Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Doi dieu trao doi ve van ban va huong khai thac baitho Bao kinh canh gioi so 43 cua Nguyen Trai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.97 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đôi điều trao đổi về văn bản và hướng khai thác bài thơ</b>

<i><b> Bảo kính cảnh giới số 43 của Nguyễn Trãi </b></i>

<b>1</b>


<b>***</b>


<i>Phan Thị Thanh Vân</i>


<i> Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng</i>


1. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, Nguyễn Trãi là một trong những tác
giả trọng tâm. Ngoài phần giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả,
học sinh còn được học hai tác phẩm. Đó là <i>Bài cáo bình Ngơ </i>và <i>Bảo kính cảnh</i>
<i>giới số 43</i>. Đây là những tác phẩm đã hiện diện trong chương trình ngữ văn THPT
từ hàng chục năm nay. Tuy nhiên, từ văn bản đến cách hiểu và hướng khai thác các
tác phẩm đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Từ thực tế giảng dạy, trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi thêm một số vấn đề về bài thơ


<i>Bảo kính cảnh giới số 43</i>.


2. Sách giáo viên Văn 10 (Tập 1, sách chỉnh lý hợp nhất năm 2000), phần
hướng dẫn giảng bài <i>Bảo kính cảnh giới số 43 </i>của Nguyễn Trãi, được bắt đầu bằng
việc khẳng định tâm thế "mở lịng ra đón nhận cảnh vật" của nhà thơ "đón trong
lúc rồi (rỗi rãi), trong lúc dạo chơi hóng mát, nghĩa là trong lúc sống nhàn nhã mà
tâm hồn cũng thảnh thơi…"2<sub>. Từ cách hiểu đó, soạn giả viết: "Thi nhân đã đón</sub>
nhận cảnh vật bằng thị giác, thính giác, khứu giác và cả bằng ấn tượng, tưởng
tượng nữa. Trong cảnh có sắc (xanh, đỏ, hồng), có ánh sáng (chiều tà), có âm
thanh (cầm ve). Nói chung là cảnh vật có sức sống, đang cựa quậy, đang vươn tới,
trông vui mắt…" và nữa, "từ niềm vui đó lại cịn dậy lên một ước mong cũng thật
cao đẹp, cũng thật nghệ sĩ: ước mong có được tiếng đàn của vua Thuấn ngày trước
để ca ngợi cuộc sống hơm nay"3<sub>. Cùng cách nhìn đó, nhưng có phần chi tiết hơn,</sub>
Lã Nhâm Thìn trong cuốn <i>Giảng văn văn học Việt nam</i> cũng cho rằng, "Thời gian


rảnh rỗi, tâm hồn thư thái, thanh thản, khí trời mát mẻ, trong lành…Một ngày như
thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều. Ơng là người <i>thân</i> khơng nhàn mà <i>tâm</i> cũng
khơng nhàn.<i> Một phút thanh nhàn trong thuở ấy</i> với Nguyễn Trãi thật đáng quý
biết bao. Quả hiếm hoi mới có một hồn cảnh lý tưởng đến thế - cả khách quan và
chủ quan - để làm thơ, để yêu say cái đẹp"4<sub> Từ cách hiểu ấy, tác giả phát triển</sub>
thêm: "Ở đây ơng có được cả một <i>ngày trường</i> để thưởng thức thiên nhiên với một
tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai giành cho mình một cái quyền <i>Rồi hóng</i>
<i>mát thuở ngày trường</i> , bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vò, mục đích lớn nhất
1<sub>. </sub>Phan Thị Thanh Vân, " Kỷ yếu hội thảo khoa học <i><b>Dạy học ngữ văn ở trường phổ thơng theo chương trình và </b></i>


<i><b>sách giáo khoa mới</b></i>" do Trường ĐH Vinh - Sở GD & ĐT Nghệ An - Sở GD & ĐT Hà Tĩnh - Sở GD & ĐT Thanh
Hoá tổ chức tháng 4-2007.


2Nguyễn Đình Chú- Nguyễn Lộc chủ biên, Văn học 10, tập 1 (Sách giáo viên), Nxb Giáo Dục, H. 2000. tr 97.
3<sub> . Sdd, tr 98.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

của đời ông đã được thực hiện: dân ấm no, hạnh phúc". Qua nhiều lần thay đổi
sách giáo khoa, gần đây bài <i>Bảo kính cảnh giới số 43</i> của Nguyễn Trãi lại được
chọn đưa vào phần đọc văn <i>Ngữ văn 10</i> của hệ chương trình chuẩn (Phan Trọng
Luận chủ biên) và hệ nâng cao (Trần Đình Sử chủ biên). So với sách giáo khoa
ngữ văn trước đây, nhan đề bài thơ đã được đổi thành <i>Cảnh ngày hè</i>. Ngoài ra, ở
câu 4 "<i>Hồng liên trì đã tịn mùi hương" </i>được đổi thành<i> "Hồng liên trì đã tiễn mùi</i>
<i>hương".</i> Dù văn bản bài thơ đã có sự thay đổi, song định hướng khai thác về cơ bản
khơng có gì thay đổi.


3. Dù đã có những khác biệt trong cách khai thác chi tiết, nhưng về cơ bản,
các soạn giả đều thống nhất khi cho rằng, chủ thể trữ tình xuất hiện trước thiên
nhiên trong thời gian rảnh rỗi với một tâm trạng ung dung, thảnh thơi trong ngày
hè<i>. </i>Từ đó, các soạn giả đã đi sâu khai thác ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên đầy sáng
tạo của Nguyễn Trãi, và xem đó là một biểu hiện của sự cảm nhận tinh tế vẻ đẹp


thiên nhiên của nhà thơ. Đây là một cách tiếp cận có ý nghĩa. Tuy nhiên, theo
chúng tơi, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quả là chưa đủ. Với tư cách là một "bản tự
thuật tâm trạng" (G.N.Pospelop), thơ trữ tình trước hết và bao giờ cũng là sự thể
hiện một khát vọng được bày tỏ, được giao cảm, được sẻ chia những nỗi niềm sâu
kín của tâm hồn. Chính vì vậy, để hiểu một bài thơ trữ tình, việc chỉ ra những hình
ảnh thơ độc đáo, những câu chữ cụ thể là cần thiết nhưng chưa phải là điều cơ bản.
Cần phải thấy rằng, hồn cốt của một bài thơ là ở cái giọng điệu của nó. Dấu ấn tài
năng, cá tính sáng tạo và những tiếng lòng sâu thẳm của thi nhân trước cuộc đời…
đều được thể hiện qua giọng điệu bài thơ. Vì vậy, hiểu bài thơ trước hết phải nắm
bắt được cái giọng điệu của nó. Về điều này, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến trong cuốn


<i>Văn học và học văn</i> đã viết: "Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn
trước hết là ở cái giọng. Năng khiếu văn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt được
trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng cho tác phẩm
mình viết". Từ cách nhìn ấy, có thể thấy "chủ âm" trong giọng điệu của bài thơ


<i>Bảo kính cảnh giới số 43</i> không phải là "niềm vui rạo rực trước thiên nhiên trong
cảnh ngày hè" như nhiều tác giả đã nhận xét, mà là một niềm thao thức lớn trong
tâm hồn nhà thơ, một khát vọng cháy bỏng được khẳng định mình, được đem hết
sức lực, tâm huyết của mình, cống hiến cho dân, cho nước<i>. </i>Cái âm hưởng trữ tình
đặc biệt của bài thơ, theo chúng tơi, là ở đó.


4. Có một thực tế là cho đến nay, trong nhiều cuốn sách, văn bản bài thơ vẫn
chưa được thống nhất. Đối chiếu một số văn bản trong các sách Ngữ văn 10 và một
số sách tham khảo những năm qua, chúng tơi nhận thấy có sự không thống nhất về
chữ mở đầu bài thơ. Các tài liệu như <i>Nguyễn Trãi toàn tập</i> 5<sub>, sách giáo khoa </sub><i><sub>Văn</sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

"<i>Rồi hóng mát, thuở ngày trường</i>". Trong khi đó, ở một số tài liệu khác như <i>Quốc</i>
<i>âm thi tập6</i><sub>, </sub><i><sub>Mấy vấn đề về phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam</sub></i> 7<sub>, </sub><i><sub>Văn học 10</sub></i>
(Hội nghiên cứu giảng dạy thành phố Hồ Chí Minh) lại ghi là "<i>Rỗi hóng mát thuở</i>


<i>ngày trường</i>".


Từ "<i>rồi</i>" là một từ cổ. "<i>Rồi"</i> cũng có nghĩa giống<i> "rỗi"</i>đều được hiểu là thời
gian rỗi rãi. Tuy nhiên, chữ "<i>rỗi"</i> có vẻ hiện đại hơn so với chữ "<i>rồi</i>". Nhưng đó
chưa phải là điều quan trọng. Vấn đề là ở chỗ, sự thay đổi về thanh điệu sẽ làm mất
đi cái sắc màu cổ điển của câu thơ, phá vỡ cái giọng điệu rất riêng, chứa đầy thông
điệp của bài thơ, một yếu tố quan trọng mà sự cộng hưởng, tương hợp của nó với
những yếu tố khác trong câu thơ sẽ gợi mở nhiều điều thú vị về bài thơ. Từ cách
hiểu đó, theo chúng tơi, từ <i>rồi </i>trong văn bản sách giáo khoa hiện nay là hợp lý.
Cũng rơi vào trường hợp thiếu thống nhất về văn bản bài thơ là trường hợp
chữ "<i>tiễn" </i>ở câu 4. Sách giáo khoa những năm trước đây ghi là "<i>tịn",</i> còn <i>sách</i> giáo
khoa hiện nay lại ghi là"<i>tiễn"</i>. Nội dung chú giải về hai từ này hoàn toàn trái ngược
nhau. "<i>Tịn mùi hương" </i>được chú là "hết mùi hương". Trong khi đó, "<i>tiễn mùi</i>
<i>hương" </i>được chú là "toả hương ngào ngạt". Từ đó, hai câu "<i>Thạch lựu hiên cịn</i>
<i>phun thức đỏ/ Hồng liên trì đã tiễn mùi hươn</i>g" được hiểu là, "trong khi thạch lựu
ở hiên còn đang tiếp tục phun màu đỏ, thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương".
Sự thiếu nhất quán về văn bản và chú thích trong các sách giáo khoa và tài liệu
tham khảo đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp nhận ý nghĩa bài thơ của giáo
viên và học sinh. Nguyễn Ngọc San trong bài "<i>Thử bàn về vấn đề phiên Nôm" 8</i><sub> cho</sub>


rằng, chữ "<i>tịn</i>" cũng là hình thức cổ của "<i>tận</i>". "<i>Tịn</i>" hay "<i>tận</i>" cũng đều có nghĩa
là "hết". Theo ơng, ở thế kỉ XV do chịu ảnh hưởng của cách đọc cũ nên "<i>tịn</i>" được
viết thành "<i>tiễn</i>". Đào Duy Anh trong <i>Nguyễn trãi toàn tập</i> cũng giải nghĩa, "<i>tịn"</i>


tức "hết", cũng như "<i>tận"</i>. Ở nông thôn Thanh Nghệ người ta cịn nói <i>tịn </i>tức là hết.


<i>Đến tịn nơi </i>chứ khơng nói <i>tận.</i>


Theo chúng tơi, cách hiểu của ơng Nguyễn Ngọc San là hợp lý. Chữ "<i>tiễn" </i>ở
đây phải được hiểu là "hết" chứ không thể hiểu là "tỏa ngát" được. Theo cách hiểu


này, hai câu <i>Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn</i> <i>mùi hương </i>là tả
cảnh cuối mùa hạ chứ không phải là cảnh đương giữa mùa hạ. Điều đáng nói ở đây
là thiên nhiên vào thời điểm cuối hè trong con mắt nhà thơ vẫn tràn đầy sức sống.
Tất cả dường như đều muốn trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình. Cây hịe
trước hiên cứ như đang "<i>đùn đùn"</i> mà lên, đùn đùn mà toả rộng; cây lựu như đang
"<i>phun" </i>ra những tia màu đỏ chói, như muốn cháy hết mình một lần cuối để chuẩn bị
bước sang thu; Hoa sen đã "<i>tịn"</i> mùi nhưng trong tri giác của nhà thơ vẫn ngát
6Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập, Nxb Văn -Sử -Địa, H 1956, tr 43


7Nguyễn Sĩ Cẩn, Mấy vấn đề về phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam<i>, </i>Nxb Giáo Dục, H.1984, tr 131


8 Nguyễn Ngọc San, <i>Thử bàn về vấn đề phiên Nôm</i> Bài tham gia Hội nghị chữ Nôm Quốc tế (Ngày 12-14 tháng 11,


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

hương thơm (nói "khơng" là để nói "có", nói đã "hết" nhưng trong tri giác của nhà
thơ vẫn cịn. Cách hiểu này hồn tồn phù hợp với đặc điểm của thi pháp văn học
trung đại).


5. Bài <i>Bảo kính cảnh giới số 43 </i>của Nguyễn Trãi là một bài thơ có tính chất
răn dạy, giáo huấn nhưng cũng là bài thơ trong chùm thơ nói về tâm trạng của nhà
thơ trong cuộc sống nhàn dật. Đó là những bài thơ được sáng tác trong thời kỳ ơng
khơng cịn được nhà vua tin dùng. Tâm trạng ông luôn chứa đầy mâu thuẫn. Một
bên là lạc thú nhàn tản, một bên là nợ quân thần cần báo đáp. Vì vậy, dù sống
trong cảnh ẩn dật, nhưng lịng nhà thơ vẫn khơng n. Để hiểu đúng bài thơ, không
thể không lưu ý đến điều này.


Bài thơ được mở đầu bằng một câu thơ với những tín hiệu đặc biệt: "<i>Rồi</i>
<i>hóng mát thuở ngày trường". </i>Chữ "<i>rồi" </i>đứngđầu câu thơ tạo nên ý nghĩa nhấn mạnh
thời gian rỗi rãi. Ý nghĩa đó lại được bổ sung, khắc đậm bởi ba chữ "<i>thuở ngày</i>
<i>trường"</i> (<i>Thuở- ngày- trường</i> đều là những từ ngữ chỉ thời gian dài). Thêm vào đó,
nhịp ngắt 1/5 khiến cho câu thơ có một giọng điệu riêng. Tồn bộ câu thơ gợi lên


một ý nghĩa: thời gian trôi đi quá chậm! Xét về nghĩa tường minh, câu thơ diễn tả
một trạng thái ung dung, thảnh thơi của Nguyễn Trãi trong ngày hè như nhiều
người đã cảm nhận. Nhưng xét về nghĩa hàm ẩn, câu thơ không đưa đến một cảm
giác thú vị nào trong việc ngồi <i>"hóng mát"</i>. Cũng như cách Nguyễn Trãi ca ngợi thú


<i>nhàn</i> trong bài <i> Côn Sơn ca</i> :


<i> Cơn Sơn suối chảy rì rầm</i>
<i> Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai</i>


<i>Cơn Sơn có đã rêu phơi</i>
<i> Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm</i>
<i> Trong ghềnh thơng mọc như nêm</i>


<i>Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm</i>
<i> Trong rừng có bóng trúc râm</i>
<i> Dưới màu xanh ngát ta ngâm thơ nhàn.</i>


(Bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Trãi )


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

mạnh mẽ trong tâm hồn nhà thơ phần nào được hé lộ. Đó là nỗi khao khát đến cháy
bỏng được bộc lộ mình như những cây hoè, cây lựu, cây sen… Đây cũng là một
phương thức trữ tình quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi mà ta đã từng bắt gặp ở
bài <i>Tùng</i> . Ở đó, nhà thơ đã mượn hình ảnh cây tùng để gửi gắm nỗi khát khao
của mình: <i>Thu đến cây nào chẳng lạ lùng/Một mình lạt thuở ba đông… </i> Cây tùng
của Nguyễn Trãi cũng như những hình ảnh kia, khơng thể nhầm lẫn với "rừng
tùng" nói chung trong văn học. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi
mang một vẻ đẹp độc đáo vì nhà thơ đã hóa thân, hóa hồn vào trong đó.


Nếu như trung tâm chú ý của nhà thơ ở những câu đầu là màu sắc, hương


thơm của cảnh vật thì ở những câu sau, nhà thơ lại hướng tới âm thanh - những âm
thanh của niềm vui: tiếng <i>lao xao chợ cá </i>nơi đông người và tiếng ngân vang của
những "nhạc sĩ mùa hè". Những âm thanh đó hịa trộn vào nhau gợi hình ảnh một
cuộc sống trù phú, thanh bình, yên ả của làng quê trong cảnh đất nước được giải
phóng. Thế nhưng, lắng sâu trong những âm thanh đó, tiếng <i>lao xao chợ cá</i> từ xa
vọng lại, tiếng <i>cầm ve</i> trong buổi chiều tà, dường như ẩn chứa một nỗi bâng
khuâng thầm kín trong tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ. Và nỗi niềm của Nguyễn
Trãi được bộc lộ trực tiếp trong hai câu kết:


<i>Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng</i>
<i> Dân giàu đủ, khắp địi phương.</i>


Nguyễn Trãi khát khao có được cây đàn của vua Thuấn ngày trước để ca
ngợi cuộc sống hôm nay. Câu thơ 6 chữ kết đọng điều tác giả hằng mong mỏi, tâm
niệm suốt đời. Thì ra, trong cảnh nhàn nhã, Nguyễn Trãi trước sau vẫn là "<i>Bui một</i>
<i>tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông</i>". Thêm một lần nữa, ta
hiểu cái "<i>rồi hóng mát" </i> ở câu mở đầu bài thơ chỉ là một cách nói. Tâm hồn ơng
khơng bao giờ ngơi nghỉ. Thân có <i>nhàn</i> nhưng tâm chẳng bao giờ <i>nhàn</i>. Khát vọng
thường trực của ông là được đem tài năng, sức lực của mình cống hiện cho dân,
cho nước.


6. Kết luận


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đó, thiết nghĩ khơng nên đặt nhan đề cho bài thơ là <i>Cảnh ngày hè</i> mà nên giữ
nguyên nhan đề như nó bấy lâu nay đã từng tồn tại .


Chúng tôi luôn ý thức một cách sâu sắc rằng, thấu cảm và truyền thụ được
cho học sinh cái hay, cái đẹp của một bài thơ trữ tình tinh tế, sâu sắc như bài <i>Bảo</i>
<i>kính cảnh giới số 43</i> của Nguyễn Trãi là một cơng việc hết sức khó khăn. Một tác
phẩm hay khơng bao giờ là một tác phẩm dễ hiểu, đơn nghĩa. Vẻ đẹp tinh tế của nó


ln tiềm ẩn, mở ngỏ cho mọi sự tìm tịi, khám phá. Vì vậy, những ý kiến trên đây
của chúng tôi chỉ là một trong những cách hiểu, một hướng tìm tịi. Qua thực tế
giảng dạy bài thơ trên ở lớp 10 trong nhiều năm qua, chúng tôi nhận thấy về cơ
bản, các em có hứng thú học tập và tỏ ra tiếp nhận được những giá trị cơ bản của
bài thơ. Chính điều đó đã giúp chúng tơi tự tin hơn về cách hiểu và hướng khai
thác trên đây của mình.


</div>

<!--links-->
chuẩn bị văn bản và thủ tục làm đăng ký kinh doanh
  • 28
  • 370
  • 0
  • ×