Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 70 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC – MẦM NON
----------

NGUYỄN THỊ THU

Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ
3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen
tác phẩm văn học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


2

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ ngay từ thời thơ
ấu nhằm phát triển toàn diện cho trẻ về mọi mặt. Trong đó, phát triển ngơn
ngữ cho trẻ là một mục tiêu quan trọng hàng đầu.
Ngơn ngữ có vai trị to lớn trong cuộc sống con người. Nhờ ngôn ngữ mà
con người có thể trao đổi thơng tin, trị chuyện, tâm sự với nhau. Vì thế, Bác
Hồ đã dạy “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của
dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, tơn trọng nó”. Trong cơng tác giáo dục
mầm non chúng ta càng thấy rõ vai trị của ngơn ngữ đối với việc giáo dục trẻ
thơ. Ngôn ngữ được xem là cầu nối giữa trẻ với người lớn, bạn bè cũng như
tri thức xung quanh. Nhà giáo dục mầm non Liên Xô Êitikhêva đã xem đây là


khâu chủ yếu nhất trong các hoạt động ở trường mầm non, là tiền đề thành
công của các công tác khác.
Vốn từ là nền tảng của q trình phát triển ngơn ngữ. Với vốn từ phong
phú trẻ có thể biểu đạt sự hiểu biết, cũng như nhu cầu, nguyện vọng của mình
cho người lớn hiểu và hiểu được ý nghĩa của người lớn muốn nói gì từ đó
giúp trẻ tích cực hoạt động giao tiếp với mọi người. Trẻ 3 – 4 tuổi là giai đoạn
vốn từ phát triển đạt tới tốc độ nhanh, mà khó có giai đoạn nào sánh bằng.
Ngược lại nếu ở tuổi lên ba mà trẻ khơng có điều kiện giao tiếp, khơng được
nói thì vốn từ kém phát triển và mặt khác cũng trì trệ theo. Vì vậy phát triển
vốn từ cho trẻ ở giai đoạn này là cần thiết, góp phần quan trọng vào việc phát
triển tồn diện cho trẻ.
Thông qua những bài thơ, câu chuyện nhằm mở mang nhận thức cho trẻ
về thế giới xung quanh, đồng thời bồi dưỡng những cơ sở phẩm chất đạo đức
con người. Bên cạnh đó, ngơn ngữ trong các tác phẩm văn học rất trong sáng,
mang tính chính xác và biểu cảm có ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn cũng như


3

ngôn ngữ của trẻ. Trẻ được tiếp xúc với những hình ảnh đẹp, mong muốn tạo
ra cái đẹp, bước đầu hình thành ở trẻ những nhận thức thẩm mỹ. Tác phẩm
văn học không chỉ cung cấp cho trẻ vốn từ lọai mà còn cung cấp cho trẻ
những biểu tượng cụ thể, có ý nghĩa. Vì vậy, trẻ có thể hiểu nghĩa của từ, sử
dụng từ đúng, phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Như vậy việc phát triển vốn từ
cho trẻ thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học là cần thiết.
Thực tiễn cho thấy, hiện nay ở các trường mầm non do số lượng trẻ quá
đông nên giáo viên chưa chú ý nhiều tới việc phát triển, mở rộng vốn từ cho
trẻ.
Từ những lý do trên đây nên chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp
phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm

văn học” làm đề tài nghiên cứu của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi
thông qua hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học.
III. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt
động làm quen tác phẩm văn học.
IV. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông
qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học như sử dụng các trị chơi, tranh
ảnh… thì việc phát triển vốn từ cho trẻ sẽ đạt hiệu quả cao.
V. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan tới đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng biện pháp phát triển vốn từ của trẻ 3 – 4 tuổi thông
qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học và thực trạng vốn từ của trẻ mẫu
giáo 3 – 4 tuổi ở trường Mầm Non.


4

- Xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông
qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học.
- Tiến hành thực nghiệm nhằm xác định tính hiệu quả của các biện pháp
đã đề xuất.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ
mẫu giáo 3 – 4 tuổi tại các trường Mầm non Hoa Phượng Đỏ, trường mầm
non 19/ 05, trường mầm non 20/ 10 trên địa bàn quận Hải Châu, Thành phố
Đà Nẵng.

VI. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phối hợp với các phương
pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thu thập các tài liệu liên quan tới đề
tài, từ đó khái quát hoá, hệ thống hoá các cơ sở lý luận để làm rõ đề tài.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
a. Phương pháp quan sát: Dự giờ, theo dõi việc tổ chức hoạt động nhằm
xác định thực trạng việc sử dụng các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ trong
hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
b. Phương pháp điều tra bằng Anket: Sử dụng phiếu điều tra giáo viên
mẫu giáo bé tại các trường mầm non Hoa Phượng Đỏ, trường mầm non 20/
10, trường mầm non 19/ 05, nhằm tìm hiểu thực trạng việc sử dụng các biện
pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác
phẩm văn học.
c. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm một số biện pháp tổ
chức hoạt động làm quen tác phẩm văn học nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
d. Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với giáo viên, đàm thoại với trẻ,
tổng kết rút kinh nghiệm về các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi.
3. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý các số liệu thu thập được


5

VII. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm 3 phần
Phần mở đầu
Phần nội dung:
Chương 1: Cơ sở lý luận của biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ Mẫu
giáo 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học.
Chương 2: Thực trạng phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt

động làm quen tác phẩm văn học ở trường mầm non.
Chương 3: Xây dựng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ Mẫu
giáo 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học và thực
nghiệm sư phạm.
Kết luận và kiến nghị


6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề phát triển ngơn ngữ nói chung, phát triển vốn từ nói riêng đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Theo J. Piaget và L. S. Vưgotxki đã tập trung nghiên cứu tư duy và ngôn
ngữ của trẻ em. L. S. Vưgotxki coi ngôn ngữ là cơ sở cho mọi chức năng trí
tuệ cao cấp.
Một số nhà nghiên cứu đã gợi ý ra rằng từ vựng là một yếu tố cực kì
quan trọng trong sự phát triển của trẻ đặc biệt là ở kĩ năng đọc và nói. Khi trẻ
có một vốn từ vựng phong phú thì chúng sẽ nói tốt hơn và có khuynh hướng
học tốt hơn so với những đứa trẻ cùng lứa mà có vốn từ hạn hẹp. Tuy nhiên
vấn đề vốn từ cũng như phát triển vốn từ cho trẻ chưa được các nhà nghiên
cứu trên thế giới quan tâm nhiều.
Ở Việt Nam, vấn đề phát triển ngơn ngữ nói chung và phát triển vốn từ
nói riêng cũng được các nhà giáo dục quan tâm và đi vào nghiên cứu. Mặc dù
còn mới mẻ nhưng đã thu được một số kết quả nhất định, như đưa ra những
chỉ số phát triển về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, vốn từ; về khả năng ngôn
ngữ trẻ em và những cách tiếp cận tâm lí ngơn ngữ học, ngơn ngữ học xã hội
đến đối tượng này.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với: Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho

trẻ mẫu giáo dưới 6 tuổi, đã đưa ra các phương pháp cụ thể giúp trẻ phát triển
ngơn ngữ, vốn từ của mình. Tác giả đã đưa ra một số biện pháp nhằm phát
triển vốn từ cho trẻ như: hướng dẫn trẻ quan sát, sử dụng tranh ảnh, đồ dùng,
đồ chơi, sử dụng trò chơi học tập, trị chơi phát triển ngơn ngữ…
Tác giả Hồng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với Phương
pháp phát triển ngôn ngữ. Tác giả đã đưa ra các phương pháp để giúp trẻ tăng
vốn từ của mình.


7

Nói đến việc nghiên cứu ngơn ngữ trẻ em Việt Nam, phải kể đến Đoàn
Thiện Thuật, Lê Quang Thiêm, Nguyễn Huy Cẩn, Lưu Thị Lan,...
Vốn từ, khả năng hiểu nghĩa của từ, ngữ pháp của trẻ em ở các độ tuổi
khác nhau có các cơng trình nghiên cứu của Dương Diệu Hoa (1985), Nguyễn
Minh Huệ (1989), Hồ Minh Tâm (1989)…. Lưu Thị Lan trong cơng trình
nghiên cứu: “Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ em từ 1 – 6 tuổi” đã chỉ
rõ các bước phát triển về ngữ âm của trẻ em Việt Nam bắt đầu từ giai đoạn
tiền ngôn ngữ, giai đoạn ngôn ngữ, về mặt ngữ âm có những bước tiến dài đặc
biệt là giai đoạn 4 – 6 tuổi. Các bước phát triển về từ vựng được tác giả thống
kê ở từng lứa tuổi với số lượng từ tối thiểu và số lượng từ tối đa. Từ 18 tháng
trở đi trẻ có sự nhảy vọt về số lượng từ và yếu tố văn hóa, xã hội ảnh hưởng
trực tiếp đến vốn từ của trẻ. Cũng theo tác giả Lưu Thị Lan để phát triển vốn
từ cần tổ chức cho trẻ quan sát sự vật hiện tượng và đàm thoại, cùng trẻ phân
tích sự vật, hiện tượng. Cho trẻ nghe thơ, chuyện, chơi một số trò chơi như
đoán con vật qua tiếng kêu, kể tên các con vật em biết, trị chơi nối từ, nói từ
tiếp theo, chơi đóng vai theo chủ đề, kể chuyện theo tranh…
Các nhà nghiên cứu giáo dục đều khẳng định phát triển vốn từ là nền
tảng quan trọng để phát triển ngôn ngữ, có ý nghĩa quan trọng quyết định đến
mọi mặt sau này của trẻ.

Nhìn chung vấn đề vốn từ của trẻ đã được các nhà nghiên cứu trong nước
quan tâm. Tuy nhiên phát triển vốn từ trong hoạt động làm quen tác phẩm văn
học thì chưa được chú ý nhiều. Trên cơ sở kế thừa các cơng trình nghiên cứu
nói trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu một số biện pháp phát triển vốn từ
cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học.
1.2 Cơ sở tâm sinh lý liên quan tới đề tài
1.2.1 Cơ sở tâm lý
Các nhà tâm lý học cho rằng ngơn ngữ là một q trình tâm lý. "Ngơn
ngữ là q trình con người sử dụng thực tiễn tiếng nói để giao tiếp với người


8

khác. Trong quá trình giao tiếp con người biểu hiện ý nghĩ và cảm xúc nhờ
tiếng nói, do đó hiểu nhau để cùng nhau tiến hành hoạt động ". Ngôn ngữ là
dạng hoạt động cần thiết và rất quan trọng cho mọi hoạt động . Những nghiên
cứu tâm lý học đã chỉ ra các chức năng tâm lý của hoạt động ngôn ngữ .
+ Chức năng giao lưu
+ Chức năng ghi nhận, giữ gìn các di sản lịch sử cuả lòai người
+ Chức năng truyền đạt và tiếp thu các di sản lịch sử của lồi người
+ Chức năng cơng cụ của hoạt động trí tuệ
Ngồi ra các tiền đề của các cơ quan sinh lý, sự phát triển trưởng thành
và chín muồi của các cơ quan sinh lí là tiền đề của việc phát triển ngôn ngữ.
Mặt khác, tâm lý học lứa tuổi chia các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ
thành các giai đoạn:
Giai đoạn tiền ngôn ngữ: Đây là giai đoạn trẻ giao tiếp chủ yếu bằng cử
chỉ tay chân, nét mặt, ánh mặt hoặc các âm bập bẹ như ư, a… Giai đoạn này
thường kéo dài đến gần một tuổi
Giai đoạn ngôn ngữ: Giai đoạn này trẻ sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp.
Dần dần vốn từ của trẻ tăng lên. Trẻ bắt đầu nói câu có một từ đến câu có

nhiều từ, nói được câu đầy đủ thành phần
1.2.2 Cơ sở sinh lý
Ngôn ngữ nghiên cứu trong lĩnh vực sinh lý học cung cấp cho chúng ta
những kiến thức về đặc điểm, về sự hình thành phát triển và chín muồi của
các cơ quan sinh lý tham gia vào quy trình lĩnh hội vốn từ. Đó là các cơ quan
phát âm, cơ quan thính giác hệ thần kinh cao cấp.
Học thuyết của Pavlop và Xechnop về hai hệ thống tín hiệu mối liên
quan của hai hệ thống tín hiệu này về vai trị qui định của hệ thống tín hiệu
thứ hai được coi là một tín hiệu đặc biệt thay cho tất cả các tín hiệu trực tiếp
và lĩnh hội vốn từ có cơ chế cũng như cơ chế hình thành phản xạ có điều kiện.


9

Về mặt sinh lý học thần kinh cao cấp, sự truyền đạt tri thức bằng vốn từ,
chính là q trình tham gia vào việc tạo nên các liên hệ tạm thời,nhờ đó mà
con người khác hẳn động vật về mặt tư duy, ý thức. Các nhà giải phẫu đã
khẳng định: trong ba năm đầu là kết thúc sự trưởng thành về mặt giải phẩm
trong những vùng vỏ nảo chỉ huy ngơn ngữ. Vì thế cần phải phát triển vốn từ
đúng lúc mới đạt kết quả tốt.
Sự nảy sinh và phát triển ngơn ngữ bắt nguồn từ hoạt động bên ngồi
(thao tác đối tượng), sau đó là hoạt động bên trong (tâm lý), từ nhu cầu giao
tiếp, hoạt động giao tiếp trong xã hội. Những dạng hoạt động này về sau vẫn
được xem là ngọn nguồn vô tận của sự phát triển ngôn ngữ, của năng lực sử
dụng vốn từ. Sự phát triển vốn từ gắn liền với sự phát triển của tư duy logic.
Vì vậy nếu một đứa trẻ có khả năng tư duy tốt thì đứa trẻ đó có vốn từ phong
phú và ngược lại.
Vốn từ trong ngôn ngữ có mối quan hệ tới nhiều nghành khoa học khác.
Đó chính là cơ sở, tiền đề giúp cho các nhà giáo dục tìm ra những biện pháp,
hình thức giáo dục phù hợp để phát triển vốn từ và các mặt khác nhằm hồn

thiện, phát triển khả năng ngơn ngữ cho trẻ.
1.3 Cơ sở ngôn ngữ học và việc phát triển vốn từ cho trẻ
1.3.1 Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một khái niệm trừu tượng, phức tạp và nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Theo quan điểm của các nhà ngôn ngữ học: ngôn ngữ là một hệ thống
các ký hiệu từ ngữ và hệ thống bộ phận là từ vựng, ý nghĩa của từ và ngữ
pháp – là một hệ thống các quy tắc quy định sự ghép các từ thành câu. Nó là
phương tiện của giao lưu và công cụ của tư duy. Bất cứ một thứ ngôn ngữ nào
cũng chứa đựng hai phạm trù: phạm trù ngữ pháp – là một hệ thống các quy
tắc quy định việc thành lập từ và câu, phạm trù này đặc trưng cho từng thứ
tiếng và phạm trù logic – là quy luật, phương pháp tư duy đúng đắn của con


10

người, nói chung cho cả lồi người. Vì vậy tuy dùng các thứ tiếng khác nhau
nhung các dân tộc vẫn hiểu được nhau.
Học thuyết Mác – Lê Nin đã chỉ ra rằng: Ngôn ngữ bắt đầu từ lao động ,
bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong lao động
và trong cuộc sống. Ở trẻ, ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu giao tiếp giữa trẻ
với môi trường xung quanh. Lúc đầu ngôn ngữ của trẻ chỉ là từng tiếng, từ
riêng lẽ xuất phát từ sự nhận thức thế giới xung quanh. Qua quá trình tiếp xúc
với mọi người, vốn ngôn ngữ của trẻ tăng lên, trẻ học được cách nói của người
lớn, và được mọi ngươì dạy lúc đó trẻ mới nói được câu hồn chỉnh [8, tr 5].
Ngơn ngữ chỉ có ở con người và cũng chính từ lao động con người tiến
hóa từ vượn thành người và phát triển . V.I.Lênin nói: “Ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người”[8, tr 12]. Ngồi ra ơng cũng có
một nhận xét rất hay “ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy… là ý thức thực
tại, thực tiễn; và tương tự như ý thức, ngôn ngữ sinh ra chỉ do nhu cầu, do sự

cần thiết phải giao tiếp với người khác.
Dưới góc độ tâm lý: ngơn ngữ là phương tiện biểu hiện ý thức con người
và nó là một quá trình tâm lý. Ngơn ngữ đặc trưng cho từng người. Sự khác
biệt cá nhân về ngôn ngữ thể hiện ở cách phát âm, cấu trúc của câu, sự lựa
chọn của từ.
Khác với quan điểm trên, các nhà sinh lý học lại coi ngơn ngữ là tín hiệu
của hệ thống tín hiệu thứ hai, chính là hiện tượng ngơn ngữ tham gia vào việc
tạo nên các đường “liên hệ tạm thời”, là cơ sở cho tư duy trừu tượng. Nhờ có
hệ thống đường thần kinh liên hệ tạm thời này mà con người khác hẳn động
vật[4, tr 15].
Từ những phân tích trên có thể hiểu rằng, ngơn ngữ là một hệ thống các
ký hiệu có cấu trúc, có quy tắc và có ý nghĩa được con người sử dụng làm
phương tiện để giao tiếp để truyền đạt, để lĩnh hội những kinh nghiệm của xã
hội lịch sử hoặc để kế hoạch hóa hoạt động của mình.


11

1.3.2 Từ trong hệ thống ngơn ngữ
Theo giáo trình Bài giảng Tiếng Việt – Th.S Nguyễn Thị Thúy Nga,
trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng “Từ là do các hình vị tạo nên, có chức
năng định danh, gọi tên (sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất, trạng
thái…) được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo thành câu”.
“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập,
tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên câu”.
L. Bloomfield, xem “từ là một hình thái tự do nhỏ nhất”[4,tr 137]. Có
nghĩa rằng từ là một hình thái nhỏ nhất có thể xuất hiện độc lập được.
Từ ln ln có nghĩa "Từ mà khơng có nghĩa thì khơng phải là từ mà
chỉ là âm thanh trống rỗng". Mỗi từ là một sự khái quát và bao hàm nhiều lớp
ý nghĩa Nghĩa của từ vừa là đơn vị của chức năng ngôn ngữ, vừa là đơn vị của

chức năng tư duy. Từ đó ta có thể thấy sự thống nhất của ý tưởng và từ, mỗi
từ đều mang ý nghĩa khái quát, nhưng đối với trẻ em thì mỗi từ đại diện cho
một cái cụ thể, riêng rẽ. Các sự vật, hiện tượng xung quanh được trẻ dùng từ
ngữ biểu trưng để gọi tên chúng. Qua đó trẻ mới tư duy để lĩnh hội tri thức
thông qua ngôn ngữ. Đồng thời, trẻ biết sử dụng vốn từ ngữ của mình để giao
tiếp, diễn đạt mọi suy nghĩ với người khác, giúp cho ngơn ngữ của mình phát
triển và được hồn thiện hơn.
Vì vây có thể kết luận: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu và
ngữ âm bền vững và hồn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc
lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu”[4,tr 142].
1.3.3 Đặc điểm vốn từ của trẻ 3 – 4 tuổi
Giai đoạn 3 – 4 tuổi – giai đoạn phát cảm ngôn ngữ, kỹ năng ngôn ngữ
của trẻ đã phát triển lên một mức độ cao hơn, và những đặc điểm ngôn ngữ
của trẻ ở độ tuổi này cũng trở nên một nét đặc thù riêng so với các độ tuổi
khác.


12

a. Về số lượng từ loại
So với tuổi nhà trẻ, trẻ ở lứa tuổi Mẫu giáo có số lượng từ nhiều hơn hẳn.
Về số lượng từ của trẻ Mẫu giáo, các nhà ngơn ngữ học và tâm lý học có đưa
ra những số liệu khác nhau:
N.D. Levitốp cho rằng trẻ 3,5 tuổi có 1000 từ.
M. Becgiơrơng cho rằng trẻ 3, 5 tuổi có khoảng 1222 từ.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của trẻ nội thành
Hà Nội thì vốn từ của trẻ 4 tuổi là 1900 – 2000 từ [8,tr 49].
PGS.TS Nguyễn Công Khanh, chuyên gia cao cấp của Trường mầm non
Hoàng Gia (Hà Nội) từng chia sẻ rằng khi trẻ lên ba tuổi, trẻ có một vốn từ
vựng khoảng trên một ngàn từ, một số chuyên gia ngôn ngữ khác cũng cho

rằng vốn từ của bé lúc này có thể dao động từ 500-900 từ, và trẻ đã biết dùng
các cụm từ và câu dài từ 7-8 từ.
Mặc dù số lượng từ của trẻ mẫu giáo do các nhà tâm lý học, ngôn ngữ
đưa ra không giống nhau, nhưng sự chênh lệch này không đáng kể và các tác
giả khẳng định: số lượng từ của trẻ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau,
trong đó quan trọng nhất là các tác động của môi trường như: sự tiếp xúc
ngôn ngữ thường xuyên của những người xung quanh, trình độ của bố mẹ….
Về từ loại
Tỉ lệ từ loại trong vốn từ của trẻ mẫu giáo phát triển theo quy luật. Trẻ
càng lớn tỉ lệ danh từ, động từ giảm, tỉ lệ các từ loại khác tăng lên. Song mức
độ ở các năm có khác nhau và từng loại cũng khác nhau.
Theo Xtecnơ, trong ngôn ngữ trẻ em xuất hiện trước hết là danh từ, rồi
đến động từ và sau đó mớí đến các loại từ khác.
Theo Lưu Thị Lan, trẻ em mẫu giáo có tỷ lệ các từ loại như tính từ, trạng
từ, quan hệ từ được tăng lên, động từ giảm đi so với tuổi nhà trẻ.
Ở trẻ 3 - 4 tuổi:
Danh từ chiếm: 40%


13

Tính từ chiếm: 7,8%
Động từ chiếm: 2,4%
Ở trẻ 5 tuổi:
Danh từ chiếm: 35,2%
Tính từ chiếm: 8,64%
Trạng từ chiếm: 3,73%
Trẻ mẫu giáo nói nhiều nhưng chưa phải nói hay, vì vậy cần phải mở
rộng các loại từ để trẻ biết nói hay, biết sử dụng từ gợi cảm, từ văn học. Trẻ
mẫu giáo cũng bắt đầu bộc lộ những nét riêng: có trẻ dùng tính từ, trạng từ

nhiều hơn những trẻ khác.
Về danh từ: Nội dung ý nghĩa của từ được mở rộng, phong phú hơn
những từ có ý nghĩa rộng. Những từ chỉ nghề nghiệp của người lớn tăng,
ngoài ra cịn có những danh từ mang tính văn học.
Trẻ biết sử dụng một số từ chỉ những khái niệm trừu tượng, mặc dù trẻ
chưa hiểu hết nghĩa của những từ đó.
Về động từ
Phần lớn là những động từ gần gũi, tiếp tục phát triển thêm những nhóm
từ mới như: nhảy nhót,leng keng…, những động từ chỉ sắc thái khác nhau
như: chạy vèo vèo, chạy lung tung…
Xuất hiện thêm những động từ có ý nghĩa trừu tượng, khái qt…
Về tính từ
Phát triển về số lượng cũng như chất lượng tính từ. Trẻ sử dụng nhiều
tính từ có tính chất gợi cảm như: chua loét, to đùng…, các từ tượng thanh,
tượng hình.
Trẻ hiểu và biết dung các từ trái nghĩa như đẹp – xấu, cao – thấp…
Về trạng từ: Trẻ được mở rộng, được sử dụng các trạng từ như: hồi xưa,
hôm qua…


14

Về quan hệ từ: Trẻ biết sử dụng các quan hệ từ như: nếu, thì, nhưng
mà…
b. Khả năng hiểu nghĩa của từ
Bước sang giai đoạn 3 – 4 tuổi, trẻ có thể hiểu được những câu đơn giản
như “ai”, “cái gì”, “ở đâu”. Trẻ hiểu được từ trái nghĩa như đẹp – xấu, cao –
thấp, to – nhỏ, ngoan – hư. Hiểu được một số tình từ như chua, ngọt, đắng,
cay. Trẻ biết làm theo những gì người lớn yêu cầu và cũng đã học cách yêu
cầu, một cách lịch sự như nhờ bố, mẹ, anh chị, lấy cái này cái kia đã biết dung

“làm ơn” và biết “cảm ơn” khi được giúp đỡ, cho quà.
Ngoài ra ở giai đoạn này, trẻ có thể hiểu được những bài thơ, câu chuyện
ngắn gọn, đơn giản. Vì vậy trong quá trình giáo dục cho trẻ, cô giáo và người
lớn cần năm được đặc điểm phát triển của trẻ ở từng giai đoạn để có nội dung
giáo dục phù hợp. Đặc biệt trong hoạt động làm quen tác phẩm văn học ở
trường mầm non, cơ giáo cần chú ý giải thích những từ khó, từ trừu tượng
nhằm bổ sung, mở rộng vốn từ cho trẻ.
Tuy nhiên, cô giáo và người lớn cũng nên lưu ý nhiều đến trẻ ở độ tuổi
này, vì khi bé 3 - 4 tuổi, bé còn phát triển cả sở thích sử dụng các từ ngữ
khơng hay lắm mà trẻ vơ tình nghe được từ bạn bè. Vì vậy, cơ giáo cần chú ý
quan sát và giải thích cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Trẻ thơ như những trang giấy
trắng vì vậy chúng ta cần viết vào đó những gì tốt đẹp nhất.
c. Khả năng sử dụng từ trong câu
Lên ba là thời điểm khả năng ngôn ngữ của trẻ phát triển vượt bậc so với
giai đoạn trước. Khi bước vào tuổi thứ ba, trẻ có thể biết đặt câu hỏi và bày tỏ
ý kiến của mình khiến người lớn đôi lúc phải kinh ngạc và lúc này đứa trẻ đã
có thể nói câu đầy đủ (có đủ chủ vị ngữ và động từ), sau đó hồn thiện hơn
với những câu kép, có thán từ đi kèm.
Từ 3 tuổi trở đi, trẻ tiếp tục mở rộng vốn từ, hoàn thiện ngữ pháp và nâng
cao khả năng sử dụng ngơn ngữ của mình hơn nữa. Trẻ có thể nhớ được giai


15

điệu và lời ca của những bài hát ngắn, thích xem quảng cáo và ngân nga theo
những câu hát. Thậm chí, một số từ trẻ sử dụng lúc này có thể khơng có nghĩa
hoặc khiến người đối diện khơng hiểu.
Tuy nhiên vốn từ của trẻ cũng rất khác nhau, chênh rất xa có trẻ từ vài
trăm từ nhưng cũng có trẻ tới vài ngàn từ với từng trường hợp cụ thể. Trong
q trình phát triển, một số trẻ có thể gặp những khó khăn trong phát triển

ngơn ngữ như có thể hiểu ý nghĩa lời nói của người khác nhưng lại khơng nói
ra từ hoặc câu để thể hiện nhu cầu và hiểu biết của mình. Nếu trẻ 3 tuổi mà
vốn từ còn quá nghèo nàn, chưa biết cách phối hợp các từ để thể hiện nhu cầu
của mình, hoặc nếu trẻ khơng hịa nhập giao tiếp với bạn bè hoặc nhiều người
thì rất có thể nó đã gặp một bất thường trong giao tiếp. Vì vậy cơ giáo và
người lớn cần chú ý quan sát theo dõi để phát hiện những bất thường trong
ngôn ngữ của trẻ .
Bước sang giai đoạn 4 tuổi, vốn từ của trẻ phát triển thêm một bậc. Thậm
chí, đứa trẻ đã có thể nói rõ ràng để mọi người có thể hiểu, và có thể nói được
những câu phức tạp có những từ “bởi vì” hay "nhưng”, tuy nhiên một số âm
trẻ vẫn cịn phát âm chưa rõ nét như “thích – xích”…Ngồi ra ở giai đoạn
này, trẻ đã nói được trọn câu và bày tỏ mong muốn một cách đầy đủ. Đặc
biệt, trẻ cũng thích truyện và có thể trả lời câu hỏi về nhân vật trong truyện.
Trẻ cũng đã có thể hiểu gần như mọi điều người khác nói với mình tại nhà, tại
trường mầm non hay nhà giữ trẻ vì khả năng nghe ở mọi thời điểm của trẻ đã
vững vàng. Lúc này đứa trẻ có thể kể lại được những câu chuyện do nó tự ngĩ
hay những câu chuyện được nghe cơ giáo kể. Ngồi ra đứa trẻ cịn rất thích
tham gia chơi vào các trị chơi đóng vai theo chủ đề. Điều đó ảnh hưởng rất
lớn tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Mọi trẻ đều sử dụng ngơn ngữ của
mình trẻ vào các cuộc đối thoại giữa các trẻ với nhau và giữa các vai chơi,
qua đó trẻ có thể học hỏi ngơn ngữ của nhau và làm giàu vốn từ cho chính trẻ.
Khơng chỉ vậy, trẻ cũng không ngừng đặt những câu hỏi “Tại sao bầu trời


16

xanh?”, “Tại sao con là con trai?”bởi lúc này, đứa trẻ đang ở trong giai đọan
học hỏi khá quan trọng. Trẻ thích thắc mắc về mọi sự vật hiện tượng xung
quanh trẻ. Vì vậy người lớn cần tìm hiểu và đáp ứng những thắc mắc của trẻ.
Có như vậy mới giúp trẻ hiểu được những cái đơn giản, cung cấp cho trẻ

những kiến thức cần thiết, thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của trẻ.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ em lứa tuổi mầm non vừa là phương tiện
quan trọng để trẻ học tập có hiệu quả ở trường phổ thơng. Ngôn ngữ của trẻ
lứa tuổi mầm non chủ yếu là ngơn ngữ nói, Sự phát triển ngơn ngữ nói của trẻ
em với người lớn và trẻ em với nhau. Trong cơng tác giáo dục mầm non
người lớn cần phải có ý thức rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ một
cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động.
1.3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển vốn từ của trẻ 3 – 4 tuổi
Dựa vào thuyết của vùng phát triển gần nhất của Vưgotski thì các tiền đề
của các cơ quan sinh lý, sự phát triển trưởng thành và chín muồi của các cơ
quan sinh lý là tiền đề của việc phát triển vốn từ cho trẻ:
+ Đặc điểm của bộ máy phát âm (sự phát triển của bộ máy phát âm)
+ Cơ quan thính giác các vùng miền não bộ
Vốn từ của những người xung quanh trẻ và môi trường giáo dục là điều
kiện để phát triển vốn từ. Trẻ em giao tiếp với người xung quanh, học các từ
của bạn bè, cha mẹ, người thân, thì vốn từ của trẻ phát triển và chịu ảnh
hưởng khơng nhỏ.
Ngơn ngữ nói chung và vốn từ nói riêng cịn phụ thuộc vào bộ máy phát
âm, sự phát triển của các giác quan, đặc biệt là thính giác và tri giác. Các yếu
tố vật chất này là tiền đề trực tiếp cho sự hình thành và phát triển khả năng
ngôn ngữ của trẻ.
Vốn từ được cấu thành từ các tiểu hệ thống đó là âm thanh, ngữ nghĩa,
cấu trúc chung và cách sử dụng trong giao lưu hàng ngày tổng hợp chúng vào
hệ thống giao tiếp sinh hoạt. Nó phụ thuộc vào các thành tố sau:


17

Thành tố 1: Thành tố đầu tiên là phát âm, hệ thống âm thanh của từ ta
dạy trẻ phát âm các âm của Tiếng Việt, phát âm các danh từ, động từ, tính từ,

phát âm các từ trong câu, cách phát âm cả câu, biểu đạt sự phát âm bằng cách
hạ giọng, nhấn mạnh từ, kéo dài từ… thể hiện sự biểu cảm cũng như thái độ
của người nói.
Thành tố 2: Ngữ nghĩa hay là cách thức một khái niệm nào đó được diễn
đạt trong từ hay một tập hợp từ. Khi trẻ mới sử dụng từ, từ đó thường khơng
có ý nghĩa giống như người lớn. Để xây dựng vốn từ của hàng ngàn từ và liên
kết chúng bằng mạng lưới các khái niệm có liên quan với nhau, lớn dần lên,
trẻ không những sử dụng từ một cách chính xác hơn, mà cịn ln ln có ý
thức với ngữ nghĩa của từ và thực hiện chúng theo cách thức sáng tạo
Thành tố 3: Ngữ pháp: khi trẻ lĩnh hội vốn từ trẻ bắt đầu liên kết từ theo
một qui luật nhất định để thực hiện một ý nghĩa nào đó. Kiến thức về ngữ
pháp có hai thành phần: cú pháp (là những qui luật mà từ được liên kết trong
câu) và hình thái học là cách sử dụng các qui luật ngữ pháp để biểu đạt.
Thành tố 4: Tình hình sử dụng vốn từ gắn với thực tiễn, gắn với tình
huống giao tiếp .
Để giao tiếp có hiệu quả trẻ em phải học cách tham gia vào các hoạt
động giao tiếp, tiếp tục phát triển chủ đề giao tiếp thể hiện ý kiến, ý nghĩa của
mình một cách rõ rạng. Thêm vào đó trẻ phải biết diễn đạt bằng cử chỉ, điệu
bộ bằng giọng nói và vận dụng ngữ cảnh để giao tiếp. Tính thực tiễn cịn bị
quy định bởi cách thức giao lưu, cách sử dụng ngôn ngữ, sử dụng vốn từ để
giao lưu và để giao tiếp thành thạo trẻ em còn phải học tập cách thức giao lưu
trong một xã hội nhất định theo các cấp bậc tuổi tác, các quan hệ xã hội, cách
chào hỏi, cách làm quen.
Một thời gian dài trong giáo dục truyền thống, người ta cho rằng sự phát
triển vốn từ của trẻ phụ thuộc phần lớn vào tính tích cực nói của cơ giáo và
cha mẹ, những người xung quanh trẻ. Vì vậy, người lớn thường xuyên giao


18


tiếp với trẻ càng nhiều càng tốt. Có như vậy vốn từ của trẻ sẽ được tăng lên và
ngày càng hồn thiện hơn.
Giao tiếp bằng ngơn ngữ nói thường xun với trẻ là yếu tố vô cùng
quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Nếu trẻ được sống giữa
những người có trình độ ngơn ngữ tốt thì khả năng ngôn ngữ của trẻ sẽ được
phát triển tốt. Trẻ học được cách phát âm chuẩn, vốn từ phong phú, giọng
truyền cảm, có ngữ điệu, biết dùng từ hay vào trong lời nói. Và ngược lại, nếu
trẻ sống trong mơi trường khơng thuận lợi thì ngơn ngữ sẽ chậm phát triển và
thường hay mắc các tật về ngôn ngữ
Trẻ 3 - 4 tuổi vốn từ cịn ít, một số trẻ chưa được quan tâm tạo điêù kiện
tiếp xúc, trò chuyện…để làm tăng vốn từ cho trẻ ở độ tuổi này khơng được
đến trường mầm non vì điều kiện, hồn cảnh nào đó, cho nên khơng được học
lẫn nhau, khơng học với nhau trong khi chơi, khi nghe mọi người nói chuyện,
khơng được nghe cơ kể chuyện… khơng được học nói, phát triển vốn từ trong
mơi trường sống thực của nó.
Như vậy môi trường ngôn ngữ và môi trường giáo dục là điều kiện để
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ em giao tiếp với mọi người xung quanh, học
ngôn ngữ nói của bạn bè, cha mẹ, người thân, Do đó vốn từ của trẻ phụ thuộc
rất lớn vào những người xung quanh trẻ, vào môi trường sống…đặc biệt cô
giáo và những người thân có ảnh hưởng gần như tuyệt đối. Vì vậy trong q
trình tiếp xúc, trị chuyện với trẻ cơ giáo và các bậc phụ huynh cần có ngơn
ngữ chuẩn và có kiến thức để có thể giải đáp những thắc mắc thường thấy ở
trẻ. Qua đó nhằm thỏa mản nhu cầu được giao tiếp, trò chuyện và nhu cầu
hiểu biết của trẻ. Có như vậy vốn từ của trẻ mới phát triển và hoàn thiện hơn.


19

1.4 Hoạt động làm quen tác phẩm văn học và vai trị của nó với việc
phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.

1.4.1 Hoạt động làm quen tác phẩm văn học
Trẻ mầm non chưa biết chữ, trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học thông qua cô
giáo và người lớn. Vì vậy, để giúp trẻ có cảm thụ tốt nhất các tác phẩm văn
học cô giáo cần nắm được nghệ thuật đọc, kể diễn cảm. Ngoài ra cần kết hợp
với đàm thoại, giảng giải, sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan phong phú để
giúp trẻ hiểu rõ tác phẩm hơn.
a. Các phương pháp cho trẻ làm quen tác phẩm văn học
* Đọc, kể tác phẩm một cách nghệ thuật là người đọc, người kể sử dụng
mọi sắc thái của giọng để trình bày tác phẩm, giúp cho người nghe có thể
“nhìn” thấy những cái đã được nghe và khơi gợi lên những rung động, những
cảm xúc ở họ. Có ý kiến cho rằng đọc truyện ngắn mà diễn cảm, gây được ấn
tượng cịn khó khăn hơn nhiều so với kể chuyện. Vì vậy, rèn luyện kỹ năng
kỹ năng đọc, kể nghệ thuật là một nhiệm vụ rất quan trọng và không dễ dàng
đối với người giáo viên. Bản thân người đọc, người kể có nhìn thấy được
những điều mình đọc, mình kể thì mới có thể giúp người nghe “nhìn” thấy
những gì họ nghe.
* Phương pháp trao đổi, gợi mở
Thuật ngữ “trao đổi, gợi mở” ở đây có thể hiểu như phương pháp đàm
thoại, một trong những phương pháp quen thuộc của hoạt động dạy học. Việc
kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe càn được kết hợp chặt chẽ trong quá trình
đàm thoại, giảng giải. Điều đó giúp cho trẻ có thái độ nhận thức đúng đắn với
tác phẩm. trong quá trình trao đổi, gợi mở cơ giáo cần sử dụng hệ thống câu
hỏi có tính gợi mở, có mục đích, có định hướng đẻ trao đổi. Đồng thời cơ cần
giải thích các từ mới, từ khó kết hợp với tranh ảnh minh họa, giúp cho trẻ hiểu
và cảm nhận sâu sắc tác phẩm.


20

* Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học trực quan

Các nhà tâm lý học cho rằng, trong sự lĩnh hội tri thức của học sinh nói
chung, trẻ mầm non nói riêng, tri thức càng trừu tượng thì trực quan càng có ý
nghĩa. Dạy học bằng trực quan rất tốt cho khả năng tư duy của trẻ.
Theo Từ điển tiếng Việt(NXB Từ điển Bách khoa) “Trực quan là
phương pháp giảng dạy dùng những vật cụ thể hoặc ngôn ngữ, cử chỉ thích
đáng, khiến học sinh hiểu rõ nhứng điều mình truyền thụ”.[3, tr 56]. Đồ dùng
trực quan không chỉ giúp trẻ hiểu rõ nội dung tác phẩm mà còn phát triển sự
tưởng tượng, tư duy và khả năng ngôn ngữ cho trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình
tổ chức hoạt động cô giáo cần lựa chọn đồ dùng phù hợp, sử dụng đúng lúc,
đúng chỗ có như vậy mới phát huy được tác dụng của nó.
* Phương pháp tổ chức các hoạt động văn học nghệ thuật
Theo các nhà tâm lý học thì hoạt động nghệ thuật xuất hiện như bản
năng của trẻ em. Trẻ em luôn cố gắng vươn tới sự biểu hiện những xúc động
một cách trực quan, biểu cảm. Theo N.A.Vetlughina(nhà giáo dục học mẫu
giáo của Nga) thì ta cần đưa trẻ, hướng trẻ vào hoạt động nghệ thuật. Việc tổ
chức hoạt động văn học nghệ thuật góp phần rèn luyện sự tự tin, mạnh dạn
cho trẻ. Ngoài ra, nó cịn là nơi phát hiện, tìm kiếm những tài năng nhỏ tuổi.
Từ đó giáo viên có thể có biện pháp thích hợp phát huy năng khiếu của trẻ.
b. Các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen tác phẩm văn học
* Hình thức cho trẻ làm quen tác phẩm văn học ngoài tiết học
Với trẻ mầm non, hoạt động học chiếm một thời gian rất ngắn so với thời
gian của hoạt động khác. Do đó, giáo viên cần tận dụng thời gian đón, trả trẻ,
vui chơi, lúc đi dạo tham quan để cho trẻ tiếp xúc với những tác phẩm có
trong chương trình hoặc ngồi chương trình. Qua đó giúp trẻ củng cố, ơn
luyện lại các nội dung đã được học, đồng thời tổ chức cho trẻ tham gia các trị
chơi như đóng kịch, trị chơi dân gian…giúp phát triển, rèn luyện vốn từ của
trẻ.


21


* Hình thức cho trẻ làm quen tác phẩm văn học trên tiết học
Kể chuyện đọc thơ cho trẻ nếu được thực hiện một cách có khoa học,
trình tự sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Trong quá trình tổ chức cho trẻ làm
quen tác phẩm văn học, cô giáo cần lựa chọn những tác phẩm có trong
chương trình, đáp ứng những mục đích, yêu cầu đưa ra. Việc tổ chức cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học được tiến hành thông qua các loại tiết sau:
Đọc thơ cho trẻ nghe: việc đọc thơ cho trẻ nghe nhằm giúp trẻ thích nghe
đọc thơ, làm quen với vần điệu, nhịp điệu của thơ ca. từ đó, phần nào trẻ hiểu
được nội dung bài thơ và làm quen với giá trị nghệ thuật của bài thơ. Cô giáo
cần lựa chọn những bài thơ phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi, nhưng đa số trẻ
thích nghe những bài thơ có vần, nhịp điệu hài hòa vui nhộn.
Dạy trẻ học thuộc lòng thơ hay còn gọi là dạy truyền khẩu thơ. Với thể
loại này, trước hết cô giáo giúp trẻ tri giác trọn vẹn bài thơ bằng cách đọc mẫu
1 – 2 lần. cô giáo cần chú ý đọc kết hợp cách cử chỉ điệu bộ cùng với cách
ngắt nhịp phù hợp sẽ giúp trẻ cảm thụ tốt hơn, từ đó trẻ học bài thơ nhanh
hơn. Ngoài ra, dạy trẻ học thuộc lòng thơ còn giúp trẻ nâng cao năng lực cảm
thụ, làm quen với ngôn ngữ văn học, làm giàu vốn từ ngữ nghệ thuật, biết
diễn đạt mạch lạc, diễn cảm.
Đọc truyện cho trẻ nghe: đọc truyện cho trẻ nghe là cho trẻ làm quen với
ngôn ngữ văn xuôi, chủ yếu là cách miêu tả, hình thành ở trẻ khả năng biết
lắng nghe và lịng u ngơn ngữ văn học của trẻ. Ngồi ra cịn kích thích các
hoạt động tưởng tượng của trẻ phát triển tốt hơn.
Kể chuyện cho trẻ nghe: Hoạt động này nhằm giúp trẻ nhớ được những
tình tiết chính, tạo nên nội dung tác phẩm. Đồng thời trẻ cũng được làm quen
với văn phong khẩu ngữ rất gần gũi và dễ hiểu. Tuy nhiên để giờ học đạt hiệu
quả cao thì lời kể của cơ giáo phải diễn cảm, thu hút trẻ, kết hợp với các đồ
dùng dạy học để giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm.



22

Dạy trẻ kể lại chuyện: Dạy trẻ kể lại chuyện là một hình thức giúp trẻ
phát triển khả năng cảm thụ văn học, phát triển ngôn ngữ (rèn luyện khả năng
phát âm rõ ràng, mạch lạc, kể diễn cảm, củng cố vốn từ của mình…). Cơ giáo
cần giảng giải để trẻ có thể nắm được những tình tiết chính, nắm được những
hành động, ngơn ngữ của nhân vật. Từ đó trẻ có thể tái hiện lại câu chuyện
bằng chính ngơn ngữ của mình.
1.4.2 Vai trị của hoạt động làm quen tác phẩm văn học đối với việc phát
triển vốn từ cho trẻ 3 – 4 tuổi
Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, ngơn ngữ nghệ thuật đóng vai trị
quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người. Bằng ngôn ngữ
giản dị, trong sáng, các tác phẩm văn học đã khơi gợi, dẫn dắt các em tìm hiểu
và khám phá thế giới. Qua đó giúp cho vốn từ của trẻ phong phú, dùng từ
chính xác và giàu hình ảnh hơn, đặc biệt, trẻ sử dụng vốn từ vào trong mọi
hồn cảnh giao tiếp của mình một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt hơn.
Như vậy, văn học là “cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp trẻ nhận biết
môi trường xung quanh: các hiện tượng tự nhiên, thế giới thiên nhiên lồi
vật… các mối quan hệ xã hội. Vì vậy chúng ta dễ nhận thấy rằng việc mở
rộng nhận thức bao giờ cũng gắn chặt với việc mở rộng vốn từ ngữ. Trẻ tiếp
nhận những khái niệm mới cũng chính là tiếp nhận những từ ngữ mới. Ngoài
việc giúp trẻ mở rộng nhận thức, hiểu biết về thế giới xung quanh thì văn học
cũng cung cấp cho trẻ một vốn từ khổng lồ,đặc biệt là những từ ngữ nghệ
thuật. Đó là vốn từ ngữ đã có sự chọn lọc, tinh luyện, sáng tạo của các nhà
văn. Điều này giải thích được vì sao những trẻ thường xuyên được tiếp xúc
với tác phẩm văn học thì vốn từ của chúng thường phong phú và sống động
hơn. Khơng những thế, chúng cịn có khả năng diễn đạt các vấn đề một cách
mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm hơn. ảnh hưởng của tác phẩm văn học
đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ diễn ra theo cơ chế “đồng nhất hóa – bắt
chước”. Trẻ biết bắt chước ngôn ngữ, bắt chước lời nói, việc làm của các

nhân vật hoặc những cách diễn đạt trong tác phẩm mà trẻ nghe được. Chính vì
vậy, quá trình trẻ nghe kể chuyện, nghe đọc thơ, đặc biệt là khi trẻ được trực


23

tiếp kể lại hoặc thuộc lòng thơ là trẻ đã tích lũy thêm được nhiều từ mới, đặc
biệt là từ ngữ nghệ thuật[3, tr 36].
Quá trình trẻ tiếp xúc với văn học là q trình trẻ học tiếng nói của các
tác phẩm văn học. Lời nói nghệ thuật khơng chỉ giúp trẻ cảm nhận được cái
đẹp của ngơn từ nói chung mà thực sự là cảm nhận cái đẹp của tiếng nói mẹ
đẻ. Đây chính là phương tiện vơ cùng quan trọng để hình thành và phát triên
nhân cách của trẻ. Bởi vì, một con người khơng thể hồn thiện về nhân cách
nếu như không hiểu và không yêu ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.
Trẻ mầm non nói chung đặc biệt trẻ 3 – 4 tuổi nói riêng, đều có trí tưởng
tượng phong phú và tư duy trực quan hình tượng. Việc hình thành và phát
triển trí tưởng tượng của trẻ cũng gắn chặt với việc hình thành và phát triển
ngơn ngữ. Nhờ có ngơn ngữ mà trẻ có thể hình dung ra được những gì mà
chúng khơng nhìn thấy. Vì thế, một đứa trẻ có ngơn ngữ kém thì vốn từ
thường ít ỏi và trí tưởng tượng của nó cũng nghèo nàn.
Như vậy, tác phẩm văn học là một phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ
mầm non – lứa tuổi mầm non rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn từ. Qua các
tác phẩm văn học, không chỉ mở rộng nhận thức cho trẻ vầ thế giới xung
quanh mà còn giáo dục cái hay, cái đẹp và lòng yêu thương ở trẻ. Khi tiếp xúc
với văn học, trẻ còn được làm quen với những từ ngữ đẹp, trong sáng, mang
đậm tính chất nghệ thuật. Đây là điều kiện để trẻ phát triển vốn từ, rèn luyện
cách nói diễn cảm, giàu hình ảnh. Tuy nhiên ảnh hưởng của tác phẩm văn học
tới sự phát triển vốn từ của trẻ như thế nào phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khác nhau. Trong đó, cơ giáo giữ vai trị rất quan trọng. Cơ là người có ảnh
hưởng trực tiếp tới sự phát triển tồn diện của trẻ.

Nói tóm lại, vai trị của văn học đối với việc giáo dục trẻ em lứa tuổi
mầm non là rất to lớn, đặc biệt trong việc phát triển vốn từ cho trẻ. Qua những
từ ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm nhằm giúp trẻ mở rộng, củng cố vốn từ
của mình, đặc biệt là từ ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên để phát huy tối đa tác dụng
của các tác phẩm văn học tới trẻ, trong quá trình truyền đạt, cơ giáo cần nắm
được các nghệ thuật đọc kể diễn cảm.


24

Tiểu kết chương I: Phát triển vốn từ được xem là nhiệm vụ quan trọng
trong phát triển ngôn ngữ. Các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đều
dựa vào đặc điểm phát triển của trẻ để đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm
phát triển vốn từ cho trẻ. Phát triển vốn từ chính là làm giàu vốn từ loại, nâng
cao khả năng hiểu nghĩa của từ cũng như khả năng vận dụng vốn từ vào hoạt
động của trẻ. Để có thể mang thực hiện được nhiệm vụ đó thì cơ giáo cần tổ
chức ở mọi lúc, mọi nơi đặc biệt thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn
học. Đồng thời cần nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, cũng như đặc điểm
vốn từ của trẻ ở từng giai đoạn mà đưa ra các biện pháp phù hợp. Vốn từ của
trẻ tăng theo thời gian, tuy nhiên tốc độ khơng đều, có giai đoạn tăng nhanh,
có giai đoạn tăng chậm. Đặc biệt trong năm thứ 3 trở đi, tốc độ tăng nhanh
nhất. Vì vậy, cơ giáo và người lớn cần tạo mọi điều kiện, sử dụng các biện
pháp để phát triển vốn từ cho trẻ. Nếu bỏ lỡ giai đoạn này, vơ tình chúng ta đã
làm hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển nói chung của trẻ.
Việc phát triển vốn từ được tiến hành thông qua các hoạt động của trẻ,
trong đó có hoạt động làm quen tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học có vai
trị to lớn trong việc phát triển vốn từ cho trẻ nói chung và trẻ 3 – 4 tuổi nói
riêng. Là loại hình nghệ thuật ngơn từ, văn học có khả năng tác động mạnh
mẽ tới tâm hồn, nhận thức, vốn từ của trẻ. Vì vậy, cho trẻ mầm non tiếp xúc
với tác phẩm văn học là điều đúng đắn và cần thiết.



25

Chương II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CỦA TRẺ 3 – 4
TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM
VĂN HỌC
2.1 Mục đích điều tra
Mục đích điều tra thực trạng nhằm tìm hiểu:
- Nhận thức của giáo viên về việc phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 3 –4
tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học.
- Thực trạng việc sử dụng các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 3 – 4
tuổi thông qua hoạt động làm quen tác phẩm văn học.
- Thực trạng về đặc điểm vốn từ của trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động
làm quen tác phẩm văn học.
2.2 Địa bàn khảo sát
a. Trường mầm non 20/10
Trường Mầm Non 20/10 nằm ở quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng là
trường trọng điểm của quận, của thành phố. Trường chịu tránh nhiệm nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ từ 19 tháng đến 6 tuổi theo chương trình giáo dục mầm
non ban hành.
Tổng số cán bộ giáo viên, nhân viên gồm 57 người trong đó Ban giám
hiệu gịm 3 người, giáo viên gồm 37 người đạt trình độ cao đẳng, đại học
100%, bảo mẫu, nhân viên cấp dưỡng gồm 17 người.
Về quy mơ nhóm lớp: Trường có 15 nhóm lớp
- Gồm 3 nhóm nhà trẻ và 12 lớp Mẫu giáo. Trong đó có 4 lớp mẫu giáo
bé, 4 lớp mẫu giáo nhỡ và 4 lớp mẫu giáo lớn.
b. Trường mầm non Hoa Phượng Đỏ
Trường mầm non Hoa Phượng Đỏ thuộc địa bàn quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng. trường có diện tích phịng lớp rộng rãi, cơ sở vật chất, trang

thiết bị khá đầy đủ, đảm bảo cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Trường
mầm non Hoa Phượng Đỏ là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 và là trường


×