Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một vài biện pháp tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử đền quốc mẫu phạm thị ngọc trần trên quê hương thọ xuân cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.56 KB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, Lịch sử là môn học
có vị trí và vai trị quan trọng trong việc trang bị kiến thức cơ bản về lịch sử
dân tộc, góp phần giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, truyền thống quý
báu của dân tộc Việt Nam, góp phần không nhỏ trong việc đáp ứng mục tiêu
giáo dục nhằm “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, trung thành
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.” [1]
Để đạt được mục đích trên, giáo viên phải có những phương pháp dạy học
hiệu quả, tích cực nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi
dưỡng học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập đối
với mơn học. Trong đó, giáo viên có thể vận dụng các hình thức tổ chức dạy học
khác nhau đặc biệt học qua trải nghiệm tham quan dã ngoại là một trong những
cách thức sáng tạo và đem lại hiệu quả tích cực.
Nhưng thực tế hiện nay, việc tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại trong
dạy học lịch sử vẫn chưa được tiến hành một cách thường xuyên và rộng rãi.
Một trong những nguyên nhân là do giáo viên cịn gặp khó khăn trong việc xây
dựng kế hoạch dạy học làm sao để vừa hấp dẫn lại vừa phát huy được năng lực
của học sinh. Mặt khác, nhiều giáo viên dạy Lịch sử ở các trường phổ thông
chưa thực sự quan tâm đến nhu cầu tìm hiểu, khám phá lịch sử của học sinh nên
khơng tạo được hứng thú học tập lịch sử cho các em, không chú trọng quan tâm
đầu tư vào việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử một cách đồng bộ và có
hiệu quả, dẫn đến việc học sinh khơng quan tâm học lịch sử, tâm lý nhàm chán,
đối phó trong học lịch sử xuất hiện. Điều đó phản ánh rõ nét ở kết quả các kỳ thi
tuyển sinh, tốt nghiệp cấp quốc gia những năm gần đây.
Vậy, vấn đề đặt ra là phải làm sao khôi phục được bức tranh lịch sử sinh
động trước mắt học sinh, làm thế nào để học sinh có những ấn tượng sâu sắc về
bài học lịch sử. Việc khai thác và sử dụng di tích lịch sử tại địa phương vào dạy
học lịch sử ở các trường phổ thơng có một vai trị, ý nghĩa to lớn, là một biện


pháp thiết thực đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học bộ mơn. Bởi vì, mỗi di tích gắn với sự kiện, với nhân vật lịch sử, với quá
trình phát triển của lịch sử dân tộc, đó là sự cụ thể hoá lịch sử một cách sống
động nhất, nhằm thực hiện chức năng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển, góp
phần tích cực trong việc gắn liền nhà trường với đời sống xã hội.
Thọ Xuân là một trong những địa phương có số lượng di tích lịch sử khá
phong phú và đa dạng. Các di tích ấy hầu hết đã được nhà nước thống kê, xếp
hạng và trở thành những địa điểm tham quan, địa điểm tưởng niệm, đây là
nguồn tư liệu rất phong phú, là phương tiện trực quan rất có giá trị để cụ thể hóa,
minh chứng cho những sự kiện, những chiến công oanh liệt của nhân dân Thanh
Hóa qua các thời kì. Tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử cách mạng trên quê
hương Thọ Xn khơng chỉ giúp học sinh có được những biểu tượng cụ thể, sinh
động về cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng không kém phần hào hùng
của dân tộc ta mà còn bồi dưỡng cho học sinh lòng tự hào về truyền thống đấu
1


tranh của quê hương Thọ Xuân, giúp các em nhận thức đúng đắn những đóng
góp to lớn của Thọ Xuân trong tiến trình lịch sử dân tộc. Cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm đã đi qua, nhưng những di tích cách mạng nơi đây vẫn còn in
đậm và sáng ngời mãi những chiến cơng của dân tộc.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về hoạt động trải nghiệm trong
dạy học môn Lịch sử rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, nghiên cứu về cách
thức tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử Đền Quốc mẫu
Phạm Thị Ngọc Trần trên quê hương Thọ Xuân vẫn chưa được đề cập đến; giáo
viên trên địa bàn cũng chưa có sáng kiến kinh nghiệm nào biết tận dụng di tích
lịch sử cách mạng này trong việc dạy học mơn Lịch sử.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học Lịch sử ở trường phổ thơng hiện nay nói
chung và địa phương Thọ Xuân nói riêng, cũng như yêu cầu của việc đổi mới
hình thức, phương pháp dạy học Lịch sử phù hợp với chương trình giáo dục phổ

thơng mới, tơi lựa chọn đề tài: “Một vài biện pháp tổ chức hoạt động tham
quan dã ngoại tại di tích lịch sử đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần trên quê
hương Thọ Xuân cho học sinh THPT” với mong muốn đề xuất một số kế
hoạch, cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tham quan dã ngoại phù hợp,
hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Lịch sử ở trường THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động tham
quan dã ngoại trong dạy học Lịch sử, đề tài xác định mục tiêu, lựa chọn nội
dung, và đề xuất một số biện pháp xây dựng và tổ chức hoạt động trải nghiệm
qua hình thức tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử đền Quốc mẫu Phạm Thị
Ngọc Trần trên quê hương Thọ Xuân cho học sinh THPT. Đồng thời, dựa trên
kết quả thực nghiệm tại trường THPT trên địa bàn huyện, tôi đưa ra kết luận cải
tiến phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm hiệu quả, góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học mơn Lịch sử ở trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại trong dạy học Lịch
sử tại di tích lịch sử Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần ở xã Xuân Hoà, huyện
Thọ Xuân cho học sinh THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: đọc và phân tích, tổng hợp các tài liệu
chuyên khảo, tài liệu lịch sử, phương pháp dạy học lịch sử, chương trình, sách
giáo khoa lịch sử phổ thơng và các tài liệu khác có liên quan.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: tiến hành quan sát, điều tra bằng phiếu đối
với giáo viên và học sinh, trải nghiệm thực tế tại địa bàn, đối chiếu với kết quả
điều tra.
1.5. Những điểm mới của KKKN.
- Đề xuất được một số kế hoạch tổ chức hoạt đơng tham quan dã ngoại hồn
tồn mới: di tích lịch sử đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần tại xã Xuân Hoà,
huyện Thọ Xuân.
- Cũng vẫn sử dụng phương pháp khảo sát giáo viên và học sinh trên địa bàn

nhưng hệ thống câu hỏi khảo sát dựa trên cơ sở học sinh đã từng được tham
2


quan học tập tại di tích lịch sử ít nhất một lần (các khảo sát trước hầu như học
sinh chưa từng được học tập trải nghiệm theo hình thức này).
- Đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động học tập tham quan dã ngoại tại di
tích lịch sử ở trường phổ thông trên địa bàn hiện nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Khái niệm về di tích, di tích lịch sử.
Theo ý nghĩa ban đầu, “di tích (vestiges) chỉ các vết tích cịn sót lại của
một thời đã qua, khơng để lại cho chúng ta hơm nay một cái gì cịn ngun vẹn”
[2] hay “di tích là những dấu vết của dĩ vãng cịn để lại một cách tự nhiên,
khơng nhằm mục đích lưu giữ quá khứ hay chĩ dẫn cho người đời sau biết về
q khứ” [3]. Di tích cịn gồm những hiện vật bằng vật chất như nhà cửa, thành
quách, y phục, cơng cụ lao động, lăng mộ…
Di tích lịch sử phản ánh những hoạt động, đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa
của con người qua các thời đại. “Bất cứ thời đại nào, trình độ phát triển mọi mặt
của nó đều được phản ánh khá rõ trong các di tích lịch sử. Vì vậy, di tích lịch sử là
những tấm gương soi của lịch sử, là hơi thở của lịch sử đương thời” [4]
Như vậy, một di tích được xác định là di tích lịch sử “là nó phải có thực
từ trước và được lưu giữ đến ngày nay, bao giờ cũng gắn liền, phản ánh, ghi
nhận, minh chứng một sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc biệt là những sự kiện lịch
sử lớn, quan trọng” [5].
Di tích lịch sử ở xã Xn Hịa huyện Thọ Xn tuy khơng đa dạng nhưng
có đặc điểm khá đặc thù đó là di tích đó gắn với nhân vật, sự kiện lịch sử tiêu
biểu của nhiều thời kỳ lịch sử dân tộc.
Như vậy, trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các di tích lịch
sử nói chung và di tích lịch sử ở địa phương nói riêng là những bằng chứng về

truyền thống lịch sử - văn hóa của quốc gia, dân tộc của từng địa phương qua
nhiều thế hệ, gắn với sự phát triển của xã hội cũng như những bước thăng trầm
trong lịch sử khai phá, xây dựng, đấu tranh để giữ gìn và phát huy những thành
quả đạt được, những giá trị truyền thống, để cuối cùng tạo nên bản sắc văn hóa
Việt Nam.
2.1.2. Cơ sở xuất phát điểm của vấn đề sử dụng di tích lịch sử trong dạy học
Lịch sử ở trường phổ thông.
2.1.2.1. Mục tiêu giáo dục của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông.
Mục tiêu giáo dục của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông được xây dựng
trên cơ sở lý luận và thực tiễn, thể hiện tập trung ở việc quán triệt mục tiêu
chung của giáo dục phổ thông, thông qua chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng, nội
dung của môn học và tình hình, nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong những điều
kiện cụ thể.
Luật giáo dục được Quốc hội thông qua năm 2005 đã nêu: “Mục tiêu của
giáo dục phổ thơng là giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm của công dân,
3


chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [6]
2.1.2.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thơng
Lịch sử mang tính q khứ, bao gồm những sự kiện, hiện tượng đã xảy
ra, nó tn thủ theo tiến trình thời gian. Chúng ta phải tiếp nhận lịch sử một
cách gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại.
Lịch sử mang tính khơng lặp lại về không gian và thời gian. Mỗi sự kiện,
hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một không gian và thời gian nhất định, chỉ
xảy ra một lần duy nhất. Khơng có một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào hồn
tồn giống nhau, dù có điểm giống nhau, lặp lại mà là sự kế thừa “lặp lại trên cơ

sở khơng lặp lại”. Chính điều đó đã gây nên những trở ngại trong việc giáo viên
cung cấp kiến thức cho học sinh nhớ sự kiện lịch sử.
Lịch sử có tính cụ thể, nên khi trình bày các sự kiện lịch sử rất cần phải cụ
thể, sinh động.
Để thực hiện được yêu cầu này, người giáo viên Lịch sử phải vận dụng
nhuần nhuyễn nhiều phương pháp dạy học, trong đó đồ dùng trực quan nhất là
các đồ dùng trực quan hiện vật (các di tích lịch sử) góp một phần
khơng nhỏ quyết định thành bại việc cung cấp kiến thức cho học sinh. Nó
giúp các em khơng chỉ “biết” mà còn “hiểu” lịch sử đã diễn ra như thế nào một
cách chân thực nhất, sống động nhất.
2.1.2.3. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử.
Việc đổi mới chương trình SGK hiện nay đặt ra yêu cầu bức thiết là phải
đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Qua tìm hiểu, so với một số nước trong
khu vực và trên thế giới, mặt bằng kiến thức ở trường phổ thơng chúng ta khơng
thua kém gì họ, thậm chí cịn hơi nặng và học sinh ta khi đua tài chất xám trong
các kỳ thi quốc tế cũng khẳng định được thứ hạng cao. Nhưng, chúng ta lại thua
họ ở kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức khoa học và năng lực hoạt động độc
lập.
Thực tế hiện nay, nhiều giáo viên Lịch sử chưa hiểu hết hoặc “ngại” khai
thác nội dung kênh hình, nên bỏ qua hoặc hiệu quả sử dụng chưa cao. Hạn chế
đó khơng thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học, cũng như
khơng hồn thành mục tiêu giáo dục đã đề ra. Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu
bức thiết phải đổi mới phương pháp dạy học để đáp ứng việc đổi mới về nội
dung và mục tiêu giáo dục đặt ra.
2.1.3. Vai trị, ý nghĩa của hình thức tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại
trong dạy và học Lịch sử.
- Thứ nhất, hình thức tổ chức tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử nhằm minh
họa, bổ sung tri thức lịch sử đã dược học.“Hình thức tham quan phù hợp với
những nội dung lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương. Nơi tham quan có thể là
bảo tàng, di tích lịch sử, cũng có thể là các cơ sở sản xuất, văn hóa,... Có thể

tiến hành trong những ngày bình thường hoặc những dịp kỉ niệm những ngày lễ
lớn của dân tộc” [12].
- Thứ hai: Việc tổ chức tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương có ý
nghĩa nhiều mặt đối với việc nâng cao chất lượng học tập lịch sử của học sinh.
Qua buổi tham quan, học sinh sẽ nhớ chính xác, hiểu đúng các sự kiện lịch sử.
4


Các kỹ năng thực hành bộ môn cũng sẽ được rèn luyện nhiều hơn. Ngồi ra, các
em cịn thể hiện rõ cảm xúc lịch sử khi tham quan các di tích lịch sử của quê
hương, nâng cao niềm tự hào về quê hương, đất nước.
- Thứ ba: Các trường THPT tùy điều kiện của trường mình tổ chức cho học sinh
tham quan theo phân phối chương trình. Buổi tham quan chỉ có hiệu quả khi
được chuẩn bị chu đáo, có kế hoạch và phương pháp tiến hành tốt, có sự phối
hợp tổ chức của giáo viên và tổ bộ môn Lịch sử, đoàn thanh niên, chi đoàn giáo
viên, Ban giám hiệu, Cơng đồn trường, ban quản lý di tích và sự tham gia nhiệt
tình của học sinh.
- Thứ tư: Các nhà giáo dục học đã khẳng định ý nghĩa của tham quan nói chung
và tham quan dã ngoại di tích lịch sử nói riêng trong q trình dạy học. Nó góp
phần tạo những biểu tượng cụ thể về những sự kiện lịch sử liên quan. Những gì
các em quan sát được trong thời gian tham quan sẽ được sử dụng trong những
giờ học lịch sử trên lớp như những tài liệu thực tế, làm cơ sở hình thành các khái
niệm lịch sử. Tham quan còn nhằm kiểm tra, sữa chữa, làm chính xác, cụ thể
hóa thêm những tri thức đã học của học sinh.[8]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng về di tích lịch sử Thọ Xn nói chung và di tích lịch sử
văn hoá Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần ở xã Xn Hịa nói riêng.
Thọ Xn là vùng đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống văn hiến, núi sơng
cẩm tú, con người cần cù, giản dị, giàu lịng yêu nước. Thọ Xuân là đất thang
mộc của hai vương triều hiển hách (Tiền Lê và Hậu Lê ) để lại những dấu son

sáng chói trong lịch sử Việt Nam. Đất Thọ Xuân đã sinh ra những vị anh hùng
mở nước, giải phóng dân tộc.Từ Lê Đại Hành hồng đế (Lê Hoàn) đến Thái tổ
cao hoàng đế (Lê Lợi), Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) - nhân vật của mọi thời
đại đã làm cho Thọ Xuân trở thành vùng đất được mọi người dân Việt Nam và
thế giới hướng về với tấm lòng ngưỡng mộ.
Huyện Thọ Xuân khá phong phú về tiềm năng du lịch cả về cảnh quan, văn
hóa, di tích lịch sử, là một huyện có bề dày lịch sử, văn hóa cách mạng với 56 di
tích được xếp hạng, trong đó có 1 Di tích Quốc gia đặc biệt, 12 Di tích Quốc gia
và 43 Di tích cấp tỉnh.
Xuân Hòa là một xã thuộc huyện Thọ Xuân, nằm ở phía Tây Bắc, cách
trung tâm huyện 2 km. Xuân Hòa là một vùng quê giàu truyền thống cách mạng
của tỉnh Thanh Hóa, là địa chỉ tin cậy của cách mạng tỉnh. Về mặt di tích lịch sử:
Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần - xã Xuân Hòa huyện Thọ Xn năm 2015
được cơng nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Nhưng, cũng như nhiều nơi khác, các di tích lịch sử cách mạng ở Thọ Xuân
đã và đang trải qua nhiều hiểm họa, bị phá hủy do thời gian ngày càng lùi xa,
thiên nhiên khắc nghiệt và bản thân con người. Việc sử dụng di tích đa số phục
vụ cho nhu cầu tham quan du lịch, cịn việc khai thác các di tích nhằm phục vụ
cho việc dạy học Lịch sử ở trường phổ thơng thì vẫn cịn hạn chế. Các di tích
lịch sử địa phương ở Thọ Xuân có được đưa vào sử dụng cũng chỉ nhằm giáo
dục truyền thống yêu nước cho học sinh thơng quan các hoạt động của đồn
thanh niên, các hoạt động giới thiệu của hướng dẫn viên du lịch chứ khơng phải
thơng qua sự hướng dẫn, giải thích, phân tích của giáo viên dạy bộ môn Lịch sử.
5


2.2.2. Thực trạng việc sử dụng di tích lịch sử- cách mạng địa phương trong
dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT Thọ Xuân.
Xuất phát từ những hạn chế trong dạy và học Lịch sử cũng như nhận thức
rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại tại

di tích lịch sử trong dạy học môn Lịch sử ở trường THPT, tôi đã tiến hành khảo
sát ý kiến của GV và HS về thực trạng tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại tại
di tích lịch sử.
2.2.2.1. Đối tượng khảo sát.
Việc điều tra khảo sát được tiến hành đối với GV và HS các lớp khối 11 tại
trường THPT Lam Kinh, THPT Thọ Xuân 5 thuộc huyện Thọ Xuân, thông qua
phiếu thăm dò ý kiến và phỏng vấn GV và HS.
2.2.2.2. Nội dung, kết quả khảo sát. (Xem phụ lục 1,2)
Thứ nhất, quan niệm của GV về mức độ cần thiết của việc tổ chức
tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử cho HS trong dạy học môn Lịch sử ở
trường THPT.
Kết quả cho thấy, có 62,5% GV cho là rất cần thiết và có tới 37,5% cho rằng cần
thiết. Điều này chứng tỏ thực tế việc triển khai chủ trương đổi mới phương pháp
dạy học trong những năm qua đã có tác động tích cực đến nhận thức của GV. Đã
phần nào đó thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức tham quan dã
ngoại tại di tích lịch sử trong dạy và học Lịch sử ở trường THPT.
Thứ hai, quan niệm của HS về hình thức tổ chức tham quan dã ngoại tại
di tích lịch sử.
Kết quả cho thấy, có tới 54,9% HS chưa từng được tham gia hoạt động này và
chỉ có 44,1% HS đã được tiếp xúc ở các mức độ khác nhau. Rất hứng thú với
hoạt động chiếm 35,3%, ý kiến khẳng định hứng thú chiếm 43,1% và có tới
21,6% ý kiến bình thường với hoạt động này, khơng có ý kiến nào khơng hứng
thú với hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử.
Điều này cũng chứng tỏ mức độ quan tâm của HS đối với hoạt động tham quan
dã ngoại là rất lớn nhưng với thực trạng hiện nay, việc tổ chức hoạt động tham
quan dã ngoại còn chưa được thường xuyên và hiệu quả vì thế dẫn tới tình trạng
một bộ phận HS chưa nhận thức rõ ý nghĩa và vai trò của hoạt động này.
Thứ ba, quan niệm của GV và HS về mức độ tổ chức hoạt động tham
quan dã ngoại trong dạy học môn Lịch sử.
Về phía GV, có tới 75% GV thỉnh thoảng sử dụng các hình thức khác nhau trong

việc tổ chức hoạt động trải nghiệm, có 25% GV rất ít sử dụng và khơng có GV
nào thường xun sử dụng.
Về phía HS, có 36,3% HS đã nói rằng GV thỉnh thoảng mới sử dụng các hoạt
động tham quan dã ngoại trong dạy học mơn Lịch sử, chỉ có khoảng19,5% HS
nói rằng GV thường xuyên sử dụng, có 26,5% HS nói rằng GV rất ít khi sử dụng
các hình thức này và GV khơng bao giờ sử dụng chiếm 17,7%.
Qua ý kiến của HS cho thấy, GV cũng đã khai thác các hình thức khác nhau để
tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tế trong dạy học môn Lịch sử cho học
sinh nhưng mức độ cịn ít, số lượng GV sử dụng rất ít và thậm chí không bao giờ
sử dụng cũng chiếm một phần khá lớn. Điều ấy phản ánh rất đúng thực trạng
dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
6


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Quy trình tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa
phương trong dạy học Lịch sử.
- Đầu năm học, giáo viên lên kế hoạch về buổi tham quan ngoại khóa tại di
tích lịch sử và đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường, tổ bộ mơn.
- Dự trù kinh phí cho buổi tham quan:
+ Dự trù kinh phí từ hội phụ huynh học sinh và Ban giám hiệu nhà trường.
+ Chi phí các khoản: thuê xe, mua nước, các đồ dùng liên quan.
- Trước buổi tham quan 2 tuần: cần chuẩn bị theo các bước sau
+ Bước 1. Chọn đề tài (đặt tên) và xác định mục tiêu của buổi tham quan
dã ngoại tại di tích lịch sử.
Cơng việc của giáo viên: Giáo viên phân chia lớp thành các nhóm, hướng
dẫn người học đề xuất, xác định chủ đề, định hướng cho học sinh về mục buổi
tham quan dã ngoại.
Công việc của học sinh: Học sinh lắng nghe và tiếp thu những gợi ý, định
hướng về đề tài của giáo viên, của nhóm làm việc.

+ Bước 2. Xây dựng đề cương buổi tham quan dã ngoại.
Công việc của giáo viên: hướng dẫn cho học sinh xác định nội dung,
phương pháp, phương tiện, thời gian dự kiến, nguồn tài liệu, kinh phí thực hiện.
Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng “bộ câu hỏi khung” liên quan đến
những vấn đề của buổi tham quan dã ngoại.
Công việc của học sinh: Sau khi đã được phân cơng vào các nhóm, các
nhóm thống nhất kế hoạch cụ thể thực hiện nhiệm vụ. Giáo viên hướng dẫn, gợi
ý học sinh cách thức thu thập thông tin (lấy ở đâu, lấy bằng cách nào, phương
tiện gì), cách xử lý thơng tin (lựa chọn thơng tin có giá trị phải đảm bảo độ tin
cậy và có ý nghĩa), cách tổng hợp và trình bày kết quả.
+ Bước 3. Thực hiện hoạt động.
Công việc của giáo viên: Gặp gỡ thường xun các nhóm để biết rõ tiến
trình làm việc của từng nhóm, kịp thời giúp đỡ và điều chỉnh những vướng mắc.
Công việc của học sinh: Thực hiện hoạt động theo nội dung.
+ Bước 4. Trình bày sản phẩm.
Kết quả của việc buổi tham quan dã ngoại tại di tích có thể được viết dưới
dạng ấn phẩm (bản tin, tập san, báo, áp phích, thu hoạch, báo cáo…) và có thể
được trình bày trên power point, được thiết kế thành các đoạn phim, video…
Bước 5. Đánh giá kết quả hoạt động tham quan dã ngoại.
Công việc của học sinh: Các nhóm trình bày kết quả thực hiện của nhóm
mình. Các nhóm khác theo dõi, thảo luận, trao đổi, nhận xét, đóng góp ý kiến về
kết quả làm việc của nhóm bạn. Học sinh các nhóm đánh giá lẫn nhau và tự
đánh giá kết quả của nhóm mình.
Cơng việc của giáo viên: Giáo viên nhận xét quá trình thực hiện hoạt động
và sản phẩm của mỗi nhóm; rút kinh nghiệm qua việc thực hiện hoạt động của
các nhóm. Giáo viên lưu kết quả hoạt động vào hồ sơ của học sinh.
- Giáo viên liên hệ trước với người phụ trách di tích, gặp gỡ, trao đổi và
thảo luận, trình bày rõ mục đích, yêu cầu của buổi tham quan học tập tại di tích
7



lịch sử để có kế hoạch phối hợp tạo điều kiện cho buổi tham quan đạt kết quả tốt
nhất.
+ Tìm hiểu những tranh ảnh, tư liệu, hiện vật có liên quan đến nội dung bài
học sẽ hướng dẫn học sinh tham quan học tập.
+ Chuẩn bị bài tập cho học sinh làm sau buổi tham quan dã ngoại.
- Trước buổi tham quan 1 ngày:
+ Phổ biến mục đích, yêu cầu của tham quan, những công việc của các em
phải làm khi tham quan, thời gian, địa điểm cụ thể.
+ Giao bài tập cho học sinh làm sau buổi tham quan.
2.3.2. Tiến trình tổ chức hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử
Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần trên quê hương Xuân Hòa, Thọ Xuân.
2. 3. 2. 1. Các bước tiến hành.
Bước 1: Chọn đề tài và xác định mục đích của buổi tham quan dã ngoại.
a. Lựa chọn chủ đề của buổi tham quan: “Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh - nơi ghi dấu một người quyên sinh vì đại
nghĩa”.
b. Xác định mục tiêu chủ đề của buổi tham quan dã ngoại:
- Kiến thức:
+ Biết được thời gian, địa điểm xây dựng ngôi đền.
+ Biết được giá trị lịch sử, văn hóa của ngơi đền.
+ Biết được hành động hi sinh của Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần.
- Kĩ năng:
+ Phát triển kĩ năng phân tích, thu thập và xử lý thơng tin, trình bày trước tập
thể.
+ Biết tìm kiếm thơng tin qua nhiều phương tiện khác như: sách, báo, mạng.
+ Có khả năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác và tổ chức để thực hiện buổi
tham quan dã ngoại có hiệu quả.
- Thái độ:
+ Hứng thú và say mê học môn Lịch sử đặc biệt là Lịch sử địa phương Thọ
Xuân.

+ Thêm tự hào về mảnh đất và con người Thọ Xuân, biết gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa tinh thần của địa phương.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch buổi tham quan dã ngoại tại Đền Quốc mẫu
Phạm Thị Ngọc Trần.
- Đối tượng: lớp 11C5, trường THPT Lam Kinh.
- Thành phần tham gia: GVCN lớp, GV bộ môn Lịch sử, học sinh.
- Địa điểm : Di tích lịch sử văn hố cấp tỉnh - Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc
Trần tại xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân.
- Quản lý chung: Giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm chia học sinh thành
các nhóm nhỏ và yêu cầu học sinh quản lý và làm việc theo nhóm.
- Xây dựng nội quy buổi tham quan dã ngoại.
+ Lớp chia thành 3 nhóm theo tổ. Tổ trưởng đứng đầu mỗi nhóm quản lý các
thành viên trong nhóm.
8


+ Các nhóm thành viên phải tuân thủ theo sự quản lý của trưởng nhóm và giáo
viên chủ nhiệm.
+ Phải đi theo đồn, khơng tách đồn đi một mình.
+ Khơng vứt rác bừa bãi. Thực hiện qui định của di tích.
+ Thực hiện theo nhiệm vụ được phân cơng và tuân thủ thời gian quy định.
- Xác định thời gian: 1 buổi sáng
Bước 3: Thực hiện buổi tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử.
a. Thu thập thơng tin:
- Giáo viến hướng dẫn học sinh đi thực địa thu thập thông tin thông qua quan
sát, phỏng vấn trực tiếp Ông Nguyễn Văn Minh – Cán bộ văn hóa xã Xuân Hòa,
đồng thời làm việc với Ban quản lý di tích.
- Nhận thơng tin về di tích đền trên các phương tiện như sách, báo, đài….
- Tìm hiểu vị trí địa lí và lịch sử của xã Xn Hịa.
- Phương tiện thực hiện: máy ảnh, máy quay phim, vở ghi chép.

- Sau khi thu thập thơng tin xong, các nhóm tập trung lại, ghi vào phiếu học tập
xem mình đã học tập được những gì qua buổi tham quan.
b. Xử lí thơng tin.
- Qua việc thu thập những dữ liệu trên, học sinh phân tích, tổng hợp và đưa ra
kết luận vào các nhiệm vụ trong phiếu học tập.
- Các nhóm có khó khăn có thể gặp giáo viên để xin ý kiến giúp đỡ.
Bước 4: Trình bày sản phẩm.
- Học sinh chỉnh sửa ảnh, xây dựng Video clip, tập hợp số liệu đã thu thập về
Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần.
- Thiết kế sản phẩm: tập san ảnh, Video về Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần,
về quê hương Xn Hịa trong thời kì đổi mới.
- Chuẩn bị khơng gian cho báo cáo, đại diện các nhóm lên trình bày.
- Tập thể lớp và giáo viên đưa ra các câu hỏi trao đổi về nội dung báo cáo.
Bước 5:Đánh giá hoạt động trải nghiệm tham quan dã ngoại tại di tích lịch
sử.
Để cho bản thân học sinh tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau; sau đó giáo viên
đánh giá năng lực của học sinh.
2. 3. 2. 2. Kết quả cụ thể của từng hoạt động.
Sau khi di chuyển bằng xe ô tô với chiều dài 10km bắt đầu từ điểm xuất
phát là trường THPT Lam Kinh đến địa bàn xã Xuân Hòa, xe sẽ dừng lại trước
tấm biển ngay trên trục đường lớn: “Di tích lịch sử - văn hoá Đền Quốc mẫu
Phạm Thị Ngọc Trần”.
* Hoạt động 1: Tham quan
- Thời gian: 40 phút
- Mục đích: Giới thiệu cho học sinh về quê hương Xuân Hòa, Thọ Xuân.
- Hình thức: HS đi tham quan các địa điểm chính của xã Xn Hồ.
Bắt đầu đến địa bàn xã Xn Hịa, học sinh đóng vai một hướng dẫn viên du lịch
giới thiệu về quê hương Xuân Hòa, Thọ Xuân. Em Nguyễn Thị Huyền, lớp11C5
là người đảm nhận vai trò này.
“Kính thưa quý khách!

9


Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, người ta thường nhắc đến những vị nam
tử anh hùng, xả thân bảo vệ giang sơn xã tắc chứ ít khi nhắc đến những người
phụ nữ cũng vì hai chữ ”giang sơn” mà dám hi sinh thân mình để bảo vệ sơn
hà. Một trong số những người phụ nữ có tấm lịng hi sinh cao cả đó chính là
Phạm Thị Ngọc Trần, vợ của vua Lê Lợi – thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Một năm trước đây, tại xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân chúng ta đã từng
đến thăm di tích lịch sử cách mạng – nhà ông Hồ Sỹ Nhân. Hôm nay cũng trên
mảnh đất này, tôi rất vinh dự được dẫn đồn đến thăm di tích lịch sử văn hố–
đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần - một địa chỉ cách chúng ta khơng xa
nhưng nhiều người cịn chưa hiểu rõ, thậm chí là chưa biết đến.
Xã Xn Hịa cách trung tâm huyện Thọ Xuân hơn 2km về phía Tây Bắc,
là vùng đất cổ nằm trong các địa danh đã được ghi trong lịch sử các triều đại
phong kiến Việt Nam, có dịng sơng Chu và đường giao thơng lớn chạy qua nên
xã Xn Hịa có nhiều điều kiện giao lưu xi ngược và phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Cũng như bao làng xã khác, từ những cư dân đầu tiên đến định cư, đời
nối đời qua bao thế hệ đã cải tạo gò đầm trở thành những cánh đồng thẳng
cánh cò bay, những triền bãi quanh năm xanh mướt rau màu, những xóm làng
trù phú đơng vui với những vườn cây cho đầy hoa trái. Là cư dân nông nghiệp,
sinh sống trên vùng đất nắng lắm, mưa nhiều, dư thừa bão lũ đã hun đúc cho
người dân Xuân Hịa tính kiên trì, sáng tạo, cần cù và năng động dù sống trong
hịa bình hay khi đất nước có chiến tranh. Cũng từ cuộc sống luôn đối mặt với
thiên tai khắc nghiệt, với kẻ thù tàn bạo đã tạo dựng cho người dân Xn Hịa
mối quan hệ xóm giềng, cộng đồng đầy tính nhân văn “tối lửa tắt đèn có nhau”.
Nằm trên mảnh đất Thọ Xuân “địa linh nhân kiệt”, người dân Xn Hịa
đã sớm hình thành lịng u quê hương đất nước, sớm biết cầm vũ khí để chống
lại kẻ thù xâm lược. Từ những năm 30 của thế kỉ XX, khi Đảng Cộng sản Việt

Nam ra đời, cách mạng Việt Nam chuyển sang trang sử mới, nhân dân Xuân
Hòa đã một lòng theo con đường Đảng đã vạch ra. Trải qua cuộc đấu tranh
đánh Pháp, đuổi Nhật, kháng chiến trường kì chống Mỹ, chống chiến tranh biên
giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, hàng ngàn người dân Xuân Hòa, lớp cha
trước lớp con sau đã hăng hái tham gia các tổ chức cách mạng, vào quân đội,
vào công an, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đóng góp cơng sức,
xương máu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người con
ưu tú của xã Xuân Hòa đã yên nghỉ hoặc để lại một phần cơ thể trên những nẻo
đường chiến đấu khắp Bắc -Trung - Nam.
Xuân Hòa cũng là vùng đất có truyền thống học hành thi cử. Cách đây
gần 500 năm đã từng có người đậu tiến sĩ, cử nhân, được bổ nhiệm làm quan
trong triều, ngoài trấn, để lại những dấu ấn trong lịch sử văn hóa nước nhà.
Những năm đầu thế kỉ XX, Xn Hịa cũng đã có nhiều theo học và đỗ đạt ở các
trường văn hóa của chế độ cũ. Từ năm 1954 trở lại đây, phong trào học tập của
Xuân Hòa càng được nâng cao. Hàng ngàn cơng dân Xn Hịa đã có bằng cử
nhân, đại học, cao đẳng, nhiều người đã phấn đấu đạt học vị tiến sĩ, thạc sĩ.
Nhiều người được nhà nước phong tặng học hàm giáo sư, phó giáo sư. Đội ngũ
10


tri thức đó đã đóng góp tri tuệ của mình vào sự nghiệp xây dựng quê hương đất
nước.
Thưa quý khách!
Bước vào thời kì đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Xuân Hòa tiếp tục phát
huy truyền thống quê hương cách mạng, tập trung phát triển kinh tế, đảm bảo
an sinh xã hội, xố đói giảm nghèo, xây dựng q hương ngày càng giàu đẹp.
Đặc biệt, thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới,
truyền thống ấy càng được địa phương phát huy, trở thành nguồn động lực to
lớn đưa Xuân Hòa vươn lên trở thành quê hương ấm no, giàu đẹp và mãi mãi
xanh tươi.

Hôm nay quý khách sẽ được sống lại với kí ức xưa, gắn liền với đóng góp
rất đặc biệt của một người cũng rất đặc biệt: bà Phạm Thị Ngọc Trần – vợ của
vua Lê Lợi”.
Cả đoàn vỗ tay sau lời giới thiệu thuyết phục của hướng dẫn viên, khơng
khí vui vẻ, sẵn sàng đón nhận những khám phá mới. Sau đó đồn tiếp tục di
chuyển 800m nữa để đến ngơi đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần.
* Hoạt động 2: Khám phá
GV tổ chức cuộc thi “Chạm tay vào kí ức” với 3 đội chơi tham gia.
- Thời gian: 90 phút
- Mục tiêu: Rèn luyện kĩ năng giao tiếp, tự tin, kĩ năng làm việc nhóm, phát huy
khả năng sáng tạo của học sinh.
- Hoạt động chính:
 Ba đội lên bốc thăm thứ tự dự thi. Các đội có 10 phút để giới thiệu, trình bày
sản phẩm của mình.
 Tiêu chí đánh giá: Đội có khả năng thuyết trình giới thiệu tự tin, thể hiện được
tinh thần đồn kết, nói lưu loát, nội dung hấp dẫn, sáng tạo và phải sát với chủ
đề sẽ trở thành đội chiến thắng.
 Điểm tối đa cho phần này là: 20 điểm.
 Ban giám khảo đánh giá và cho điểm.
 Kết quả cụ thể:
Đội 1: Giới thiệu về Đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần.
“Các bạn có biết: Đền thờ Cung từ Quang mục Quốc Thái mẫu Hoàng
Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần ở làng Láng Động Thượng, huyện Lôi Dương
(nay là làng Thượng Vơi xã Xn Hồ huyện Thọ Xn) được xây dựng từ năm
nào không?
Đại diện đội 1 dừng lại để tạo sự tò mò, hứng thú cho cả lớp. Nhiều bạn
đưa ra các niên đại do đã được tìm hiểu trước. Cuối cùng đại diện đội 1 chốt lại:
“Truyền thuyết trong nhân gian kể rằng: Vào đời Cảnh Hưng (Lê Hiển Tông
1740 – 1786) một năm sông Lương (sông Chu) lụt to, quan tài của Hồng Thái
hậu nổi lên trơi theo dịng nước đến vùng sơng thuộc làng Hương Phấn, xoay

mấy vòng như dừng chân rồi theo dòng về Láng Động Thượng thì nằm lại đây.
Nhân dân mai táng bà và lập đền thờ cúng gọi là đền Quốc Thái mẫu Hoàng
Thái Hậu. Đền rất linh thiêng và đứng đầu trong ngũ linh thần miếu ở huyện
11


Lôi Dương (nay là huyện Thọ Xuân và một phần đất của các huyện Triệu Sơn,
Thiệu Hố).
Ngơi đền toạ lạc hướng tây bắc, nhìn về Lam Kinh, trên bờ Lương Giang (sông
Chu), một trong hai tuyến giao thông đường thuỷ quan trọng của xứ Thanh.
Đường tỉnh lộ từ Thanh Hoá lên Bái Thượng, châu Thường Xuân trước đây
cũng qua địa phận làng Thượng Vôi, tạo thành thế ”nhất cận giang, nhì cận
lộ”, dân làng gọi là đền Quốc Thái mẫu - mẹ của cả nước. Dân trong vùng gọi
là đền bà chúa Thượng Vơi. Chữ chúa trong câu nói của vua Lê Thái Tổ: Bà ấy
là chúa cả trăm vị thần”.
Khi tham quan ngôi đền các em cũng đã đặt ra rất nhiều câu hỏi:
Tại sao đối với Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần - một liệt nữ hi sinh
vì đất nước, là vợ vua Lê Thái Tổ, mẹ vua Thái Tông, là bà nội của Lê Thánh
Tông (một vị vua được xem là bậc minh quân của nền đế chế Việt Nam) mà lăng
mộ đền thờ bị lở xuống sông, quan tài di dời về Láng Động Thượng?
Ngôi đền được xây dựng từ rất sớm, đền đã được trùng tu hay còn giữ
nguyên kết cấu ban đầu?. Các em cũng đặt ra vấn đề tìm giải pháp cho việc bảo
tồn và quảng bá di tích lịch sử - văn hoá này.
Đại diện đội 1 tiếp tục: Hằng năm, đền thờ Hồng Thái hậu ở Thượng
Vơi có hai mùa lễ hội: ngày 23 và 24 tháng 3 âm lịch giỗ Hoàng Thái hậu; ngày
21, 22 tháng 8 âm lịch giỗ vua Lê Thái Tổ, thuyền bè từ các nơi về đậu kín cả
khúc sơng. Là đền thờ nữ thần nên có hầu bóng, hát văn, hát cửa đình, kết hợp
nhuần nhuyễn giữa lễ và hội, đáp ứng được nhu cầu văn hoá tâm linh và văn
hoá tinh thần của nhân dân. Bởi thế, nhân dân có câu”tháng 8 giỗ cha, tháng 3
giỗ mẹ”

Đồng chí phụ trách văn hố xã tiếp lời: Theo lời kể của người già trong
làng, đền trước kia nằm ngồi bãi sơng cách đền ngày nay chừng 300 mét, gồm
hai nhà: nhà tiền đường gồm 5 gian, nhà hậu cung gồm 3 gian bằng gỗ lim lợp
ngói mũi hài và cịn nhiều chân tảng; đền to cao bề thế. Nhà Tiền đường cách
nhà Hậu cung một khoảng sân nhỏ rộng chừng 3m, trước nhà Tiền đường là sân
gạch rộng có 4 cột nanh, đầu cột nanh có Nghê chầu, hai bên có tượng Hộ pháp
giữ đền. Năm 1944, sơng Chu lụt to, đền thờ có nguy cơ lở xuống sông. Nhân
dân làng Thượng Vôi dỡ đền dựng vào khu đất hiện nay theo nguyên mẫu,
hướng tây bắc. Do thời tiết khắc nghiệt, đền thờ Hoàng Thái hậu lại nằm phía
ngồi đê, thường xun chịu lũ lụt, ngơi đền xuống cấp. Năm 1862, di tích đã bị
tháo dỡ để lấy vật liệu làm kho hợp tác xã, làm trường học. Năm 2008 được sự
giúp đỡ của cấp uỷ và chính quyền xã Xn Hồ, nhân dân làng Thượng Vôi
bước đầu đã xây dựng lại được nhà hậu cung trên khuôn viên 166 mét vuông.
Ngày 24 tháng 3 năm 2015, ngày giỗ lần thứ 590 của Hoàng Thái hậu, Đảng
uỷ, chính quyền và nhân dân xã Xn Hồ long trọng tổ chức mít tinh kỉ niệm
và đón Bằng cơng nhận”Đền Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần tại làng
Thượng Vơi xã Xn Hồ là di tích lịch sử cấp tỉnh”.
Đội 2: Trình bày tiểu sử, q hương Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần.
Đọc lịch sử vương triều Lê ngay từ buổi đầu dựng nước, ta sẽ thấy những
bà hồng uy nghi lẫm liệt đã đóng góp cho sự nghiệp bình Ngơ. Đó là Thần phi
12


Trịnh Thị Ngọc Lữ, Cung từ Hoàng Thái Hậu Phạm Thị Ngọc Trần, Quang thục
Hồng Thái hậu Ngơ Thị Ngọc Giao… các bà đều xuất thân trong các gia đình
nơi thôn dã, làm nghề cày cấy nhưng đều là những tuyệt sắc giai nhân, chân
quê mà quý phái, sắc sảo mà hiền thục. Khi cịn tại thế, đóng góp cho sự nghiệp
của chồng, khi chồng chết, lo lắng cho con. Khi mất, các bà trở thành thần linh,
phù hộ cho đất nước.
Cung Từ Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần là một trong 3 người vợ

của vua Lê Thái Tổ (gồm Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, Huệ phi Phạm Thị
Nghiêu và Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần) từ thuở cịn náu mình nơi
hoang dã, chiêu hiền đãi sĩ, củng cố lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa. Sử cũ
chép, “Cung Từ Hoàng Thái hậu họ Phạm, húy là Trần, người hương Quần Lai,
huyện Lơi Dương, xứ Thanh Hóa”. Còn theo Gia phả của dòng họ Trần ở làng
Quần Đội (nay thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân), bà Phạm Thị Ngọc Trần,
sinh năm Bính Ngọ 1386, là con tướng cơng Trần Hồnh và phu nhân Trịnh Thị
Ngọc Liễu, em của khai quốc công thần – Trần Vận. Cho đến nay, dù chưa tìm
thấy tài liệu nào ghi lại việc bà về làm vợ vua Lê Thái tổ ra sao, song nhiều nhà
nghiên cứu đã thống nhất rằng, cuộc đời và sự ra đi của bà gắn liền với cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn và sự nghiệp của vị vua Thái Tổ nhà hậu Lê. Nhà nghiên
cứu Hoàng Hùng và Lê Xuân Kỳ (Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa) khi tìm
hiểu về nhân vật lịch sử này, đã cho rằng: Khi khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra, bà
Phạm Thị Ngọc Trần đã 32 tuổi và chí ít, bà đã làm vợ Lê Lợi được 7- 8 năm.
Chính vì thế, mọi diễn biến mang tính lịch sử trong gia đình Lê Lợi là động lực
để bà toàn tâm, toàn ý giúp chồng lo việc binh lương chuẩn bị khởi nghĩa. Bà
Ngọc Trần hoạt động như một nội tướng của Lê Lợi.
Một bạn khác trong đội tiếp lời:
Theo các tài liệu lịch sử, gia phả, thần phả thì Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc
Trần quê ở làng Quần Lai, huyện Lôi Dương (có sách chép là Quần Đội) nay
thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Thọ Diên ngày nay là một
xã ở vùng hữu ngạn sông Chu của huyện Thọ Xuân. Thọ Diên hiện có 4 làng:
làng Thịnh Mỹ (xưa gọi là phường Yên Hà, Đa Mỹ), làng Diên Hồng (xưa gọi
là sách Quần Đội), làng Quyết Tiến (xưa gọi là thôn Quần Lai), phố Tứ Trụ.
Xã Thọ Diên khơng những là q hương của Hồng Thái hậu Phạm Thị
Ngọc Trần mà còn là quê hương của các bậc khai quốc công thần thời Lê, cũng
là nơi ghi đậm bao sự tích về Lê Lợi và các danh tướng Lam Sơn tụ nghĩa.
Làng Quần Đội xã Thọ Diên ngày nay cách Lam Sơn chừng 4km về phía
đơng, là quê hương của cụ tổ bà Lê Lợi là Nguyễn Thị Ngọc Duyên (vợ cụ tổ Lê
Hối). Vùng đất Lam Sơn đã được cụ tổ Lê Hối chọn làm trang trại: ”khai khẩn,

mở đất dựng nền ba năm thì nên sản nghiệp, con cháu ngày càng đông, tôi tớ
ngày càng nhiều, về sau đời đời làm quận trưởng một phương”. Ông nội của Lê
Lợi là Lê Đinh cùng vợ là Nguyễn Thị Quách nối nghiệp nhà, trở thành hào
trưởng trong vùng. Cho đến đời ông thân sinh Lê lợi là Lê Khống cùng vợ là
Trịnh Thị Ngọc Thương thì cơ nghiệp đã hoàn toàn vững chãi, tạo điều kiện cho
Lê Lợi từ vùng đất Lam Sơn phất cờ khởi binh chống giặc Minh.
13


Làng Quần Lai, xã Đa Mỹ, huyện Lôi Dương là quê hương của bà Phạm
Thị Ngọc Trần. Sau khi kết hôn với Lê Lợi, Ngọc Trần sớm hôm gánh vác việc
thu xếp trang trại, coi sóc sản xuất, cây trồng.
Sau khi cả đồn nghe trình bày, giáo viên kết hợp sử dụng phương pháp
trao đổi đàm thoại với học sinh về tiểu sử Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần.
Cuối cùng đều thống nhất: Bà được sinh ra từ một vùng q thuần nơng và một
nếp nhà có truyền thống yêu nước, trọng nghĩa với nhiều danh nhân nổi tiếng.
Đội 3: Trình bày những đóng góp của Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc
Trần.
Nhắc đến Phạm Thị Ngọc Trần – vợ của Vua Lê Thái Tổ và là mẹ của vua
Lê Thái Tơng - một vị vua anh minh, trí tuệ - sách “Thanh Hóa chư thần lục”
ghi lại: Một lần Lê Lợi sang sông, trời đã nhập nhoạng tối, sương thu như một
dải màn trắng mỏng, giăng đầy trên mặt sơng bãi mía. Thấp thống đầu nương
dâu, một người con gái đang thoăn thoắt đôi tay hái những lá dâu xanh cho vào
lẵng, lại gần quả là một thục nữ giai nhân, chân quê mà quý phái, sắc sảo mà
hiền thục, lời nói nhẹ nhàng, thanh thốt như tơ. Lê Lợi hỏi ra mới biết người
con gái ấy họ Trần, húy là Ngọc Trần, người làng Quần Lai, xã Đa Mỹ, huyện
Lôi Dương (nay là xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân). Lê Lợi bèn đặt lễ hỏi làm vợ.
Sau khi về làm thiếp của Lê Lợi, bà sớm hôm gánh vác việc thu xếp trang trại,
coi sóc sản xuất, cây trồng. Khi vua tự xưng là Bình Định Vương dựng cờ khởi
nghĩa, bà lặn lội theo hầu, trải qua nhiều gian lao nguy hiểm, đói khát, phải ăn

củ nâu, măng rừng mà dạ vẫn kiên trinh giữ đạo làm tôi, làm vợ. Thân phụ của
bà là Trần Hoành, anh trai là Trần Vận đều sớm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
chống quân Minh xâm lược.
Trong những năm tháng chiến đấu ác liệt chống quân Minh xâm lược,
nhất là giai đoạn đầu hoạt động của nghĩa quân ở miền núi rừng Thanh Hóa thì
vơ cùng khó khăn và gian khổ, nhiều lúc có nguy cơ tan vỡ. Ba lần nghĩa quân
bị giặc vây khốn ở căn cứ Chí Linh, tuyệt lương hàng tháng đói cơm, rách áo
nhưng vẫn khơng nao núng tinh thần chiến đấu. Đây cũng là giai đoạn nghĩa
quân vừa kháng địch, vừa rút kinh nghiệm chiến đấu, vận động chiến tranh
nhân dân và củng cố quân lương, vũ khí. Trong hồn cảnh ấy, ở hậu phương, bà
Phạm Thị Ngọc Trần không chỉ làm tốt đạo làm vợ, bà cịn có cơng lớn trong
việc củng cố qn lương, giúp nghĩa qn ngồi chiến trường thêm vững lịng
tin, bền ý chí để đánh giặc. Để có lương thực cung cấp cho nghĩa quân, Bà vận
động nhân dân trong vùng tăng gia sản xuất, Bà đã cùng Nguyễn Nhữ Lãm vận
động phường đánh cá Đa Mỹ dùng thuyền ngược dịng sơng Chu tiếp tế lương
thực cho nghĩa quân. Vì vậy, sau 6 năm hoạt động ở núi rừng Thanh Hoá, trải
qua 5 chiến dịch với 15 trận chiến đấu, khởi nghĩa Lam Sơn đã thu được nhiều
thắng lợi quan trọng, thúc đẩy sự nghiệp chống quân Minh, sớm giải phóng đất
nước.
Năm Ất Tỵ (1425), Lê Lợi vây đánh thành Nghệ An, đánh đến Triều Khẩu
ở Hưng Nguyên, lúc nghĩa quân chuẩn bị vượt sông, trời đang nắng bỗng nổi
giông tố mù mịt, sơng nổi sóng ba đào, qn lính, ngựa voi không tài nào qua
sông được. Lê Lợi cho gọi thổ dân đến hỏi, thổ dân thưa: “Sông này thờ thần
14


Giản Hộ, cứ 3 năm lại phải hiến một người con gái, mấy năm nay loạn lạc, dân
tình bỏ đi nơi khác nên việc cúng tế bỏ trễ”. Có người khuyên vua nên bắt một
người con gái hiến cho thần. Lê Lợi nói:“Ta dựng cờ khởi nghĩa vì dân, nhiều
năm nay bá tính bị giặc Minh giết người, cướp của gây bao tai ương, tang tóc,

há ta lại bắt thêm một người dân vơ tội nữa chết sao?”. Nói rồi vua cho hạ trại
đóng qn đợi tìm kế khác. Đêm ấy, nhà vua trằn trọc khơng ngủ được, gần
sáng thì nằm mộng thấy có một vị thần đến bảo rằng:“Tướng quân cho tôi một
người thiếp, tôi sẽ xin phù hộ tướng quân dẹp được giặc, làm nên nghiệp đế”.
Hôm sau, vua gọi các bà vợ đến hỏi: “Có ai chịu làm vợ thần Giản Hộ không,
sau này khi ta lấy được nước sẽ lập con người làm Thiên tử”. Các bà phi khơng
ai nói gì, chỉ có bà Ngọc Trần khảng khái quỳ thưa: “Nếu Minh Cơng giữ lời
hứa thì thiếp xin nguyện xả thân vì nước, sau này làm nên nghiệp lớn chớ phụ
con thiếp”. Nhà vua khen ngợi và thương cảm nói với các tướng, nhận theo lời
hẹn đó, lại sai các quan lấy bút ghi vào vạt áo để sau này khi đã nên nghiệp lớn
có quên thì nhắc nhở. Lúc này bà Ngọc Trần mới có con được 3 tuổi. Lê Lợi làm
lễ tế thần và dùng Phi làm vật tế. Vua bảo: “Bà ấy đúng là chúa cả trăm vị thần
của nước ta, không ai dám trái”, bèn sai người ở động Nhân Trầm là Lê Cố
rước quan tài về táng ở Thanh Hóa. Sau khi đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước,
Bình Định Vương lên ngơi hồng đế, lập Lê Ngun Long làm Thái tử cho nối
ngôi. Khi Lê Thái Tổ mất, Lê Nguyên Long lên ngôi vua (tức Vua Lê Thái Tông)
và truy tơn mẹ là Cung từ Quốc Thái Mẫu.
Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần mất ngày 24 tháng 3 âm lịch năm
Ất Tỵ (1425). Để tôn vinh và ghi nhớ sự hy sinh của người anh hùng liệt nữ,
nhân dân nhiều nơi đã lập đền thờ Bà như: Đền thờ ở xã Triều Khẩu (nay là xã
Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An); đền thờ ở làng Quần Đội, xã
Thọ Diên (Thọ Xuân); đền thờ ở làng Thượng Vôi, nay thuộc xã Xuân Hòa (Thọ
Xuân); thờ ở Thái miếu Lam Kinh (Thọ Xuân), thờ ở Thái miếu nhà Hậu Lê
(phường Đơng Vệ, TP Thanh Hóa).
Đã gần 600 năm ngày Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần hóa thân đi
vào lịch sử dân tộc. Sự hy sinh ấy như là tiếng kèn xung trận, hồi trống thúc
giục để nghĩa quân Lam Sơn tiến lên tiêu diệt giặc Minh, giải phóng đất nước.
Và cũng sự hy sinh cao cả ấy, cho đến ngày nay vẫn còn vang vọng, thổi truyền
thành ngọn lửa niềm tin, niềm tự hào đến các thế hệ hôm nay.
Đây là phần thi thu hút sự tranh luận nhiều nhất, sơi nổi nhất bởi có cả

yếu tố tâm linh. Khơng khí buổi tham quan vui vẻ nhưng khơng kém phần
nghiêm túc với các vấn đề lịch sử. Cuối cùng, giáo viên chốt lại: Từ một góc
nhìn tín ngưỡng văn hố và góc nhìn chính trị thì sự tự nguyện hiến thân tế thần
của bà Phạm Thị Ngọc Trần có thể xem là sự hi sinh vì nước. Cũng chính bằng
hành động hi sinh cao cả này mà nghĩa quân Lam sơn có thêm sức mạnh bao
vây thành Nghệ An, từ Trào Khẩu đã nhanh chóng giải phóng Tân Bình, Thuận
Hố để từ đây tiến qn ra Bắc giải phóng đất nước. Ngồi ra, cơng lao thứ hai
khơng thể không kể đến của bà là đã sinh ra cho đất nước một vị vua sáng, kế
tục sự nghiệp xây dựng đất nước của vua Lê Thái Tổ một cách xuất sắc, góp
phần đưa triều đại nhà Lê lên đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam.
15


* Hoạt động 3: Kết thúc tham quan dã ngoại.
GV đưa ra những nhận xét, góp ý cho phần dự thi của các nhóm. Sau đó sẽ tổng
kết điểm cho các đội chơi và trao quà cho đội 3 là đội đã giành chiến thắng.
* Hoạt động 4: Câu hỏi bài tập đặt cho học sinh sau buổi tham quan dã
ngoại.
+ Qua việc trực tiếp tham quan đền Quốc mẫu Phạm Thị Ngọc Trần ở xã
Xuân Hòa, em hãy cho biết tại sao ngôi đền được công nhận là di tích lịch sử
văn hố cấp tỉnh?
+ Em hãy viết một bài trình bày suy nghĩ của em về vai trị người phụ nữ
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay? (Xem phụ lục 3)
+ Thiết kế một tập san ảnh có chủ đề “Mời bạn đến thăm Xn Hịa q
hương tơi” (Xem phụ lục 4)
2.3.3. Kết quả đối chứng.
Để thấy được hiệu quả của đề tài, tôi tiến hành dạy một tiết dạy trên lớp
trong một giờ tự chọn Lịch sử. Cụ thể là lớp 11C6 (lớp đối chứng) với số lượng
học sinh và trình độ các em tương đương với lớp 11C5 (lớp thực nghiệm) cũng
với nội dung giống như buổi tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử Đền Quốc

mẫu Phạm Thị Ngọc Trần. Sau khi kiểm tra thì thu được kết quả như sau:
Kết quả
Số
Giỏi Tỉ lệ Khá
Tỉ lệ
TB
Yếu
Tỉ
Lớp
học
(điể
(%) (điểm (%) (điểm Tỉ lệ (điểm
lệ
sinh m 97-8)
5-6)
(%) dưới
(%)
10)
5)
Lớp
thực
23,8
0
0
nghiệm
42
12
28,6
20
47,6

10
11C5
Lớp đối
chứng
43
37,2
2
4,7
7
16,2
18
41,9
16
11C6
Qua các số liệu thống kê bài kiểm tra của lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng sau tiết học, ta thấy:
Ở lớp đối chứng, giáo viên dạy tại lớp, có sử dụng bản đồ, tranh ảnh minh
họa, các nhân vật liên quan đến di tích. Giáo viên, cũng khơng có nhiều thời
gian nói về di tích lịch sử liên quan cùng những nhân vật liên quan đến di tích
đó, nên chưa làm rõ được sự gắn kết giữa kiến thức lịch sử địa phương và di tích
lịch sử cách mạng.
Học sinh lớp thực nghiệm nắm bài và các kiến thức cụ thể, sinh động hơn
so với học sinh lớp đối chứng. Học sinh lớp thực nghiệm tỏ ra nhớ sự kiện nhanh
hơn, các nhân vật liên quan đến bài được các em quan tâm tìm hiểu hào hứng
hơn, kỹ năng khái quát, tổng hợp kiến thức của bài cũng cao hơn. So với học trên
lớp, sự phát biểu của học sinh lớp thực nghiệm nhiều hơn, khả năng ghi bài sáng
tạo hơn, khơng máy móc như học sinh lớp đối chứng. Nghĩa là sự chủ động tiếp

16



thu kiến thức cao hơn, các em tỏ ra nhanh nhạy hơn trong qua trình nghe giảng và
ghi chép bài, sau đó ứng dụng vào làm bài tập hiệu quả hơn.
Về thái độ học tập, học sinh lớp thực nghiệm tỏ ra rất thích được học tại di
tích, các em hào hứng ngay từ đầu tiết học, các em đều thích sự thay đổi khơng
khí học tập, cảm thấy thầy trị gần gũi và hiểu nhau hơn, tình cảm các em đối với
giáo viên bộ môn Sử cũng tăng lên, đây cũng là một trong những nguyên nhân
góp phần thành cơng của tiết học.
Như vậy, việc sử dụng di tích lịch sử địa phương qua hoạt động tham quan
dã ngoại là một biện pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Khi đặt chân đến những địa điểm này, tận mắt thấy di tích lịch
sử, được trị chuyện với cán bộ văn hóa xã, được thảo luận về những gian khổ,
những mất mát …, tất cả những điều đó sẽ khắc ghi trong trí nhớ các em, càng
giúp các em hiểu sâu sắc hơn về các di tích lịch sử, củng cố niềm tin, lịng tự
hào đối với những người có cơng với q hương đất nước. Qua đó sẽ giáo dục
các em ý thức bảo vệ, giữ gìn các di tích lịch sử ở địa phương mình, có trách
nhiệm phát huy các giá trị của các di tích lịch sử đó. Tất cả những điều này là cơ
sở của lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
Những hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ đề mà nhà trường xây dựng
từ đầu năm học hay những buổi tham quan đơn thuần còn nghèo nàn và đơn
điệu. Bởi vậy khi làm quen với cách học này các em học sinh trường THPT Lam
Kinh đều rất hào hứng, nhiệt tình tham gia và hồn thành nhiệm vụ được giao.
Thông qua hoạt động trải nghiệm tham quan dã ngoại di tích lịch sử địa
phương, học sinh đã nhận thấy những kiến thức lịch sử khơng cịn nặng nề, hàn
lâm mà rất gần gũi, thiết thực với chính các em; nhiều năng khiếu của học sinh
đã được bộc lộ.

Phần lớn học sinh đều có mong muốn thường xuyên được học lịch sử
dưới hình thức tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương.
2.4.2. Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục của bản thân.
Bản thân tôi nhận thấy rằng: cách thức tổ chức hoạt động tham quan dã
ngoại tại di tích lịch sử địa phương rất đa dạng, phong phú. Giáo viên cần tùy
thuôc ̣vào những đặc trưng về văn hóa, khí hậu, đặc điểm vùng miền, điều kiện
kinh tế – xã hội của mỗi địa phương mà lựa chọn nội dung và hình thức tổ chức
sao cho việc thực hiện được linh hoạt, sáng tạo và sử dụng có hiệu quả thời gian,
các yếu tố nhân, vật lực ở điạ phương mình.
Hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương là hoạt động
giáo dục, trong đó nhà giáo đóng vai trò hướng dẫn và tổ chức, từng cá nhân học
sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống
gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động,
qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng
sáng tạo của mình.
17


Các em không thể tự tham gia các hoạt động mà hình thành các kỹ năng
sống, rèn luyện nhân cách, kỹ năng được mà phải có sự định hướng của giáo
viên. Thế nên, nếu giáo viên không thực sự tâm huyết, khơng dung hịa được
giữa nhu cầu của người học và định hướng của hoạt động tham quan ngoại khóa,
khơng đủ bản lĩnh và kiến thức để giải đáp những thắc mắc của học sinh thì
khơng thể có hiệu quả như mong muốn được.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
Qua đề tài này, mỗi cán bộ giáo viên trong nhà trường đều nhận thấy ưu
điểm rất lớn và nhận thức đúng về bản chất của hoạt động học tập tham quan dã
ngoại tại di tích lịch sử địa phương. Với nội dung và phương thức tổ chức như
trên, mọi người đều hiểu là khơng cần phải có giáo viên chuyên "dạy" tham
quan dã ngoại, bởi chủ thể trải nghiệm thực tế là học sinh và không "dạy" được.

Giáo viên chỉ đóng vai trị tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện, đánh giá kết
quả thực hiện của học sinh.
Mỗi giáo viên và tổ, nhóm bộ mơn đều có thể và có trách nhiệm tham gia
xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ đề hoạt động tham quan dã ngoại phù
hợp với yêu cầu của bộ môn. Trên cơ sở đó nhà trường căn cứ vào yêu cầu của
chương trình giáo dục phổ thơng xây dựng được các chủ đề hoạt động tích hợp,
liên mơn để tổ chức cho học sinh thực hiện.
Như vậy có thể hình dung với cơ cấu giáo viên như hiện nay, việc thực
hiện các hoạt động tham quan dã ngoại đã có thể được thực hiện tốt. Trong đó
giáo viên các bộ mơn tham gia xây dựng các chủ đề hoạt động, chịu trách nhiệm
đưa ra mục tiêu, nội dung, phương thức và sản phẩm hoạt động; tham gia đánh
giá kết quả hoạt động của học sinh.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương là một mơ
hình học tập hiện đại, có ưu thế rất lớn trong việc phát triển năng lực học sinh,
giúp các em liên hệ kiến thức đã học vào hoạt động thực tế. Thông qua các hoạt
động như đóng vai, dự án, tham quan, tình huống…. sẽ phát triển được khả năng
sáng tạo, tự lực học tập của học sinh, qua đó tạo cho các em niềm say mê, hứng
thú trong học tập lịch sử.
Đối với hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương Thọ
Xuân ở trường THPT Lam Kinh, ngoài những hiệu quả đạt được nói chung thì
các em cịn được bồi đắp thêm kiến thức về quê hương bằng chính sự khám phá
của bản thân. Từ đó, các em yêu mến hơn, tự hào hơn khi được sinh ra trên
mảnh đất với bề dày truyền thống lịch sử.
3.2. Kiến nghị.
Cần tăng cường những tiết dạy thực hành cho học sinh để học sinh có thể
tham gia những hoạt động tham quan dã ngoại một cách chủ động, sáng tạo.
Hoạt động tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương tốn kém, cần
kinh phí nhưng nhà trường khơng thể đáp ứng tất cả nên rất cần cơng tác xã hội

hóa, đặc biệt với các huyện còn nghèo.
18


Tham quan dã ngoại tại di tích lịch sử địa phương là hoạt động giáo dục
cần đẩy mạnh trong thời gian tới để cân bằng với hoạt động dạy trên lớp. Do đó,
các nhà trường cần tập huấn, xây dựng mục tiêu, nội dung hoạt động, kế hoạch
triển khai, đánh giá kết quả. Với cán bộ quản lý, phải xây dựng kế hoạch nhà
trường cụ thể, khi nào tổ chức hoạt động gì, dành cho đối tượng học sinh nào, sẽ
diễn ra ở đâu
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa ngày 18 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do tơi viết,
hồn tồn khơng sao chép của bất kì ai
( Kí và ghi rõ họ tên)

Đồn Thị Hương

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo Dục (đã sửa đổi, bổ sung), Nxb Lao động, 2010.
2. Các di tích và thế cảnh mơi sinh, Trần Quốc Vượng, Mai Đình n, Tạp chí
Xưa và nay.
3. Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Lê Tử Thành, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
4. Bảo tàng - di tích - lễ hội, Phan Khanh, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1992.

5. Sử dụng các di tích lịch sử - văn hóa trong dạy học lịch sử ở trường trung học
phổ thông tỉnh Thanh Hóa, Hồng Thanh Hải, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học
và công nghệ cấp Bộ Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa, 2012.
6. Luật Giáo dục, Bộ giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005.
7. Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học Sư phạm, Lê Văn Hồng (Chủ biên), Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1995.
8. Sử dụng các di tích lịch sử - văn hóa trong dạy học lịch sử ở trường trung học
phổ thơng tỉnh Thanh Hóa, Hồng Thanh Hải, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học
và công nghệ cấp Bộ Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa, 2012.
9. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930 – 1954), Nxb Thanh Hóa, 2010.
10. Lịch sử Đảng bộ huyện Thọ Xuân(1930 – 1975), Nxb Thanh Hóa, 2000.
11. Lịch sử xã Xn Hịa, Nxb Thanh Hóa, 2014.
12. Xây dựng chương trình hoạt động ngoại khóa, Chu Ngọc Quỳnh (2015),
Lịch sử tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Khóa luận tốt nghiệp – Khoa
lịch sử - Trường Đại học Giáo dục – ĐHQGHN.
13. Hồng Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, Nxb Thanh Hóa, 2020.
14. Nguồn internet.

20



×