Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ của báo hoa học trò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.09 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
-------------------

HUỲNH VĂN DŨNG

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ
CỦA BÁO HOA HỌC TRỊ
Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số
: 60.22.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trương Thị Diễm

Đà Nẵng - Năm 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan:
Đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị Diễm, Giảng viên Trường
Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.
Các dẫn chứng và kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung
thực, được các đồng nghiệp cho phép sử dụng để nghiên cứu, hoàn chỉnh
Luận văn và chưa từng được cơng bố trong một cơng trình nào khác.

Tác giả



Huỳnh Văn Dũng


Lời cảm ơn

Để hồn thành Luận văn này, tơi xin chân thành cảm ơn tập thể các
Giáo sư, các Nhà Khoa học, các Thầy, Cô giáo cùng cán bộ Khoa Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm và Phòng Quản lý Sau Đại học, Đại học Đà Nẵng
đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên
cứu của tôi.
Đặc biệt, xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Cơ giáo,
PGS.TS. Trương Thị Diễm - người đã tận tình hướng dẫn và có những ý kiến
đóng góp hết sức q báu cho tơi trong quá trình thực hiện Luận văn này.
Trân trọng cảm ơn cơ quan chủ quản là Báo Sinh viên Việt Nam - Hoa
Học Trò, Ban Biên tập cùng các anh chị em, bạn bè đồng nghiệp của Toà
soạn tại Hà Nội và Văn phòng đại diện tại Đà Nẵng đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện Luận văn.
Xin cảm ơn các bạn học viên Cao học Ngơn ngữ học - Khóa 24
(2011 - 2013) Đại học Đà Nẵng, và đặc biệt là Mẹ và những người thân
trong gia đình đã ln động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi về mọi mặt trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trân trọng!
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2013
Tác giả

Huỳnh Văn Dũng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU······································································································· 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ······································································ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ··········································································· 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ······················································· 4
4. Phương pháp nghiên cứu ···································································· 4
5. Bố cục đề tài ······················································································· 4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu···························································· 5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.8
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BÁO CHÍ ··························································· 8
1.1.1. Báo chí ·························································································· 8
1.1.2. Các loại hình báo chí ··································································· 10
1.2. NGƠN NGỮ BÁO CHÍ ········································································ 12
1.2.1. Đặc trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí································ 12
1.2.2. Đặc điểm ngơn ngữ báo chí ························································· 16
1.3. GIỚI THIỆU BÁO HOA HỌC TRÒ····················································· 19
1.3.1. Lịch sử phát triển báo Hoa Học Trò············································· 19
1.3.2. Đặc thù của tờ báo Hoa Học Trò·················································· 23
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ BÁO HOA HỌC TRỊ
XÉT TRÊN PHƯƠNG DIỆN NGỮ ÂM, NGỮ PHÁP ···························· 28
2.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ NGỮ ÂM, CHỮ VIẾT ··············································· 28
2.1.1. Sử dụng các yếu tố ngữ âm························································· 28
2.1.2. Sử dụng font chữ và hình ảnh minh hoạ······································ 39
2.1.3. Sử dụng các biện pháp tu từ ngữ âm ··········································· 46
2.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ NGỮ PHÁP ······························································· 51
2.2.1. Sử dụng các kiểu cấu trúc câu tiếng Việt ···································· 51
2.2.2. Sử dụng các kiểu tiêu đề và bố cục văn bản ································ 58
2.2.3. Sử dụng các biện pháp tu từ ngữ pháp ········································ 66
2.3. TIỂU KẾT····························································································· 71



CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ BÁO HOA HỌC TRỊ
XÉT TRÊN PHƯƠNG DIỆN TỪ VỰNG, DIỄN ĐẠT ··························· 73
3.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ TỪ VỰNG ································································· 73
3.1.1. Sử dụng nhiều từ khẩu ngữ, tiếng nước ngồi, tiếng lóng ··········· 73
3.1.2. Sử dụng từ ngữ phù hợp với đối tượng độc giả riêng biệt ··········· 81
3.1.3. Sử dụng các biện pháp tu từ từ vựng··········································· 87
3.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ DIỄN ĐẠT ································································· 91
3.2.1. Sử dụng ngôn ngữ đời thường, gần gũi ······································· 91
3.2.2. Sử dụng ngơn ngữ bình luận ······················································· 99
3.2.3. Sử dụng ngôn ngữ giàu cảm xúc ··············································· 106
3.3. TÁC ĐỘNG CỦA NGƠN NGỮ BÁO HOA HỌC TRỊ ĐỐI VỚI
ĐỘC GIẢ··································································································· 111
3.3.1. Tác động tích cực ····································································· 111
3.3.2. Tác động tiêu cực······································································ 113
3.4. TIỂU KẾT··························································································· 114
KẾT LUẬN ······························································································ 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO········································································ 120
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (bản sao)


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Viết tắt

Viết đầy đủ

1

HHT


Hoa Học Trị

2
3
4
5
6
7
8
9
10

SVVN
PV
BTV
CTV
HS-SV
THPT
THCS
TTN
NXB

Sinh viên Việt Nam
Phóng viên
Biên tập viên
Cộng tác viên
Học sinh - Sinh viên
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở

Thanh thiếu niên
Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số thứ tự

Nội dung

Trang

Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ sử dụng các yếu tố
Bảng 2.1.

ngữ âm trong các tin/ bài của báo HHT trong năm

29

2012.
Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ sử dụng các kiểu câu
Bảng 2.2.

xét về cấu tạo ngữ pháp của các bài viết chuyên mục

51

Đường dây nóng báo HHT.
Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ sử dụng các biện
Bảng 2.3.


pháp tu từ ngữ pháp trong các tin/ bài của báo HHT

66

trong năm 2012.
Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ sử dụng các lớp từ
Bảng 3.1.

vựng trong 120 tin/ bài của báo HHT trong năm 2012.

74

Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ sử dụng các biện
Bảng 3.2.

pháp tu từ từ vựng trong các bài viết của báo HHT
trong năm 2012.

88


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc sống ln vận động không ngừng, xã hội ngày càng phát triển nên
nhu cầu thông tin của con người ngày càng cao. Các phương tiện truyền thông
đại chúng đã trở thành công cụ đắc lực phục vụ nhu cầu thông tin của con
người một cách kịp thời, chân thực và sống động, qua đó mọi người đều có thể

nhanh chóng tiếp cận được các vấn đề mà mình quan tâm. Các thể loại báo chí
ngày càng phát triển đa dạng: báo in, báo hình, báo nói, báo mạng,... đã mở ra
cả một kho tàng thơng tin cần thiết, phản ánh nhiều góc cạnh của đời sống xã
hội. Mỗi thể loại có mục đích, chức năng và đối tượng phản ánh riêng của mình
với những đặc trưng và ưu điểm, hạn chế riêng.
Báo chí sử dụng ngơn ngữ để phục vụ đời sống xã hội. Ngơn ngữ báo chí
là một loại hình ngơn ngữ đặc thù, vừa mang tính quy tắc chuẩn mực lại vừa
gần gũi với ngơn ngữ đời thường. Vì thế, ngôn ngữ được sử dụng ở đây chuyển
tải trực tiếp hiện thực cuộc sống, như cuộc sống vốn có với tất cả những thay
đổi, biến chuyển thường nhật, kể cả những lối sử dụng ngơn ngữ đang trên q
trình định hình, thậm chí chưa được chấp nhận trong thực tế xã hội mà mới chỉ
dừng lại ở một bộ phận, một nhóm đối tượng. Thế nhưng, bên cạnh đó, với
nhiệm vụ dẫn dắt dư luận, ngơn ngữ báo chí vẫn phải đảm bảo được những
chuẩn mực cần có của một văn bản. Đây chính là một vấn đề nan giải cho các
PV, BTV của các tờ báo mang tính đặc thù.
Chúng ta có thể khẳng định rằng ảnh hưởng của báo chí trong xã hội
hiện đại là vơ cùng to lớn. Chính vì vậy, trách nhiệm của nó cũng khơng hề
nhỏ. Ngồi khả năng cung cấp thơng tin và định hướng dư luận xã hội, báo chí
cịn có trách nhiệm góp phần định hình ngơn ngữ, đặc biệt là những tờ báo


2

được viết cho giới trẻ. Yêu cầu đặt ra với loại báo chí này là phải có hình thức
và nội dung phù hợp lứa tuổi, thể chất, tinh thần, nhu cầu hưởng thụ cũng như
giáo dục và định hướng cho thế hệ trẻ.
Báo Hoa Học Trò là một trong những tờ báo hiện nay dành cho giới trẻ
(đối tượng bạn đọc chủ yếu là học sinh cuối cấp 2 và cấp 3). Do đặc điểm tâm
lý của đối tượng tiếp nhận và đối tượng phản ánh là giới trẻ nên ngơn ngữ thể
hiện trong các tác phẩm báo chí của báo HHT có những đặc điểm riêng về

ngơn ngữ của loại hình, thể loại báo chí,... Các tác phẩm báo chí của tờ báo thể
hiện cách nhìn nhận cuộc sống dưới nhiều góc độ, nhiều chiều trong con mắt
của giới trẻ hiện đại, đã đem lại hiệu quả nhất định cho đối tượng tiếp nhận và
phần nào đó tác động đến xã hội. Vì vậy, có thể xem việc tìm hiểu đặc điểm
ngôn ngữ được sử dụng trong các tác phẩm báo chí của báo HHT là một việc
làm rất cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách bao qt và có hệ thống từ góc độ ngơn ngữ học về đặc điểm ngôn
ngữ của tờ báo này.
Là người hiện đang làm việc tại một Văn phòng đại diện của báo HHT,
trực tiếp tham gia vào việc tổ chức thực hiện các sản phẩm tin/ bài cho báo,
chúng tôi thiết nghĩ rằng việc nghiên cứu đặc điểm ngơn ngữ của tờ báo mà
mình đang cơng tác là một cơng việc rất bổ ích và thiết thực, nhằm ghi nhận lại
những nét riêng trong ngơn ngữ của tờ báo với một cái nhìn thấu đáo hơn, cụ
thể hơn; đồng thời hy vọng sẽ có một số đóng góp nhất định vào cơng việc thực
tế của mình nói riêng cũng như của sự nghiệp báo chí của đơn vị nói chung,
đưa tờ báo đến gần hơn với bạn đọc.
Có thể xem đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên có tính đầy đủ tương
đối về đặc điểm ngôn ngữ được sử dụng trên báo HHT. Kết quả của Luận văn
sẽ góp thêm tư liệu và cách nhìn nhận khái quát hơn về việc sử dụng ngôn ngữ


3

của một tờ báo dành cho giới trẻ, đồng thời góp phần tạo thêm cơ sở tài liệu
tham khảo về đặc điểm ngôn ngữ của báo HHT cho những người quan tâm tìm
hiểu. Những kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần giúp cho đội ngũ
PV, BTV, CTV xác định được tầm quan trọng của ngôn ngữ dành cho giới trẻ,
qua đó sử dụng ngơn ngữ một cách linh hoạt, phù hợp nhất nhằm phát huy hiệu
quả trong các tin/ bài của mình, nâng cao chất lượng hiệu quả cơng tác tun
truyền khi ứng dụng vào thực tiễn.

Chính vì vậy, chúng tơi đã chọn đề tài “Đặc điểm ngơn ngữ của báo Hoa
Học Trị” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mỗi thể loại báo chí có lịch sử hình thành riêng theo mục đích, chức
năng và đối tượng phản ánh. Hiện nay, ở Việt Nam chỉ có một số ít tờ báo dành
cho giới trẻ, trong số đó báo HHT để lại nhiều ấn tượng đối với bạn đọc. Có
được kết quả đó là do nhiều năm qua cùng với sự thay đổi và phát triển của báo
chí, báo HHT đã biết tiếp nhận và có những thay đổi phù hợp với thị hiếu của
công chúng. Đặc biệt hơn là tờ báo này đã tạo cho mình một phong cách đặc
thù mà cụ thể là có những cách thức sử dụng ngôn ngữ tạo ra sức hấp dẫn
riêng, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc mới.
Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là nhận diện đặc điểm sử
dụng ngôn ngữ làm nên phong cách riêng của báo HHT. Ngồi việc nêu ra và
phân tích, đánh giá những đặc điểm ngôn ngữ của tờ báo, chúng tơi cịn tìm ra
những ưu điểm để phát huy và hạn chế để khắc phục, từ đó đề xuất lựa chọn
phương án sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả, nâng cao chất lượng tin bài
của tờ báo. Qua đây, Luận văn sẽ chỉ ra được tác động của tờ báo đối với dư
luận xã hội cũng như vai trò của loại hình báo chí này trong việc định hướng
văn hóa, thẩm mĩ và nhận thức cho lứa tuổi TTN.


4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Báo HHT có ưu điểm nổi bật là phong phú về đề tài, năng động trong
tiếp cận thực tế và có hình thức thể hiện linh hoạt. Vì vậy, đối tượng nghiên
cứu của đề tài là tìm hiểu những đặc điểm của ngơn ngữ báo chí nói chung và
những đặc điểm sử dụng ngôn ngữ qua các tin tức, bài viết trên báo HHT, từ đó
phân tích, đánh giá những đặc điểm ngôn ngữ mà tờ báo sử dụng xét trên các

phương diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và cách thức diễn đạt để làm rõ hơn
những vấn đề nêu ra có liên quan.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, Luận văn chủ yếu nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ
của báo HHT giới hạn qua việc khảo sát các tin/ bài của các tác phẩm báo chí
đã được đăng tải trên báo HHT trong năm 2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ với phạm vi nội dung của đề tài là một
công việc đòi hỏi phải áp dụng nhiều phương pháp. Trong Luận văn, chúng tôi
chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp so sánh, đối chiếu;
- Phương pháp miêu tả, phân tích và tổng hợp.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của Luận
văn gồm có 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài


5

Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ báo HHT xét trên phương diện ngữ âm,
ngữ pháp
Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ báo HHT xét trên phương diện từ vựng,
diễn đạt.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Đặc điểm ngơn ngữ báo chí là một đề tài thú vị và được giới nghiên cứu
ngôn ngữ học quan tâm khá nhiều. Xung quanh đề tài về ngơn ngữ báo chí
truyền thơng và đặc điểm ngôn ngữ của báo HHT từ trước đến nay đã có khá
nhiều tác giả đề cập đến trong các cơng trình nghiên cứu của mình.

6.1. Những cơng trình nghiên cứu chung về ngơn ngữ báo chí
Trước đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, đề cập ở nhiều khía cạnh
khác nhau về ngơn ngữ báo chí và truyền thơng nói chung. Đặc biệt, các giáo
trình về ngơn ngữ báo chí đã có nhiều đóng góp trong việc trình bày một hướng
tiếp cận mới trong nghiên cứu và phân tích ngơn ngữ báo chí truyền thơng.
Điển hình là cơng trình của các tác giả như Vũ Quang Hào với Ngôn ngữ báo
chí (NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2001); Nguyễn Đức Dân với Ngơn ngữ báo
chí - Những vấn đề cơ bản (NXB Giáo dục, 2007); Hoàng Anh với Một số vấn
đề về sử dụng ngơn từ trên báo chí (NXB Lao động, 2003); Dương Xuân Sơn
với Giáo trình lý luận báo chí truyền thơng (NXB Giáo dục Việt Nam, 2012);
v.v... Trong những cơng trình nghiên cứu này, các tác giả đã giới thiệu một
cách cụ thể về lí thuyết và phương pháp luận về những đặc điểm của báo chí và
ngơn ngữ báo chí, phong cách ngơn ngữ báo chí, ngơn ngữ của các thể loại báo
chí cũng như chuẩn ngơn ngữ của báo chí, cách thức diễn đạt trong báo chí...
Một số cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi đã được dịch như Ray Teel
Leonard - Taylor Ron với Bước vào nghề báo (NXB TP. HCM, 1993); Jack
Hart với A Writer’s Coach (Huấn luyện viên của người viết báo), Nguyễn Như


6

Kim dịch (NXB Thơng tấn, Hà Nội, 2007), v.v... Nhìn chung, những cơng trình
này đã đặt ra những vấn đề cơ bản và tồn diện khi nghiên cứu về ngơn ngữ
báo chí nói chung, ngơn ngữ báo in nói riêng, làm nền tảng cho những đề tài
nghiên cứu liên quan. Tuy vậy, các tác giả vẫn chưa quan tâm một cách sâu sắc
đến vấn đề ngôn ngữ đặc thù của từng thể loại báo chí, nhất là các tờ báo dành
cho những đối tượng độc giả riêng.
6.2. Những cơng trình nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ
báo HHT
Trên thị trường báo chí hiện nay, trong số các tờ báo dành cho giới trẻ

nói chung và đối tượng học sinh THPT nói riêng thì báo HHT là tờ báo được
đơng đảo bạn đọc yêu thích. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức của tờ báo, từ
trước đến nay cũng có khá nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều của các
nhà phê bình báo chí, các nhà nghiên cứu ngơn ngữ...
Có thể nêu một số bài viết nghiên cứu về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ
của báo HHT như: “Vài suy nghĩ về cách dùng khẩu ngữ trên báo HHT” của
Nguyễn Thị Thanh Nga đăng trên website: (2006, cập nhật
14/03/2007); bản báo cáo “Nghiên cứu sự tác động của ngơn ngữ @ lên tiếng
mẹ đẻ” của nhóm sinh viên Trường ĐH Ngoại ngữ Đà Nẵng tại Hội nghị Sinh
viên nghiên cứu khoa học lần thứ 6-2008; hay bài tham luận “Từ ngữ tiếng
nước ngoài trong báo HHT” của giảng viên Nguyễn Thị Trúc - ĐH Sư phạm
Đà Nẵng tại Hội thảo khoa học “Những ảnh hưởng của văn học thiếu nhi đến
sự phát triển nhân cách trẻ em trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế” do
Trung tâm Văn học trẻ em - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội và Trung tâm Hỗ trợ
nghiên cứu Châu Á (ARC) - ĐH Quốc gia Hà Nội phối hợp tổ chức (2009);
v.v... Các bài viết, tham luận với mức độ khái quát khác nhau, đề cập đến một
khía cạnh nào đó về đặc điểm sử dụng ngơn ngữ trong các bài viết của báo


7

HHT, tác động của nó đến giới trẻ cũng như vấn đề về chuẩn mực ngơn ngữ;
trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra cách nhìn nhận riêng của mình, đem lại một cái
nhìn đa chiều về ngơn ngữ của tờ báo HHT. Tuy nhiên, mỗi tác giả cũng chỉ
giới hạn nghiên cứu ở những mức độ và góc nhìn khác nhau.
6.3. Về tình hình thực tế tại cơ quan, đơn vị
Với đặc thù của một đơn vị báo chí, mỗi ngày chúng tơi nhận được hàng
trăm thư từ của bạn đọc; tin bài của PV, BTV, CTV gửi về Tòa soạn, Văn
phòng với nhiều thể loại: tin, bài, ảnh, thư góp ý, v.v... Với nhiều nguồn bài vở
như vậy, những gì được đăng tải trên báo HHT hầu hết được thể hiện bằng

ngôn ngữ mang hơi thở của giới trẻ hôm nay, phản ánh đời sống muôn mặt của
lứa tuổi này. Vì vậy, để khuyến khích và hướng dẫn các em tham gia vào quá
trình sáng tạo các tác phẩm báo chí, chúng tơi đã tổ chức các khoá học, các
buổi hướng dẫn nghiệp vụ viết báo, thường xuyên tổ chức sinh hoạt, họp CTV
để trao đổi về chủ đề, cách viết,... tạo nên một sân chơi đầy sáng tạo để các em
làm quen với công việc viết báo và tham gia đóng góp bài vở cho sản phẩm báo
chí của chính lứa tuổi mình, vì chỉ có các em mới có thể đi sâu vào ngóc ngách
của các vấn đề xảy ra đối với mình. Qua bài viết, các em đã phản ánh trung
thực cuộc sống xung quanh thơng qua cách nhìn và cảm nhận của chính mình,
đưa tiếng nói của các em đến với mọi người. Và cũng chính từ yếu tố này đã
hình thành nên những đặc điểm riêng, có tính thế hệ của ngơn ngữ
tờ báo.
Xuất phát từ tình hình đó, chúng tơi chọn thực hiện đề tài “Đặc điểm
ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò” nhằm nghiên cứu một cách tổng thể, bao
quát về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của báo HHT - tờ báo dành cho giới trẻ
hiện nay.


8

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BÁO CHÍ
1.1.1. Báo chí
Khi xã hội lồi người hình thành thì nhu cầu thông tin - giao tiếp cũng
xuất hiện. Xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng được nâng
cao thì nhu cầu thơng tin càng lớn, theo đó các hình thức giao tiếp cũng trở nên
đa dạng hơn. Q trình trao đổi thơng tin giúp con người tự tìm ra cách thức,
con đường, phương tiện hợp lý hơn để tăng cường khả năng truyền đạt, phổ

biến thông tin sao cho nhanh hơn, rộng hơn và hiệu quả hơn. Chính điều đó đã
thúc đẩy sự hình thành và phát triển của báo chí nhằm đáp ứng nhu cầu thơng
tin ngày càng cao của con người.
“Báo chí là một hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin - giao
tiếp, giải trí và nhận thức của con người, có ảnh hưởng rộng lớn tới đời sống xã
hội” [35, tr.42]. Lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh nên từ khi
xuất hiện cho đến nay, báo chí luôn năng động trong việc phản ánh hiện thực
đa dạng, sinh động và luôn vận động phát triển; trở thành một bộ phận không
thể thiếu trong đời sống tinh thần của mọi người, mọi quốc gia, dân tộc. Trước
một hiện thực chứa đầy lượng thơng tin, báo chí có những cách thức riêng của
mình để phản ánh hiện thực nhằm mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội
với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khơng giống nhau. Chính điều đó
đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và
năng động nhất mà khơng một hình thái ý thức xã hội nào có được, đồng thời
có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội. Vì thế báo chí luôn là một công cụ
hoạt động quan trọng của con người và các giai cấp trong cuộc đấu tranh vì sự
tiến bộ và văn minh của nhân loại.


9

“Báo chí là phương tiện truyền thơng đại chúng truyền tải thông tin về các
sự kiện, sự việc, hiện tượng đang diễn ra trong hiện thực khách quan một cách
nhanh chóng, chính xác và trung thực đến đơng đảo cơng chúng, nhằm tích cực
hố đời sống thực tiễn” [35. tr.64]. Trong chức năng thơng tin của mình, báo chí
khơng chỉ dừng lại ở việc thơng báo mà cịn phản ánh và tác động vào dư luận xã
hội. Ở lĩnh vực này, báo chí thực sự là cơng cụ để thực hiện dân chủ hóa đời
sống xã hội. Do đó, nó có sức mạnh góp phần quản lí xã hội. Theo quan niệm
phổ biến ở các nước châu Âu và Phương Tây, báo chí là cơ quan quyền lực thứ
tư (sau lập pháp, hành pháp và tư pháp), “đây là kiểu quyền lực không quy định

thành văn bản mà được tạo ra từ cơng luận xã hội” [8, tr.8]. Cịn ở Việt Nam,
báo chí lại là của dân và vì dân; nền báo chí cách mạng được đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lí của Nhà nước và hoạt động trong khn khổ
pháp luật; bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thực, tính nhân dân, tính chiến đấu
và tính đa dạng của hoạt động báo chí. Được ví như là người chiến sĩ xung kích
trên mặt trận tư tưởng - văn hố, báo chí thực hiện vai trị vừa là tiếng nói của
Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời cũng vừa là
diễn đàn của nhân dân trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân chủ,
văn minh.
Với chức năng chủ yếu là phản ánh thơng tin, báo chí cịn có vai trị quan
trọng đối với ngơn ngữ dân tộc. Đóng vai trị là kênh thơng tin quan trọng, báo
chí đã tạo nên một phong cách ngôn ngữ riêng trong hệ thống các phong cách
chức năng của tiếng Việt. “Số lượng người đọc báo, số lần sử dụng báo rất lớn.
Do vậy, những cách nói, những thơng tin, những khn ngơn ngữ trên báo chí
cả hay lẫn dở sẽ được người đọc bắt chước. Những sai sót về ngơn ngữ báo chí
được truyền đi rất nhanh, nhân lên gấp bội số người mắc lỗi theo và thậm chí
có thể trở thành những cái chung của tồn xã hội. Do vậy, ngơn ngữ báo chí


10

càng hồn thiện bao nhiêu thì ngơn ngữ dân tộc càng có điều kiện phát triển
trong sáng bấy nhiêu” [8, tr.15].
1.1.2. Các loại hình báo chí
Lịch sử phát triển của báo chí chính là sự gia tăng các tiện ích của q
trình thu thập, xử lý và tiếp nhận thơng tin dành cho số đông trong xã hội. Cùng
với sự ra đời và phát triển của báo chí, các thể loại báo chí cũng hình thành với
nhiều hình thức thể hiện phong phú, sinh động tùy theo mục đích, chức năng và
đối tượng phản ánh. Đồng thời, dựa trên tính chất kỹ thuật và phương thức thực

hiện truyền thông, người ta chia báo chí thành các loại hình như: báo in (báo,
tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thơng tấn); báo nói (chương trình phát thanh),
báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực
hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau); báo điện tử (được thực hiện
trên mạng thơng tin máy tính). Mỗi loại hình báo chí là mỗi kênh thơng tin hấp
dẫn với những đặc điểm, ưu và nhược điểm nhất định.
a. Báo in
Báo in là loại hình báo chí xuất hiện lâu đời nhất, bao gồm báo và tạp
chí, là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự
và được phát hành rộng rãi trong xã hội thông qua các công cụ như máy in,
mực in và giấy in. Đặc điểm quan trọng của báo in là chuyển tải nội dung thông
tin qua văn bản in, gồm chữ in, hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ,... Báo in sử
dụng ngơn ngữ viết, tồn bộ nội dung thông tin được chuyển tải đến người đọc
thông qua thị giác.
Căn cứ định kỳ xuất bản, tính chất nội dung thông tin, hiện nay báo in ở
nước ta có 2 loại là báo và tạp chí. Báo gồm: nhật báo (báo ngày), báo nhiều kỳ
trong tuần, tuần báo (mỗi tuần một kỳ), báo bán nguyệt san (nửa tháng), báo
nguyệt san (hằng tháng). Tạp chí là những ấn phẩm định kỳ có nội dung


11

chuyên sâu vào một hoặc một số vấn đề, lĩnh vực của đời sống xã hội, khoa học
kỹ thuật... định kỳ xuất bản có thể là 1 tuần, nửa tháng, 1 tháng, 2 tháng, hoặc 6
tháng/kỳ.
b. Báo nói (Phát thanh)
Báo nói là loại hình truyền thơng mà nội dung thơng tin được truyền tải
bằng âm thanh (trong đó có tiếng nói, tiếng động hiện trường và âm nhạc) qua
làn sóng vô tuyến điện và truyền thanh qua hệ thống dây dẫn.
Đặc trưng cơ bản, đồng thời cũng là phương thức tác động duy nhất của

báo nói là sử dụng hệ thống âm thanh tổng hợp tác động vào thính giác của đối
tượng tiếp nhận, nhằm cung cấp cho thính giả những thơng tin thời sự nhanh
nhất, những chương trình âm nhạc, giải trí chất lượng cao... Ngơn ngữ báo phát
thanh là ngơn ngữ nói, mang đậm tính khẩu ngữ, thiên về hình thức độc thoại,
mang dấu ấn cá nhân rõ nét của người nói hay người đọc. Do vậy yêu cầu đặt
ra đối với báo phát thanh là phải đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, tạo nên sự gần
gũi, thân mật như đang trị chuyện với thính giả.
c. Báo hình (Truyền hình)
Báo hình là loại hình phương tiện truyền thơng đại chúng truyền tải
thông tin bằng sự kết hợp hài hồ giữa hình ảnh động và âm thanh, tạo ra khả
năng chuyển tải các nội dung thông tin vô cùng phong phú, hấp dẫn và có hiệu
quả bằng phương tiện truyền thơng truyền hình.
Sự xuất hiện của truyền hình thực sự là một cuộc cách mạng trong lĩnh
vực thông tin đại chúng, hầu hết các sự kiện, hiện tượng, vấn đề gì của hiện
thực đời sống đều có thể biểu đạt, phản ánh qua các chương trình truyền hình.
Đây là điều kiện tốt để người xem tiếp nhận thông tin, nhận thức những giá trị
văn hoá tinh thần một cách đầy đủ nhất. Trong thời đại ngày nay, với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ, với sự trợ giúp của mạng lưới


12

vệ tinh địa tĩnh trong khơng gian, các chương trình truyền hình được truyền đi
khắp thế giới đáp ứng tức thời cùng lúc một sự kiện cho hàng triệu người ở mọi
thời điểm khác nhau trên trái đất.
d. Báo điện tử
Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng giao diện website trên internet
để truyền tải thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm
cả hình ảnh động và âm thanh (video clip).
Internet là mạng thơng tin diện rộng, bao trùm tồn cầu, hình thành trên

cơ sở kết nối các máy tính điện tử, cho phép liên kết con người lại bằng thông
tin và kết nối nguồn tri thức đã tích luỹ được của tồn nhân loại trong một
mạng lưu thông thống nhất. Quy mô, phạm vi ảnh hưởng của thông tin trên
mạng internet rộng lớn hơn nhiều so với các phương tiện thông tin thơng
thường khác. Với internet, mọi người có khả năng và điều kiện rất thuận lợi
trong việc tiếp cận trực tiếp các nguồn thơng tin.
1.2. NGƠN NGỮ BÁO CHÍ
1.2.1. Đặc trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí
Phong cách ngơn ngữ hay phong cách chức năng ngôn ngữ được hiểu là
những khn mẫu trong hoạt động lời nói, hình thành từ những thói quen sử
dụng ngơn ngữ, có tính chất truyền thống, chuẩn mực. Theo Cù Đình Tú [43,
tr.45]: “Phong cách chức năng ngôn ngữ là dạng tồn tại của ngôn ngữ dân tộc
biểu thị quy luật lựa chọn, sử dụng các phương tiện biểu hiện tùy thuộc vào
tổng hợp các nhân tố ngồi ngơn ngữ như hồn cảnh giao tiếp, đề tài và mục
đích giao tiếp, đối tượng tham gia giao tiếp”.
Có nhiều cơ sở phân loại khác nhau về các phong cách chức năng ngôn
ngữ trong tiếng Việt, vận dụng quan điểm giao tiếp để phân loại thì cách phân


13

loại các phong cách chức năng ngôn ngữ được nhiều người chấp nhận gồm:
phong cách hành chính - cơng vụ, phong cách khoa học, phong cách chính
luận, phong cách báo chí - cơng luận, phong cách ngơn ngữ nghệ thuật và
phong cách sinh hoạt hàng ngày.
Phong cách báo chí - công luận, theo định nghĩa của các tác giả Đinh
Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hịa trong giáo trình Phong cách học tiếng Việt [21,
tr.99]: “là khn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản, trong đó thể hiện vai
của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực báo chí - cơng luận. Nói cụ thể hơn
đó là vai của nhà báo, người đưa tin, người cổ động, người quảng cáo, bạn đọc

(phát biểu)... tất cả những ai tham gia vào hoạt động thông tin của xã hội về tất
cả các vấn đề thời sự”.
Báo chí - với những yêu cầu và đặc điểm riêng biệt của mình đã hình
thành nên đặc điểm mang tính đặc trưng của ngơn ngữ báo chí, từ đó dẫn tới
phong cách chức năng ngơn ngữ báo chí. Ngơn ngữ báo chí là ngơn ngữ sự
kiện, đó là ngơn ngữ khách quan về những hoạt động, những gì đang xảy ra
đúng như hiện thực khách quan, nhà báo khơng trình bày dài dịng hay thêm
thắt những nhận xét, bình luận chủ quan của của mình. Ngơn ngữ sự kiện loại
bỏ những tìm tịi chi li, loại bỏ mọi yếu tố xa lạ với cách tường thuật trực tiếp
những sự kiện vừa xảy ra. Vì thế, sự kiện đã tạo nên đặc trưng của phong cách
ngôn ngữ báo chí với những tính chất cụ thể, mà theo tác giả Hồng Anh [1,
tr.9-13] đó là những đặc trưng:
- Tính chính xác:
Ngơn ngữ phải phản ánh đúng bản chất của sự vật trong từng thời khắc,
từng bối cảnh nhất định. Đối với báo chí, tính chính xác có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội, chỉ cần sơ suất
dù nhỏ khi sử dụng ngôn từ sẽ dẫn đến sự khó hiểu hoặc sai lệch thơng tin.


14

Điều này có thể dẫn đến hậu quả khơn lường, đặc biệt đối với thơng tin chính
trị, đối ngoại, thơng tin y học,... Báo chí sử dụng ngơn ngữ chính xác khơng chỉ
đạt hiệu quả giao tiếp cao mà cịn góp phần khơng nhỏ vào việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
- Tính cụ thể:
Mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với
một không gian, thời gian xác định; với những con người xác định. Nhà báo
phản ánh thông tin phải cụ thể, thậm chí cặn kẽ đến từng chi tiết. Có như vậy,
người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực

tiếp chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm. Đây là những yếu tố
tạo nên sự thuyết phục, nhờ tính cụ thể mà cơng chúng có thể kiểm chứng
thơng tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngơn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa
việc dùng các từ ngữ, cấu trúc khơng xác định hay mơ hồ về nghĩa.
- Tính đại chúng:
Báo chí là phương tiện thơng tin đại chúng, tất cả mọi người trong xã hội
đều là đối tượng phục vụ của báo chí. Cơng chúng vừa tiếp nhận thơng tin vừa
có thể bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Chính vì thế, ngơn ngữ báo chí phải
là ngơn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi. Tính
đại chúng địi hỏi ngơn ngữ báo chí phải làm cho cơng chúng nhận thức một
cách đầy đủ nội dung tác phẩm tương ứng với ý đồ của tác giả. Tuy nhiên, phổ
cập rộng rãi khơng có nghĩa là dễ dãi, thấp kém.
- Tính ngắn gọn:
Trong một tác phẩm báo chí, thơng tin phải được dồn nén một lượng tối
đa trong một đơn vị ngôn ngữ hạn hẹp để đáp ứng nhu cầu thông tin của công
chúng “thiếu thời gian”. Công chúng không có nhiều thời gian và cũng khơng
muốn mất nhiều thời gian chỉ để nắm bắt một thơng tin nào đó. Vì vậy, các nhà


15

báo thường chọn lọc những từ ngữ thật đắt, thật trúng để truyền đạt thông tin
sao cho vừa gọn nhẹ, vừa dễ hiểu. Sự dài dịng có thể làm lỗng thông tin, ảnh
hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Từ đó dẫn tới một
đặc điểm của ngơn ngữ báo chí là cần ngắn gọn, súc tích; có những thể loại, tin,
bài “càng ngắn gọn, càng súc tích càng hay”.
- Tính định lượng:
Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngơn từ vì chúng thường bị
giới hạn trong một khoảng thời gian hay diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa
chọn và sắp sếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh được

đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt q khung cho phép về khơng gian và
thời gian. Tính định lượng của ngơn ngữ báo chí giúp cho nhà báo rèn luyện
được thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm.
- Tính bình giá:
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện, mà cịn
phải thể hiện cơng khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thơng qua sự bình
giá. Sự bình giá này có thể là tích cực và cũng có thể là tiêu cực, song trong bất
kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua ngơn từ.
- Tính biểu cảm:
Tính biểu cảm trong ngơn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ
ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, qua đó làm tác phẩm
sinh động hấp dẫn hơn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả, làm
cho họ đạt tới một trạng thái tâm lý cảm xúc nhất định, từ đó tác động làm thay
đổi hành vi trong thực tiễn. Nếu thông tin báo chí chỉ là những dịng chữ khơ
khan, khơng mang tính biểu cảm thì nội dung mà nó chuyển tải khó có thể
được cơng chúng tiếp nhận như mong muốn, vì nó mới chỉ tác động vào lý trí
của họ.


16

- Tính khn mẫu:
Đó là những cơng thức ngơn từ có sẵn (lớp từ ngữ văn hóa), được sử
dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hóa quy trình thơng tin, làm cho nó trở nên
nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc
thái biểu cảm trung tính… Giao tiếp báo chí khơng thể thiếu khn mẫu vì nó
tiết kiệm thời gian và cơng sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc đưa tin
cập nhật, tức thời. Song, khác với khuôn mẫu trong văn bản khoa học, văn bản
hành chính thường khơ khan, cứng nhắc, bất di bất dịch; khuôn mẫu báo chí rất
linh hoạt, uyển chuyển; các thành tố khn mẫu trong ngơn ngữ báo chí ln

kết hợp hài hịa với các thành tố biểu cảm nên ngơn ngữ báo chí thường mềm
mại, hấp dẫn.
1.2.2. Đặc điểm ngơn ngữ báo chí
Ngơn ngữ báo chí là ngơn ngữ sự kiện, thu hút người đọc qua cách diễn
đạt ngắn gọn chính xác, trung thực hấp dẫn, chứa đựng nhiều thông tin - những
thông tin được nói rõ và những thơng tin chìm ẩn giữa những dòng chữ. Theo
định nghĩa của Nguyễn Thị Thoa [40, tr.72]: “Ngơn ngữ báo chí là tồn bộ các
tín hiệu và các quy tắc kết hợp chúng mà nhà báo dùng để chuyển tải thông tin
trong tác phẩm báo chí”. TS. Vũ Quang Hào cịn cho biết thêm: “Đối với ngơn
ngữ báo chí, ngồi ngơn ngữ thành văn cịn một kênh nữa mà theo thuật ngữ
của các nhà nghiên cứu đặt ra là kênh ngôn ngữ phi văn tự (bao gồm: ảnh, đồ
hình, biểu bảng, maquette, v.v...) [15, tr.12].
Có thể kể đến các đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ báo chí bao gồm: đặc
điểm về ngữ âm, đặc điểm từ vựng, đặc điểm ngữ pháp và các đặc điểm diễn
đạt khác. Các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí - cơng luận đã được TS. Bùi
Trọng Ngỗn [28, tr.17] trình bày một cách cụ thể:


17

a. Đặc điểm ngữ âm:
Báo chí có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội, trong sự phát
triển kinh tế - văn hóa của địa phương nói riêng và cả nước nói chung, vì thế
ngơn ngữ được sử dụng trong báo chí phải là ngơn ngữ chuẩn.
- Ở dạng nói: Ngơn ngữ báo chí địi hỏi phải phát âm chuẩn xác, dễ
nghe, ngữ điệu phù hợp với nội dung thể hiện.
- Ở dạng viết: Phải viết đúng chính tả; để tạo sự hấp dẫn có thể sử dụng
nhiều mẫu chữ nhưng phải dễ đọc, dễ nhận dạng.
Cũng như phong cách khoa học, phong cách báo chí cơng luận khai thác
tất cả mọi tiềm năng của hệ thống ngữ âm tiếng Việt, nhất là trong trường hợp

phiên âm danh từ riêng tiếng nước ngồi.
Để giản tiện, ngơn ngữ báo chí thường dùng lối viết tắt tên gọi các tổ
chức, đơn vị và chức danh làm cho việc viết và tiếp thu thông tin được nhanh
gọn, như: CBCNV (cán bộ công nhân viên), CLB (câu lạc bộ), HSSV (học sinh
sinh viên), TNTN (thanh niên tình nguyện),...
b. Đặc điểm từ vựng:
- Báo chí là phương tiện thơng tin đại chúng, u cầu quảng bá rộng rãi
buộc ngôn ngữ phải sử dụng từ ngữ tồn dân - những từ ngữ có tính thông
dụng cao. Các loại từ ngữ xã hội, như từ nghề nghiệp, tiếng lóng, biệt ngữ, chỉ
xuất hiện hạn chế trong một số thể loại văn bản như phóng sự xã hội, phóng sự
điều tra,...
- Hướng vào mục đích quảng bá rộng rãi, tăng cường tính hấp dẫn, tạo
sự lơi cuốn, phong cách ngơn ngữ báo chí đã sinh ra một lớp từ ngữ (mang màu
sắc phong cách báo chí rõ rệt) được cấu tạo đặc biệt và giàu sắc thái biểu cảm.


18

- Ngơn ngữ báo chí cịn sử dụng một lớp từ ngữ thuộc nghề báo như: tiết
lộ, đưa tin, hãng thơng tấn, thơng tín viên, đặc phái viên, theo nguồn tin từ,...
c. Đặc điểm ngữ pháp:
Đặc điểm ngữ pháp nổi bật của ngơn ngữ báo chí - cơng luận là sử dụng
kết hợp những yếu tố khuôn mẫu và yếu tố diễn cảm. Đặc điểm này được thể
hiện không như nhau trong các thể loại báo chí chính luận khác nhau.
- Khi thông tin sự kiện thời sự, ngôn ngữ báo chí cơng luận thường dùng
câu khuyết chủ ngữ nhằm tăng cường độ tập trung thông tin; thường được dùng
ở đầu các bản thơng báo, bản tin. Ví dụ: Hơm qua... tại... tổ chức...
- Bên cạnh đó là việc sử dụng kết cấu đảo chủ vị gây ra những ấn tượng
mạnh mẽ về ngữ nghĩa.
- Trong nhan đề các bản tin thường có dạng câu nhiều thành phần tách

biệt được in thành dòng riêng để nhấn mạnh các nội dung thông tin.
- Địa điểm xảy ra sự kiện thường được tách ra như một đề ngữ, làm nổi
bật thông tin muốn nói đến.
- Văn bản cổ động và quảng cáo thiên về sử dụng những câu văn ngắn và
dạng câu đặc biệt nhằm cơ đúc nội dung muốn nói đến và tăng sức thuyết phục
của thông tin.
d. Các đặc điểm diễn đạt khác:
- Văn bản báo chí thường dùng những cách diễn đạt biểu cảm, giàu hình
ảnh để làm nổi bật nội dung thông tin; sử dụng nhiều phương tiện tu từ và biện
pháp tu từ tạo nên sự sinh động, hấp dẫn cho nội dung thông tin chuyển tải.
- Các văn bản thơng tin báo chí thường có kết cấu theo khuôn mẫu nhất
định để việc truyền đạt và tiếp nhận thơng tin được nhanh chóng, dễ dàng hơn.
Ví dụ: TTXVN - Ngày... người phát ngôn Bộ Ngoại giao... cho biết...


×