỏi đối với giáo viên. Người có ý thức tự học tốt cịn là người ln tìm
4


thấy những điều đáng học hỏi trong cuộc sống xung quanh, ngay từ những điều nhỏ
nhặt nhất, biến nó thành vốn sống, kỹ năng sống cho bản thân.
Tự học rất cần thiết đối với mỗi học sinh có vai trị quan trọng trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức của học sinh.
Muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì phải có khả
năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra. Bồi
dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá
trình học tập. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích
cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh. Và một trong những nhiệm vụ quan
trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo
dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi
thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình
thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế
hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị
lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ

mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề
nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh
hoạt vận những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lịng ham học, nhờ đó kết
quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy,
nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ
động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho
người học.
Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng dạy và
học ở các trường phổ thơng. Theo Aditxterrec: "Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo
viên mà thơi thì dù có nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được
việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái
đó học sinh phải tự mình làm lấy bằng trí tụê của bản thân". Điều đó lại khẳng định
thêm vai trị của việc tự học. Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho
học sinh những kiến thức mới, bổ ích mà cịn giúp họ rất nhiều trong cơng việc sau
này khi họ trở thành những người chủ thực sự góp phần xây dựng đất nước. Họ có
năng lực hoạt động thực tiễn hay không? Chất lượng học tập như thế nào? phụ thuộc
phần lớn vào việc tự học. Mỗi học sinh ra trường đều muốn đậu vào một trường đại
học tốt để sau này có một cơng việc ổn định và hồn thành tốt cơng việc của mình
nhưng chuẩn bị tốt cho việc đó là làm tốt phần việc của ngày hơm nay khi cịn ngồi
trên ghế nhà trường. Xã hội ngày càng phát triển và ngày càng có nhiều phát kiến vĩ
đại hơn, thời đại đó cần có những con người toàn diện, quy luật khắc nghiệt của
cuộc sống sẽ đào thải những ai không theo kịp, tụt hậu so với những tri thức toàn
diện, đây cũng là nhiệm vụ đặt ra cho q trình tự học. Khơng chỉ có vậy, tự học cịn
có vai trị to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh. Việc tự học
rèn luyện cho học sinh thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó
5


khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc lựa chọn
cuộc sống cho mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy học sinh lòng ham học, ham hiểu

biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hồi bão, ước mơ.
Do vậy, mỗi học sinh hãy xây dựng cho mình một thói quen, một phương thức tự
học thích hợp nhất.
Bên cạnh đó tự học có vai trị quan trọng trong q trình dạy học. Có thể nói
rằng trong q trình dạy học thì người giáo viên ln thể hiện vai trị đặc biệt quan
trọng, đó là sự tổ chức, hướng dẫn chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh. Nhưng
thực tế cho thấy dù giáo viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp dạy hay
đến mấy nhưng nếu học sinh khơng chịu đầu tư thời gian, khơng có sự lao động cá
nhân, không say mê học tập, không tự tích cực học tập thì việc học tập khơng đạt kết
quả cao được. Vì vậy có thể khẳng định vai trị của hoạt động tự học ln giữ một vị
trí rất quan trọng trong quá trình dạy học. Tự học là yếu tố quyết định đến chất
lượng và hiệu quả của hoạt động học tập. Tuy nhiên nói như vậy khơng có nghĩa là
hạ thấp vai trị của người giáo viên, mà giáo viên có vai trị lớn trong việc động viên
khuyến khích, hướng dẫn học sinh tự học một cách đúng hướng và có hiệu quả.
Trong xã hội phát triển vai trò của giáo viên ngày càng quan trọng là động lực
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giáo dục phải đào tạo được thế hệ trẻ năng
động, sáng tạo, có đủ tri thức và có khả năng thích ứng với đời sống xã hội, làm phát
triển xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ phải có năng lực đặc biệt đó là khả năng tự học, tự
nâng cao, tự hồn thiện bản thân. Có như vậy mới rèn luyện cho các em kỹ năng tự
học, tự nghiên cứu, không ngừng nâng cao vốn hiểu biết của mình để trở thành
người cơng dân với đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống. Có thể nói rằng ở bất cứ
bậc học nào hoạt động tự học cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả học tập.
Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học người học mới có thể nắm vững tri
thức, thơng hiểu tri thức và hoàn thiện tri thức cũng như hình thành kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng. Hoạt động tự học của học sinh không chỉ nâng cao năng lực nhận thức,
rèn luyện, thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống
mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân. Vì trên cơ sở
những tri thức học sinh tiếp thu được nó có ý nghĩa sâu sắc đến việc giáo dục tư
tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin, rèn luyện phong cách làm việc cá nhân cũng như
những phẩm chất cần thiết cho việc tổ chức học tập của mỗi học sinh. Nói cách khác

hoạt động tự học hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện nhân cách học sinh.
1.3. Một số hình thức và phương pháp hướng dẫn học sinh tự học
1.3.1. Một số hình thức tự học
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, sau đây
là một số hình thức tự học:
Hình thức 1: Tự học có sách, có giáo viên hướng dẫn trong một số tiết, một số
nội dung của bài trong tuần, sau đó học sinh về nhà tự học.
Trong quá trình học tập trên lớp, người giáo viên có vai trị là nhân tố hỗ trợ,
6


tạo điều kiện cho trò chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trị là chủ thể của q trình
nhận thức thức tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập.
Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh là mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không trực tiếp với giáo viên nhưng
dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên, người học phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để
hoàn thành những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo hình thức
này liên quan trực tiếp đến yêu cầu của giáo viên được giáo viên định hướng về nội
dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức này quá
trình tự học của học sinh có liên quan chặt chẽ với q trình dạy học, chịu sự tác
động của nhiều yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giáo viên và quá
trình tự học của học sinh
Hình thức 2: Tự học có sách nhưng khơng có giáo viên hướng dẫn.
Với hình thức này tự học diễn ra ở 2 mức độ:
Mức độ thứ nhất: Tự học theo sách mà khơng có sự hướng dẫn của giáo viên.
Trường hợp này người học tự học để hiểu các kiến thức trong sách qua đó sẽ phát
triển tư duy tự học hồn tồn với sách là cái đích mà mọi người phải đạt đến để xây
dựng một xã hội học tập suốt đời.
Mức độ thứ hai: Tự học có giáo viên hướng dẫn từ xa. Mặc dù GV ở xa

nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa giáo viên và học sinh bằng các
phương tiện trao đổi thông tin dưới dạng phản ánh và giải đáp thắc mắc, làm bài
kiểm tra đánh giá.
1.3.2. Hướng dẫn phương pháp tự học môn Giáo dục công dân
Trước hết ta phải nhận thức được rằng việc tự học cần phải được khuyến
khích trong học sinh thì chúng ta đưa ra một ý kiến nhất định hoặc đang tiếp nhận
phương pháp tiếp cận đối với quá trình dạy học. Thật ra hầu hết giáo viên giỏi đều
khuyến khích học sinh tự học tập và nghiên cứu. Đó là thói quen cần thiết phải lĩnh
hội trong mọi điều kiện. Vì thế đây chính là bài tập suy nghĩ gồm 2 cấp độ. Đầu tiên
người giáo viên phải lồng ghép phương pháp này vào công việc của chính mình. Sau
đó người giáo viên phải tìm ra một phương thức hoạt động hay phương pháp nào đó
nhằm khuyến khích học sinh tự học. Phương pháp tự học của học sinh là cách thức
con đường mà người học tự chọn cho mình trong quá trình học tập để đạt được
những nhiệm vụ học tập đề ra. Như vậy phương pháp tự học có vai trị quan trọng
đối với kết quả học tập.
Trong q trình dạy học mơn GDCD người giáo viên cần tăng cường sử dụng
các phương pháp dạy học tích cực nhằm khơi dậy hứng thú, tính sáng tạo, óc tị mị
mà cho người học. Mặt khác bên cạnh việc trang bị cho người học hệ thống tri thức
kỹ năng, kỹ xảo thì cần đặc biệt chú ý hình thành cho họ ý thức tự học, động cơ tự
học đúng đắn môn GDCD. Tiếp theo người giáo viên hướng dẫn người học có
những phương pháp tự học mơn GDCD, cách thức tiến hành tự học môn GDCD cụ
7


thể hiệu quả như:
- Biết cách xây dựng kế hoạch và thời gian biểu tự học hợp lý.
- Biết cách thức làm việc độc lập bao gồm: Biết đọc sách một cách có hệ
thống biết phân chia dung lượng kiến thức hợp lý để tiến hành học tập cho có hiệu
quả biết liên hệ vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập trong thực tiễn.
- Biết cách phân tích, tổng hợp, so sánh.

- Biết cách ơn tập kiến thức một cách tự giác.
- Biết cách tranh luận, bày tỏ quan điểm.
- Biết tự kiểm tra, đánh giá trình độ của bản thân.
Mặt khác để giúp học sinh có những cách thức tiến hành tự học như vậy thì
người giáo viên có thể trực tiếp hướng dẫn ở trên lớp, thơng qua các bài giảng mà
hình thành cho người học những phương pháp tự học đúng đắn, hiệu quả. Có thể nói
rằng đối với bộ mơn GDCD hướng dẫn phương pháp tự học bộ mơn này là q trình
giúp đỡ, hình thành cho người học tổ chức hoạt động nhận thức của mình được tiến
hành trên lớp hay ngồi lớp, khi có giáo viên và cả khi khơng có giáo viên… nhằm
chiếm hữu nội dung tri thức môn GDCD đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu thực
tiễn. Chúng ta biết rằng muốn học tập tốt một bộ mơn nào thì người học sinh phải
hiểu được đặc điểm của môn học, tổ chức được những hoạt động tương ứng với
mơn học đó để lĩnh hội tri thức chính bản thân người học chứ không phải ai khác.
Việc tự học môn GDCD cũng vậy, muốn học tập đạt kết quả cao thì học sinh phải
hiểu được đặc điểm của mơn học - đó là một bộ mơn vừa mang tính chất lý luận,
tính trừu tượng, tính khái quát vừa có tính thực tiễn rất cao. Vì vậy việc học tập môn
GDCD không chỉ đơn thuần là nắm vững những nguyên lý, quy luật, những bài
giảng mang tính lí luận mà phải gắn liền với việc am hiểu và nắm vững kiến thức
thực tế, vận dụng lí luận để giải quyết thực tiễn. Như vậy để tự học tốt vấn đề quan
trọng trước tiên là học sinh phải hiểu rõ được ý nghĩa của mơn học. Điều đó giúp
học sinh xây dựng ý thức tự học. Bên cạnh đó để tự học mơn GDCD đạt hiệu quả
cao thì việc xây dựng phương pháp học tập khoa học và lựa chọn hình thức học tập
phù hợp có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Phương pháp tự học môn GDCD không chỉ đơn thuần là học lại máy móc vở
ghi, bài giảng của giáo viên mà người học còn phải làm quen với việc đọc sách,
đọc tài liệu tham khảo, phải tìm hiểu thực tiễn giáo dục, biết kết hợp lý luận với
thực tiễn để tạo cho mình vốn tri thức, vốn kinh nghiệm phong phú. Đối với người
giáo viên việc vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, thiết kế tiến
trình dạy học các bài học hoặc chủ đề dạy học đảm bảo các yêu cầu về phương
pháp dạy học, cách xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá chuỗi các hoạt

động học theo sự định hướng phát triển năng lực người học là rất cần thiết đối với
giáo viên trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy trong q trình thiết kế giáo viên
8


phải tìm tịi các hình thức và phương pháp phù hợp, phải linh hoạt, sáng tạo, trong
việc tổ chức hoạt động dạy học cho học sinh. Tránh tình trạng hoạt động đơn điệu,
nhàm chán, hoặc không tổ chức hoạt động dạy học mà để nó diễn ra một cách tuần
tự, cứng nhắc. Sau đây là một số hình thức và phương pháp mà bản thân tôi đã sử
dụng khi thiết kế hướng dẫn cho học sinh một số nội dung tự học trong các tiết dạy
môn GDCD.
- Thứ nhất là áp dụng phương pháp dự án
- Thứ hai là áp dụng pp thảo luận nhóm
- Thứ ba là hướng dẫn tìm hiểu nội dung tự học thơng qua hệ thống chuỗi
câu hỏi.
- Thứ tư là hướng dẫn nội dung tự học thơng qua việc khuyến khích học sinh
bộc lộ những khả năng, năng khiếu của mình,
1.4. Một số nội dung tự học trong chương trình mơn Giáo dục cơng dân cấp
trung học phổ thông
- Căn cứ Thông tư 32/2018/TT-BGD&ĐT ngày 26/12/2018 của Bộ GD&ĐT
Thơng tư ban hành chương trình giáo dục phổ thông
- Căn cứ Công văn số 1319/SGDDT-GDTrH ngày 5/7/2020 về hướng dẫn và
phê duyệt kế hoạch giáo dục năm học 2020-2021.
- Căn cứ Công văn 2384/BGDDT- GDTrH ngày 01/07/2020 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường theo định hướng
phát triển năng lực học sinh.
- Căn cứ Kế hoạch 306/KH-UBND ngày 23/5/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh
để xây dựng một số chương trình tăng cường phù hợp với nguyện vọng học sinh và
điều kiện nhà trường.
- Căn cứ Công văn 5512/BGD-ĐT 2020 về tổ chức thực hiện kế hoạch giáo

dục trong nhà trường.
- Căn cứ Công văn 3414/BGD&ĐT-GDTrH nhiệm vụ giáo dục trung học năm
học 2020 - 2021.
- Căn cứ vào văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2020 - 2021
của Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An.
- Căn cứ vào kế hoạch của tổ chun mơn, nhóm chun mơn năm học
2020 - 2021.
Với những căn cứ đó bản thân tơi đã cùng với nhóm chun mơn của trường
xây dựng kế hoạch giáo dục môn GDCD năm học 2020 - 2021. Trong bản kế hoạch
giáo dục đó đã xây dựng một số nội dung hướng dẫn học sinh tự học môn GDCD
của 3 khối cụ thể như sau:
9


+ Một số nội dung tự học trong kế hoạch giáo dục môn GDCD khối 10:
TT

1

2

3

4
5
6
7
8
9


10

11
12
13
14

Tên bài
Nội dung hướng dẫn tự học
Bài 1: Thế giới quan duy vật Mục 2: Chủ nghĩa duy vật biện
và phương pháp luận biện chứng - sự thống nhất những
chứng
hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp luận biện
chứng.
Bài 3: Sự vận động và phát Mục 1c: Các hình thức vận
triển của thế giới vật chất
động cơ bản của thế giới vật
chất
Bài 4: Nguồn gốc vận động và Mục 1: Thế nào là mâu thuẫn
phát triển của sự vật hiện
tượng
Bài 5: Cách thức vận động và Mục 2: Lượng
phát triển của sự vật, hiện
tượng
Bài 6: Khuynh hướng phát Mục 1b: Đặc điểm của phủ định
triển của sự vật hiện tượng
biện chứng
Bài 7: Thực tiễn và vai trò của Mục 1: Hai giai đoạn của qua
thực tiễn đối với nhận thức

trình nhận thức
Bài 9: Con người là chủ thể Mục 1: Con người là chủ thể
của lịch sử, là mục tiêu phát của lịch sử
triển của xã hội
Bài 10: Quan niệm về đạo đức Mục 1b: Phân biệt đạo đức với
pháp luật và phong tục tập quán
Bài 11: Một số phạm trù cơ Mục 1b: Nghĩa vụ của thanh
bản của đạo đức học
niên Việt Nam hiện nay
Bài 12: Cơng dân với tình u, Mục 2b: Làm thế nào để trở
hơn nhân và gia đình
thành người có lương tâm
Mục 2b: Chế độ hơn nhân ở
nước ta hiện nay
Bài 13: Công dân với cộng Mục 2: Trách nhiệm của công
đồng
dân với cộng đồng
Bài 14: Công dân với sự nghiệp Mục 3: Trách nhiệm bảo vệ Tổ
xây dựng và bảo vệ tổ quốc
quốc
Bài 15: Công dân với một số Mục 1a: Ơ nhiễm mơi trường
vấn đề cấp thiết của nhân loại Mục 2: Sự bùng nổ dân số
Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân Mục 3: Tự hoàn thiện bản thân
như thế nào?

Ghi chú

10



+ Một số nội dung tự học trong kế hoạch giáo dục môn GDCD khối 11:
TT

Tên bài

Nội dung hướng dẫn tự học

1

Bài 1: Công dân với sự phát Mục 3b: Ý nghĩa của phát triển
triển kinh tế
kinh tế đối với cá nhân, gia đình và
xã hội

2

Bài 2: Hàng hóa - Tiền tệ - Mục 2b: Nguồn gốc, bản chất tiền
Thị trường
tệ

3

Bài 7: Thực hiện nền kinh Mục 1b: Các thành phần kinh tế ở
tế nhiều thành phần
nước ta

4
5
6


Bài 8: Chủ nghĩa xã hội

Mục 2b: Đặc điểm của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Bài 9: Nhà nước XHCN

Mục 1: Nguồn gốc và bản chất của
nhà nước

Ghi chú

Bài 10: Nền dân chủ xã hội Mục 3: Các hình thức cơ bản của
chủ nghĩa
dân chủ
Bài 11: Chính sách dân số Mục 1a: Tình hình dân số ở nước ta
và giải quyết việc làm
hiện nay

7

Mục 3: Trách nhiệm của cơng dân
đối với chính sách dân số và giải
quyết việc làm

8

Bài 12: Chính sách tài Mục 1a: Tình hình mơi trường ở
nguyên và bảo vệ môi nước ta hiện nay
trường

Mục 3: Trách nhiệm của cơng dân
đối với chính sách tài ngun và
bảo vệ mơi trường

9

Bài 13: Chính sách giáo Mục 4: Trách nhiệm công dân đối
dục và đào tạo, khoa học với chính sách giáo dục và đào tạo,
cơng nghệ, văn hóa
KHCN, văn hóa

Bài 14: Chính sách quốc Mục 3: Trách nhiệm của cơng dân
10 phịng và an ninh
đối với chính sách quốc phịng và
an ninh
11

Bài 15: Chính sách đối Mục 4: Trách nhiệm của cơng dân
ngoại
đối với chính sách đối ngoại
11


+ Một số nội dung tự học trong kế hoạch giáo dục môn GDCD khối 12:
TT

Tên bài

Nội dung hướng dẫn tự học


1

Bài 1: Pháp luật với đời sống

2

Bài 4: Quyền bình đẳng cơng Mục 1b, 2b, 3b. Nội dung bình
cơng dân trong một số lĩnh đẳng trong hôn nhân và gia đình,
vực của đời sống xã hội
trong lao động, trong kinh doanh

3

Bài 7: Công dân với các Mục 3b: Quy trình khiếu nại, tố
quyền dân chủ
cáo

4

Bài 8: Pháp luật với sự phát Mục 3: Trách nhiệm của Nhà
triển của công dân
nước và công dân

5

Bài 9: Pháp luật với sự phát Mục 2d, 2e: Nội dung cơ bản của
triển bền vững của đất nước pháp luật về bảo vệ môi trường,
pháp luật về quốc phòng, an ninh

Ghi chú


Mục 2: Bản chất của pháp luật

1.5 Một số yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong vấn đề tự học
1.5.1. Yêu cầu đối với giáo viên
Để HS có thể tự học, tự nghiên cứu ở nhà được tốt thì đối với GV cũng cần
đặt ra cho mình một số yêu cầu như sau:
- Giáo viên cần phải có đề cương chi tiết cho học sinh trước khi bắt đầu vào
giảng dạy một nội dung nào đó. Trong đó có ghi rõ những phần học trên lớp, phần
HS nghiên cứu tự học.
- Trong những bài, phần yêu cầu người học tự học GV nên nêu rõ mục tiêu
của nội dung phần đó. Đặt ra các câu hỏi yêu cầu người học phải trả lời được sau
khi học xong chương, phần đó.
- Yêu cầu HS đọc sách nào, nghiên cứu tài liệu nào hay phần nào và trả lời
câu hỏi theo yêu cầu.
- Hướng dẫn HS kỹ năng đọc sách, nghiên cứu tài liệu, tóm tắt tài liệu đọc
được, cách lập dàn bài, đề cương, kỹ năng phân tích bảng số liệu, sơ đồ, bảng
biểu...
- Kiểm tra tự học của HS bằng các câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận trên
giảng đường và lấy điểm làm điểm điều kiện.
1.5.2 Yêu cầu đối với học sinh
Để có thể rèn luyện được phương pháp tự học, tự nghiên cứu, người học cần
phải đảm bảo các yêu cầu sau:
12


- Học sinh phải cố gắng tự mình suy nghĩ, tìm tịi, nghiên cứu nâng cao khả
năng của mình. Điều đó đem lại lợi ích cho HS là tự động viên, nhắc nhở tinh thần
cho chính bản thân mình. Phải làm cho HS hiểu rằng bất cứ việc gì, người nào biết
dựa vào sức mình là chính, năng lực người đó mới nhanh chóng phát triển, sự thành

cơng mới vững chắc. Điều quan trọng bậc nhất, độc lập suy nghĩ, làm việc sẽ khiến
những kiến thức tiếp thu được sâu sắc, dễ vận dụng.
- Hiểu rõ mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn. Khi hiểu rõ
mục đích học tập và xác định động cơ học tập đúng đắn cần phân biệt sự khác nhau
giữa phong cách học tập cũ và mới. Phong cách học tập mới là vừa học tập kiến
thức khoa học vừa thơng qua đó mà tự giác rèn luyện con người mình, nó chống lại
việc chỉ lo nhồi nhét kiến thức mà không lo rèn luyện con người mới. Học phải có
kế hoạch: người học phải lập kế hoạch cho việc tự học, tự nghiên cứu (Học lúc nào?
Học ở đâu? Học mơn gì, phần nào trước, mơn gì, phần nào sau?), tốt nhất là rèn
luyện được phương pháp học ở mọi nơi, mọi lúc.
- Khi bắt đầu tự học một mơn hay một phần nào đó, HS phải xác định được
nội dung cần đọc, cần nghiên cứu thông qua các câu hỏi của giáo viên.
- Khi xem xét một vấn đề, HS phải xuất phát từ định nghĩa, khái niệm và đặt
vấn đề đó trong mối liên hệ với các vấn đề khác.
- Để tạo được hứng thú khi học thì HS nên bắt đầu từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp, từ xa đến gần, từ cụ thể đến khái quát, trừu tượng.
Bên cạnh đó HS phải rèn luyện kỹ năng đọc sách, kỹ năng nghiên cứu tài liệu
cụ thể như sau:
- Khi đọc sách cần phải ghi chép: lập dàn bài cho những phần cần nghiên cứu,
đầu tiên là dàn ý sơ lược, sau đó chi tiết hóa dần.
- Cố gắng nắm được cách bố trí, hệ thống của tài liệu, đọc những gì HS
hiểu rõ nhất để xác định độ khó. Đừng nản chí nếu không hiểu.
- Dùng bút đánh dấu những chỗ quan trọng hay chưa hiểu để có thể xem lại.
Trong khi đọc, thỉnh thoảng dừng đọc và đặt những câu hỏi kích thích và tự tìm câu
trả lời.
- Sau khi tóm tắt được phần cần đọc thì trả lời các câu hỏi của giáo viên yêu
cầu theo hiểu biết của mình dựa vào tài liệu đã được đọc.
Để tìm ra được phương pháp giải quyết vấn đề, HS cần phát huy tư duy biện
chứng, song trong quá trình giải quyết vấn đề thì lại cần vận dụng tới tư duy logic.
Để đi đến kết quả trọn vẹn, HS cần rèn luyện tư duy về lựa chọn, lựa chọn những

cách giải quyết giản dị, thấu đáo, trong sáng.
HS phải học cách hệ thống hóa các kiến thức đã học từ trên lớp kết hợp với
kiến thức đã học thông qua cách lập các sơ đồ về mối quan hệ giữa các kiến thức,
lập các bảng so sánh, các bảng tổng hợp các nội dung đã học.
13


Trong việc đẩy mạnh phương pháp tự học, cũng cần chú ý đến sự tương trợ,
giúp đỡ nhau trong học tập tức là vấn đề "học thầy không tày học bạn" như ơng cha
ta đã từng đúc kết. Do đó, HS có thể kết hợp với những bạn khác thành nhóm học
tập, trao đổi thơng tin, học hỏi lẫn nhau để khắc sâu nội dung bài học.
Trao đổi với giáo viên về những phần kiến thức khó, kiến thức khơng hiểu và
những phần kiến thức người học muốn đi sâu tìm hiểu rõ hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng của việc hướng dẫn học sinh tự học nói chung và bộ mơn Giáo
dục cơng dân nói riêng của giáo viên trung học phổ thơng
Có thể nói rằng hiện nay khâu tự học của HS trong các trường chưa được coi
trọng đúng mực. Thực ta tự học thì kiến thức sẽ sâu hơn, bền hơn và thực chất hơn.
Do nhiều nguyên nhân, học sinh hiện nay hầu như phụ thuộc và thậm chí cịn ỷ lại
thầy cơ giảng, khơng chịu tìm tịi, nghiên cứu. Chính vì vậy GV cần phải có những
phương pháp hướng dẫn, kích thích học sinh tự học nhiều hơn. Giúp HS nâng cao
kỹ năng tự học các mơn học để phát huy được tính chủ động, sáng tạo, độc lập của
học sinh.
Đối với bộ môn GDCD dựa vào những quy định của bộ môn trong quá trình
xây dựng kế hoạch giảng dạy mơn GDCD thì thời lượng dạy trên lớp cho mỗi tiết
học là rất ngắn, mỗi tuần chỉ dạy 1 tiết, trong khi nội dung tri thức cần truyền đạt ở
một số bài của môn GDCD thì khó cần nhiều thời gian tìm hiểu, nghiên cứu. Do đó,
việc HS phải tự học bài và chuẩn bị bài trước giờ lên lớp là điều tất yếu. Có thể nói
rằng thời gian tự học ở nhà là rất quan trọng, đây là lúc HS có nhiều thời giờ suy
ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề xuất những thắc mắc để thầy giải đáp, suy nghĩ

liên hệ hoặc vận dụng vào thực tế. Đây cũng là cách để tri thức khắc sâu trong bộ
óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp với hành mà Bác Hồ
luôn luôn nhắc nhở. Việc học ở nhà còn phải làm tốt việc chuẩn bị trước theo yêu
cầu của từng bài giảng.
Tuy nhiên, để học sinh trở thành những người học có khả năng tự học, chủ
động sáng tạo không phải là một điều dễ dàng, do học sinh mới làm quen với cách
học mới nên tính thụ động cịn cao, phương pháp tự học, tự nghiên cứu cịn chưa tốt
do đó họ rất lúng túng trong việc tự học ở nhà. Mặt khác, giáo viên cũng gặp phải
nhiều khó khăn khi yêu cầu học sinh tự học ở nhà môn GDCD và quản lý cũng như
đánh giá khả năng tự học của học sinh.
2.2. Thực trạng của việc học sinh tự học nói chung và tự học môn Giáo dục công
dân cấp trung học phổ thơng nói riêng hiện nay
Để khách quan tơi đã tiến hành khảo sát việc thực hiện quá trình tự học của
học sinh tại trường THPT Cờ Đỏ đem lại kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát đối với học sinh khối 11 (số lượng học sinh khảo sát 80 em)
14


Câu 1: Em hiểu tự học là gì?
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Tự học là tự nghiên cứu sách

30

38


2. Tự học là tự tìm kiếm kiến thức

24

30

3. Tự học là các nhân tự giác học tập.

26

32

Câu 2: Sự cần thiết của việc tự học
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Rất cần thiết

45

56

2. Cần thiết

20


25

3. Bình thường

10

13

4. Khơng cần thiết

5

6

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Giúp hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn

35

44

2. Giúp nhớ bài học lâu hơn

25

31


3. Kích thích tính tích cực trong học tập

15

19

4. Rèn luyện khả năng cho bản thân

5

6

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chưa có phương pháp học tập hợp lí

55

69

2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức mình tự
học

15

19

3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học


10

12

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chỉ học bài khi cần thiết

32

40

2. Học theo nội dung câu hỏi bài tập của giáo viên

30

38

3. Chỉ học phần quan trọng

18

22

Câu 3: Lý do cần phải tự học
Nội dung


Câu 4: Khó khăn mà học sinh gặp phải khi tự học
Nội dung

Câu 5: Cách thức tự học của học sinh
Nội dung

15


Câu 6: Hình thức tự học:
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Tự học một mình

60

75

2. Tự học theo nhóm

15

18,8

3. Tự học cùng người thân


5

6,2

Số lượng

Tỷ lệ %

Sự dụng thành thạo các kỹ năng

20

25

Lúng túng khi sự dụng các kỹ năng

50

63

Chưa biết sự dụng các kỹ năng

10

12

Số lượng

Tỷ lệ %


Mỗi ngày 1đến 2 tiếng

39

49

Mỗi ngày 2 đến 3 tiếng

25

31

Mỗi ngày trên 3 tiếng

16

20

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chỉ cần học trên lớp là đủ

50

63

2. Chủ yếu tự nghiên cứu bài tập


10

12

3. Cần tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên

20

25

Câu 7: Mức độ sự dụng kỹ năng tự học:
Nội dung

Câu 8: Thời gian tự học của học sinh:
Nội dung

Câu 9: Suy nghĩ của học sinh về vấn đề tự học THPT
Nội dung

Câu 10: Để chuẩn bị cho nội dung tự học một bài học GDCD, em thường:
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Học bài cũ và nghiên cứu trước bài mới theo nội
dung hướng dẫn của giáo viên

45


56

2. Học thuộc lòng bài cũ

20

25

3. Khơng chuẩn bị gì cả

15

19

Câu 3: Thái độ của học sinh đối với việc tự học GDCD
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Rất nghiêm túc

20

25

2. Cịn mang tính chất đối phó


52

65

3. Bình thường

8

10
16


* Nhận xét:
Kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh đều hiểu và nhận thức đúng vai trò
của tự học đối với q trình học tập nói chung và mơn GDCD nói riêng. Tuy nhiên
việc thực hiện tự học ở học sinh cịn gặp phải nhiều khó khăn, lúng túng trong việc
sự dụng các kỹ năng tự học. Mức độ sử dụng thành thạo các kỹ năng tự học con
thấp. Thời gian tự học của học sinh còn q ít, thái độ học tập cịn mang tính đối
phó cao, còn phụ thuộc nhiều vào sự hướng dẫn của giáo viên. Nguyên nhân một
phần các em chưa có ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác do các
em chưa định hướng được một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân.
Chính vì vậy kết quả tự học của học sinh còn chưa đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, vai trò
của người giáo viên trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần
nâng cao chất lượng tự học của học sinh nói chung và tự học mơn GDCD nói riêng
ở trường phổ thông là hết sức quan trọng.
2.3. Thực trạng của việc hướng dẫn nội dung tự học cho học sinh trong các giờ
học môn giáo dục công dân tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn
Huyện Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hịa
Trong q trình thực hiện đề tài tôi cũng đã tiến hành khảo sát việc tự học
của học sinh nói chung và việc hướng dẫn nội dung tự học cho học sinh trong việc

dạy học môn GDCD ở các trường THPT trên địa bàn Huyện Nghĩa Đàn và Thị xã
Thái Hòa (bao gồm: Trường THPT Cờ Đỏ, Trường THPT 1/5, Trường THPT Thái
Hòa, Trường THPT Tây Hiếu, Trường THPT Đông Hiếu. Tổng 5 trường gồm 12
giáo viên) kết quả như sau:
*Kết quả khảo sát như sau (số lượng GV khảo sát: 12 người)
Câu 1: Cách thức hướng dẫn học sinh tự học
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chỉ hướng dẫn một số bài cần thiết
- Có thực hiện
- Khơng thực hiện

10
2

83
17

2. Hướng dẫn theo nội dung kế hoạch giáo dục
- Hướng dẫn chi tiết, cụ thể
- Hướng dẫn chung chung

8
4

67

33

3. Nội dung hướng dẫn
- Chỉ hướng dẫn phần quan trọng
- Hướng dẫn các nội dung theo yêu cầu

9
3

75
25

17


Câu 2: Những khó khăn mà giáo viên gặp phải khi hướng dẫn học sinh tự học
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Chưa có phương pháp hợp lí

4

33

2. Chưa có biện pháp để kiểm tra kiến thức học
sinh tự học


5

41

3. Thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học

3

26

Câu 3: Việc tiến hành hướng dẫn hoạt động tự học cho học sinh
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

1. Thực hiện hướng dẫn học sinh tự học
- Có
- Khơng

10
2

83
17

2. Cơ sở tiến hành hướng dẫn tự học
- Xuất phát từ nội dung

- Từ các nội dung liên quan đến bài học
- Từ nội dung liên quan đến tên bài học

5
4
3

42
33
25

3. Mục đích việc hướng dẫn tự học
- Kiểm tra và thống kê kiến thức của học sinh
- Tạo hứng thú cho học sinh
- Tạo tình huống có vấn đề để vào bài

5
3
4

42
25
33

4. Cách thức tiến hành hoạt động tự học
- Tổ chức thành hoạt động
- Dẫn dắt
- Khác

5

7
0

42
58
0

5. Mức độ thu hút và hiệu quả
- Cao
- TB
- Thấp

5
5
2

42
42
16

* Nhận xét:
Kết quả khảo sát cho thấy đa số các giáo viên GDCD trên địa bàn Huyện
Nghĩa Đàn và Thị xã Thái Hòa đều đã có sự đổi mới đầu tư cải tiến phương pháp
giảng trong việc hướng dẫn học sinh tự học.Tuy nhiên vẫn cịn một số ít giáo viên
có những hạn chế nhất định như: giáo viên vẫn chưa mạnh dạn vận dụng phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực vào việc hướng dẫn học sinh tự học. Do đó đang tạo
cảm giác thụ động đối với học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức. Một số giáo viên
18



tâm lí mơn mình là mơn phụ nên chưa chịu đầu tư trong việc soạn giáo án, tìm hiểu
những nội dung kiến thức mới thành ra bài dạy gây nhàm chán, khơng tạo được sự
hứng thú cho người học. Chính vì lẽ đó bản thân tơi nghĩ người giáo viên dạy mơn
GDCD ln phải tìm tịi, đổi mới để tìm ra phương pháp phù hợp cho từng bài đặc
biệt phải biết cách hướng dẫn học sinh tự học để đem lại hiệu quả khi giảng dạy.
Bên cạnh đó nhiều bài học trong sách giáo khoa mơn GDCD cịn khơ khan, một số
kiến thức triết học, kinh tế, chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học... khá trừu tượng,
khó hiểu đối với học sinh phổ thơng nên việc lựa chọn hình thức, phương pháp như
thế nào để hướng dẫn học sinh tự học quả là vấn đề không mấy dễ dàng đối với mỗi
giáo viên.Vì vậy, trong quá trình dạy, dù rất cố gắng, nhiều giáo viên cũng không
thể lôi kéo sự tập trung của học sinh, hiệu quả giờ học bị giảm sút. Chính vì lẽ đó
bản thân tơi trong q trình giảng dạy bộ mơn GDCD bậc THPT tơi ln ln trăn
trở để tìm ra giải pháp hướng dẫn học sinh tự học một cách hiệu quả nhằm tạo hứng
thú cho các em khi học bộ môn này.
3. Một số biện pháp nâng cao kỹ năng tự học cho học sinh trong chương trình
mơn Giáo dục cơng dân cấp trung học phổ thông
3.1. Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh trong môn Giáo dục công dân cấp
trung học phổ thơng
Có thể nói rằng tự học là một xu thế tất yếu hiện nay, bởi tự học giúp nâng
cao kết quả học tập của HS và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện cụ
thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học nói chung và bộ mơn
GDCD nói riêng.
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến
hoạt động đó. Trước tiên, để q trình tự học diễn ra thành công học sinh cần thiết
lập cơ sở định hướng của hành động. Để có được những cơ sở định hướng người
học phải trả lời được các câu hỏi:
- Học nhằm mục đích gì? Học vì u thích mơn học, vì trách nhiệm với gia
đình và xã hội hay vì để được khen…
- Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt

qua loa.
- Học như thế nào? HS nên chọn phương pháp nào là phù hợp với HS.
Trong vấn đề tự học có nhiều cách hiểu khác nhau về cách thức tiến hành
như:
Thứ nhất, tự học là tự học sinh ơn luyện ở nhà, tự tìm kiếm, tự suy nghĩ, tìm
tịi kiến thức của mơn học.
Thứ hai, Tự học có sự hướng dẫn của giáo viên đối với một số nội dung của
môn học.
19


Đối với bộ mơn GDCD cấp THPT thì năm nay trong kế hoạch giáo dục của
các trường hầu hết ở các bài đều có nội dung hướng dẫn tự học. Đối với trường tôi
cũng vậy chi tiết các nội dung tơi đã trình bày ở phần trên của đề tài. Với những nội
dung tự học đó bản thân tơi mạnh dạn nếu ra các biện pháp cụ thể để giúp học sinh
học tốt và hiệu quả hơn đối với bộ mơn GDCD.
Thứ nhất: Rèn luyện cho học sinh thói quen, kỹ năng tự học.
- Kỹ năng lập kế hoạch: Các em học sinh phải học rất nhiều môn học khác
nhau, bởi vậy trong quá trình học các em phải biết lập kế hoạch học tập cho từng
môn học cụ thể. Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu HS xác định được mục tiêu, nội dung
và phương pháp học. Mục tiêu của người học là phải xây dựng được kế hoạch học
tập. Trên cơ sở khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh
tri thức một cách dễ dàng. Đối với môn GDCD thời lượng kiến thức khơng nhiều,
mỗi tuần chỉ có 1 tiết học nhưng học sinh cũng cần phải học nghiêm túc đặc biệt là
có những phần kiến thức tự học. Chính vì vậy HS cần phải lập kế hoạch tự học môn
GDCD và GV có thể hướng dẫn HS một số điểm như sau:
+ Học theo thời khóa biểu trên lớp. Ngày nào có tiết GDCD thì sẽ học nội
dung đó. Ngồi thời gian học trên lớp dưới sự hướng dẫn của GV thì các em sẽ phải
có một thời gian nhất định để tự học những nội dung mà GV giao nhiệm vụ.
+ Khi lập kế hoạch học tập thì HS phải biết chọn đúng trọng tâm kiến thức

học của bài tránh lan man, xa vấn đề của bài học.
Ví dụ: Trong chương trình mơn GDCD 12 tổng một năm có 35 tiết học. Mỗi
tuần chỉ học 1 tiết GDCD. HS sẽ căn cứ và sự hướng dẫn của GV về từng bài, từng
nội dung để có thể tự học một cách tốt nhất. Những năm gần đây môn GDCD được
đưa vào thi và xét tốt nghiệp THPT, và cũng là mơn có thể gọi là mơn “cứu cánh”
cho nhiều em xét tốt nghiệp THPT. Do đó cần nâng cao kỹ năng tự học môn GDCD
cho HS.
Chẳng hạn như khi dạy chủ đề: Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số
lĩnh vực của đời sống xã hội
GV hướng dẫn nội dung tự học cho HS ở mục 1b, mục 2b, mục 3b:
Mục 1b: Nội dung bình đẳng trong hơn nhân gia đình
Mục 2b: Nội dung bình đẳng trong lao động
Mục 3b: Nội dung bình đẳng trong kinh doanh
Đây là những nội dung quan trọng của bài học, liên quan đến kiến thức sẽ thi
tốt nghiệp. Bởi vậy GV phải hướng dẫn HS tự học thật nghiêm túc. Yêu cầu học
sinh tự đọc và nghiên cứu nội dung đó trước khi đến lớp. Đồng thời GV có thể chia
các em theo nhóm thảo luận nội dung đó. Các em có thể tự học nội dung này trong
vòng 1 tiếng/ 1 ngày theo thời gian biểu của cá nhân các em đã lên. Sau đó gọi HS
trình bày nội dung đã tự học đó trước lớp và nhận xét đánh giá cho điểm luôn.
20


×