Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Khoa luan tot nghiep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.28 KB, 51 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>PHẦN 1: MỞ ĐẦU</b>
<b>I. Lý do chọn đề tài</b>


Khi xã hội phát triển, văn hóa được mở cửa nó đã ảnh hưởng khơng nhỏ
đến lối sống của giới trẻ, ta đi đường hay lướt qua vài trang Web không khỏi bức
xúc về thông tin như thái độ thờ ơ của con người trước những người bị nạn, thậm
trí cịn hơi của, hay những hành vi man dợ,… rồi đến những clip các nữ sinh
đánh nhau tung lên mạng, rồi cuộc chơi bời thâu đêm suốt sáng quăng mình trên
sàn nhảy, thử hỏi nhũng con người như vậy có làm cho xã hội phát triển được
khơng? Trong khi đó ta hãy thử xem một đất nước Nhật Bản bị tàn phá nặng nề
về sóng thần nhưng ở đó khơng có cướp bóc, khơng có hơi của, khơng có bán
hàng ăn chặn mà thay vào đó là lịng yêu thương đùm bọc nhau vượt qua khó
khăn, một xã hội trật tự. Quay trở lại với đất nước chúng ta vẫn có những hình
ảnh tốt đẹp như bài văn của em trường Amsdam về tấm lòng hiếu thảo với cha
mẹ, vẫn có những tấm lịng nhân ái. Qua đó ta thấy con người cần có đức và tài.
Đạo đức là cơ sở để phát triển tài năng, ngược lại tài năng chỉ có thể phát huy
cống hiến cho xã hội khi con người đó có đức mà thơi. Hồ Chí Minh đã viết “
Cũng như sơng thì phải có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn.
Cây phải gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân ”[ Tr
252,253]


Xã hội đặt ra ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo
dục phải đào tạo ra những con người : “ phát triển trí tuệ, cường tráng về thể lực,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức ”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hơn nữa sau này làm người, cho nên phải chú trọng giáo dục đạo đức cho học
sinh ngay từ bậc tiểu học vì ở độ tuổi này các em còn nhỏ rất dễ học điều tốt
cũng như dễ học điều xấu. Giáo dục đạo đức cho các em thơng qua nhà trường,
gia đình và xã hội.



Thời cuộc mới tạo nên thang đánh giá mới, thước đo giá trị mới trên cơ sở
giữ gìn các giá trị nhân loại và dân tộc như: lòng yêu nước, lòng nhân ái, yêu lao
động, tinh thần tập thể tính cộng đồng…Điều đáng quan tâm là có những biến
động về đạo đức trong bộ phận giới trẻ hiện nay vấn đề đặt ra cho giáo dục thế
hệ trẻ của con người Việt Nam.


Nghị quyết Hội nghị TW2- Đại hội VIII đã nêu: “ Đặc biệt đáng lo ngại là
một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về ý
tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp về tương lai
bản thân và đất nước ”[7-Tr4] cũng như trong “chương trình tọa đàm về nâng
cao chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông” ( TP.HCM, 14-15/2/2006), GS.
Trần Thanh Đàm, đã đưa ra ý kiến: “ Tôi nghĩ chúng ta không lo con trẻ thiếu tri
thức mà lo chúng hư hỏng nhân cách ” đây có thể là nguyên nhân dẫn đến đổi
mới toàn ngành giáo dục chú trọng đến nội dung phương pháp dạy học…


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

dụng các phương pháp giáo dục đạo đức chưa có hiệu quả đặc biệt là nhóm các
phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi. Qua tìm hiểu thực tế giáo viên
tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc về việc sử dụng nhóm các
phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức chưa
chuẩn như sự khen thưởng, trách phạt chưa kịp thời, không thường xuyên phát
động phong trào thi đua học sinh làm việc tốt, học tập tốt. Ngoài ra nhiều cơ giáo
cịn mang nặng tâm trạng của gia đình, nỗi ưu tư trong cuộc sống, áp lực trong
công việc cũng như mỗi quan hệ với đồng nghiệp trong trường làm ảnh hưởng
phần nào đến chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh.


Trong giáo dục đạo đức vai trị của nhóm các phương pháp khuyến khích
và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học rất quan
trọng nó giúp cho học sinh được tiến bộ và điều chỉnh hành vi trong học tập và
trong cuộc sống.



Qua các phân tích trên là lý do đó tơi chọn đề tài “ Tìm hiểu thực trạng
<i><b>sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo</b></i>
<i><b>dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh </b></i>
<i><b>Yên-Vĩnh Phúc ” Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.</b></i>
<b>II. Lịch sử nghiên cứu đề tài</b>


Qua tìm hiểu tơi thấy đã có nhiều tác giả bàn về giáo dục đạo đức cho học
sinh tiểu học như:


Lưu Thu Thủy – “ Giáo dục hành vi đạo đức cho hành sinh Tiểu
học qua trò chơi ”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hà Thế Ngữ - “ Một số vấn đề về phương pháp giáo dục đạo đức và giáo
dục môn đạo đức ở cấp 1 ”


Khi bàn tới giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học các tác giả cũng đã
nói đến các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh như thế nào, tuy nhiên
chưa đi tìm hiểu thực trạng sử dụng các phương pháp đó như thế nào trong giáo
dục đạo đức ở các trường tiểu học ở thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.


<b>III. Mục đích nghiên cứu </b>


Phát hiện ra thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích
hành vi và điều chỉnh trong giáo dục đạo đức cho học sinh trong các trường tiểu
học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc và nguyên nhân dẫn đến
thực trạng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục thực trạng thơng
qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
<b>IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>


- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp


khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức.


- Phạm vi nghiên cứu: Trong giáo dục đạo đức cho học sinh các trường
tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.


<b>V. Giả thuyết khoa học</b>


Việc sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi
trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học tại thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc
chưa đảm bảo tôt, chất lượng chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản
dẫn đến thực trạng đó là chất lượng đội ngũ giáo viên và điều kiện cơ sở vật chất
chưa đảm bảo.


<b>VI. Nhiệm vụ nghiên cứu</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

2.Tìm hiểu thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và
điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức học sinh tiểu học ở khu cực thành
phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.


3. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, từ đó đề xuất các giải
pháp.


<b>VII. Phương pháp nghiên cứu của đề tài</b>


Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp đọc sách


- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra



- Phương pháp thống kê toán học
<b>VIII. Kế hoạch thực hiện đề tài: </b>


- Tháng 10 đến tháng 11 năm 2011: Nhận đề tài và hoàn thành đề cương
- Tháng 12 năm 2011 đến tháng 1 năm 2012: Tìm hiểu cơ sở lí luận


- Tháng 2 đến tháng 4 năm 2012: Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn
đến thực trạng, đưa ra giải pháp.


- Tháng 5 năm 2012: Tổng kết hoàn thành đề tài.
<b>IX. Cấu trúc của đề tài:</b>


<b>Phần 1: Mở đầu</b>
<b>Phần 2: Nội dung</b>


<b>Chương 1: Một số vấn đề lí luận về phương pháp</b>
I.Một số vấn đề về giáo dục đạo đức


1. Về giáo dục đạo đức.


2. Một số vấn đề về giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

1. Khái niệm phương pháp giáo dục.


2. Hệ thống các phương pháp giáo dục đạo đức.
3. Phương pháp khen thưởng.


4. Phương pháp trách phạt.
5. Phương pháp thi đua.



<b>Chương 2: Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và</b>
<b>điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học</b>
<b>ở thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.</b>


I. Thực trạng về đội ngũ giáo viên.


II. Thực trạng nhận thức của giáo viên về phương pháp giáo dục.


1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc sử dụng nhóm các
phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức của
học sinh tiểu học.


2. Nhận thức của giáo viên về vai trị sử dụng nhóm các phương pháp
khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
III. Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành
vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh
Yên-Vĩnh Phúc.


1. Thực trạng sử dụng phương pháp khen thưởng.
2. Thực trạng sử dụng phương pháp trách phạt.
3.Thực trạng sử dụng phương pháp thi đua.


<b>Chương 3: Nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp cần thiết để</b>
<b>đảm bảo tốt việc sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh</b>
<b>hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

II. Những giải pháp cần thiết để đảm bảo tốt việc sử dụng nhóm các phương
pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức.


<b>Phần 3: Kết luận và kiến nghị </b>


I. Kết luận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>PHẦN II: NỘI DUNG</b>


<b>Chương 1: Một số vấn đề lí luận về phương pháp giáo dục đạo đức</b>
<b>I. Một số vấn đề về đạo đức và giáo dục đạo đức</b>


<i>1. Về giáo dục đạo đức:</i>


Đạo đức là một bộ phận quan trọng trong các hình thái xã hội phản ánh
tồn tại xã hội dưới những chuẩn mực đạo đức. Theo quan niệm của Mác-xít: “
Đạo đức là hệ thống những quy tắc chuẩn mực của đời sống xã hội và hành vi
của con người. Nó quy định nghĩa vụ của người này với người khác, nghĩa vụ
của con người đối với xã hội ”


Đạo đức ra đời là do nhu cầu thực tiễn cuộc sống để thực hiện chức năng
duy trì mối quan hệ giữa con người với con người, duy trì trật tự xã hội và thơng
qua đó làm cho xã hội tồn tại và phát triển.


Đạo đức hình thành một cách tự phát ngay trong hiện thực. Đạo đức được
duy trì bằng lương tâm và dư luận xã hội.


Đạo đức là một hiện tượng xã hội xuất hiện đầu tiên khi lồi người mới
hình thành. Đạo đức ra đời phát triển cùng quá trình biến đổi kinh tế - xã hội và
sự tiến bộ văn hóa, vật chất tinh thần của con người. Hiện nay có nhiều quan
niệm khác nhau về nguồn gốc, bản chất về đạo đức. Theo quan niệm triết học
Mác – Lênin, Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có quan hệ với các hình
thái xã hội khác, nảy sinh từ tồn tại xã hội, phát triển cùng sự biến đổi tồn tại của
xã hội. Nhưng Đạo đức khác với các hình thái ý thức xã hội ở chỗ nó điều chỉnh
hoạt động của con người trong mỗi quan hệ xã hội, giúp con người tự hồn thiện


nhân cách của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

phản ánh quan hệ đạo đức của xã hội mới thì sớm hay muộn ý thức đạo đức cũng
thay đổi theo. Trong xã hội có giai cấp thì đạo đức mang tính giai cấp rõ rệt, ứng
với giai cấp khác nhau là nền giáo dục đạo đức khác nhau, nền giáo dục đạo đức
của giai cấp này khác nền giáo dục của giai cấp kia về mục đích, nội dung,
phương pháp.


Đạo đức là một nhân tố quan trong trọng của nhân cách và được xem là
khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề đánh giá
tốt/xấu, đúng/ sai, lành/ ác, hiền/ dữ…trong phạm vi: Lương tâm con người, hệ
thống phép tắc đạo đức và trừng phạt mà đơi lúc cịn được gọi giá trị đạo đức.
Đạo đức gắn liền với văn hóa, chủ nghĩa nhân văn, triết học và pháp luật của một
xã hội. Hay nói một cách dễ hiểu, đạo đức là những khuynh hướng tốt đẹp trong
tâm hồn con người, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói, hành vi
bên ngồi phù hợp với những quy tắc ứng xử của cộng đồng, xã hội khiến cho
mọi người xung quanh được an vui, lợi ích, chuyển hóa.


Có thể nói đạo đức là cái tốt, cái đúng ở bên trong con người được biểu
hiện ra bên ngồi bằng lời nói, hành vi. Đạo đức là cái gốc bên trong được
chuyển hóa thành lời nói và hành vi tốt đẹp bên ngoài. Tức là con người phải có
nhận thức đúng, tốt về sự vật, hiện tượng. Để có được nhận thức đúng cần phải
có giáo dục. “ Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên ”
( Hồ Chí Minh ).Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng phải được
thực hiện ngay từ lúc nhỏ, từ lúc lứa tuổi tiểu học.


<i>2. Một số vấn đề về giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tác giáo dục trước hết phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cho người học, coi đó là
cái gốc cho sự phát triển nhân cách. Chính vì vậy khi nói đến việc học trong chế


độ mới, Bác Hồ đã nói: “ Bầy giờ phải học để yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao
động, yêu khoa học, yêu đạo đức ”.


Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là quá trình tác động từ nhiều con
đường khác nhau làm cho nhân cách học sinh phát triển đúng về mặt đạo đức,
tạo cơ sở để các em có hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong
mỗi quan hệ của cá nhân với bản thân, với người khác và xã hội.


Kết quả của quá trình giáo dục đạo đức học sinh là học sinh có được phẩm chất
đạo đức tốt đẹp, bền vững, có hiểu biết để ứng xử đúng trong các mỗi quan hệ cụ
thể.


Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học là vấn đề cần thiết, trước hết vì vị
trí của trẻ em trong tương lai nước nhà, làm cho các em trở thành những cơng
dân tốt, đủ phẩm chất và năng lực trí tuệ để gánh vác vận mệnh dân tộc. Đó là
nhiệm vụ chính trị hàng đầu của nhà trường nói chung và trường tiểu học nói
riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Về phương pháp giáo dục đạo đức: Là sự tác động của nhà giáo dục và
tập thể học sinh đến đối tượng giáo dục nhằm hình thành cho họ những phẩm
chất nhân cách theo yêu cầu của một xã hội cụ thể, phản ánh mối quan hệ phối
hợp, thống nhất giữa cách thức hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo
dục, trong đó hoạt động của nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo, còn hoạt động của
đối tượng là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động để tự giáo dục, tự vận động và
phát triển theo mục tiêu phát triển nhân cách xác định.


Vai trò chủ đạo của nhà giáo dục được thể hiện ở chỗ họ là người tổ chức
điều khiển quá trình giáo dục, là người lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức giáo
dục, người kiểm tra, đánh giá q trình giáo dục…



Vai trị tự giác, tích cực và chủ động của đối tượng giáo dục được thể hiện
ở chỗ họ phải hoạt động một cách có ý thức, tham gia với sự cố gắng hết khả
năng của mình và khơng phụ thuộc hồn tồn vào các tác động giáo dục. Vai trò
này đặc biệt quan trọng trong quá trình tự tu dưỡng, tự giáo dục.


Cách thức tác động của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục bao giờ cũng
căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của xã hội về một mẫu người xác định. Thực chất
phương pháp giáo dục đạo đức là cách thức tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt
động và giao lưu cho học sinh theo mục đích giáo dục của xã hội. Quá trình này
nhằm tác động vào nhận thức, thái độ và hình thành hành vi, thói quen cho học
sinh.


Nói chung giáo dục đạo đức có vai trị và vị trí quan trọng trong việc giáo
dục thế hệ trẻ bậc tiểu học, không chỉ bồi dưỡng nhận thức về chuẩn mực đạo
đức xã hội, mà chủ yếu góp phần định hình và phát huy những phẩm chất cần
thiết của nhân cách con người với hành vi cao đẹp đầy tính nhân văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>1. Khái niệm phương pháp giáo dục </b>


<i>Phương pháp giáo dục là cách thức tổ chức hoạt động giáo dục, trong đó</i>
<i>có sự tương tác thống nhất giữa nhà giáo dục – giáo viên tiểu học và người</i>
<i>được giáo dục – học sinh tiểu học, nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục và từ</i>
<i>đó, đạt được mục đích giáo dục do xã hội đặt ra đối với nhà trường tiểu học. </i>


Như vậy khi bàn về phương diện phương pháp giáo dục, chúng ta thấy sự
hiện diện của những yếu tố cơ bản sau:


- Cách thức tổ chức: Khi nói đến phương pháp, cần nghĩ tới “ cách thức ”,
tức là làm thế nào để tiến hành một công việc, hoạt động nào đó cho thành cơng.



- Giáo viên: Trong việc vận dụng phương pháp giáo dục nào đó, ln có
sự hiện diện của giáo viên và vai trò tổ chức thuộc về giáo viên.


- Học sinh: Ở mọi phương pháp giáo dục cũng ln có mặt của học sinh,
trong đó học sinh là mục tiêu của phương pháp – qua phương pháp giáo dục đó,
đạt được kết quả gì của học sinh.


- Sự tương tác giữa giáo viên và học sinh: Ở bất kỳ phương pháp nào cũng
có sự tương tác, tức là sự tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh.


- Tính hướng đích của phương pháp giáo dục: Mỗi phương pháp giáo dục
đều hướng đến một kết quả mong muốn mà nhiệm vụ giáo dục đã xác định – tri
thức, thái độ…


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về phân loại các phương pháp
giáo dục, điều này phụ thuộc vào cơ sở phân loại. Dưới đây cách phân loại được
thừa nhận rộng rãi hơn cả, được chia là ba nhóm: Nhóm các phương pháp hình
thành ý thức cá nhân; nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành
kỹ năng, hành vi ứng xử; nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh
hành vi.


<b>2. Hệ thống các phương pháp giáo dục </b>


Có nhiều cách phân loại phương pháp giáo dục khác nhau. Mỗi cách phân
loại đều dựa trên những cơ sở nhất định: Nếu căn cứ vào lực lượng và môi
trường nơi diễn ra các hoạt động giáo dục ta có các phương pháp giáo dục gia
đình, các phương pháp giáo dục nhà trường, các phương pháp giáo dục xã hội,
phương pháp giáo dục trên lớp, phương pháp giáo dục ngoài lớp. Căn cứ vào đối
tượng giáo dục ta có phương pháp giáo dục trẻ mẫu giáo, giáo dục trẻ vị thành
niên, phương pháp giáo dục trẻ khuyết tật, phương pháp giáo dục cá biệt…



Do tính chất phức tạp và đa dạng của phương pháp nên có nhiều cách gọi
tên và phân loại khác nhau. Phương pháp giáo dục thường được phân loại và
trình bày theo ba nhóm cơ bản sau:


<i>a. Nhóm các phương pháp thuyết phục</i>


Là nhóm phương pháp giáo dục tác động lên nhận thức và tình cảm của
người được giáo dục nhằm hình thành những khái niệm, biểu tượng và niềm tin
đúng đắn về đạo đức, thẩm mĩ tạo điều kiện cho người được giáo dục có tư
tưởng đúng, có tình cảm đẹp làm cơ sở cho việc hình thành những thói quen
hành vi tốt.


Nhóm phương pháp thuyết phục bao gồm:
- Phương pháp đàm thoại


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

- Phương pháp nêu gương


<i>b. Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng</i>
<i>xử xã hội</i>


Giáo dục đạo đức là sự thống nhất giữa ý thức và hành vi, là quá trình biến
những yếu tố nhận thức, tình cảm thành hành vi, biến những hành vi, những kinh
nghiệm ứng xử xã hội thành thói quen văn hóa cho học sinh.


Nhóm phương pháp này bao gồm:
- Phương pháp địi hỏi sư phạm
- Phương pháp tập thói quen
- Phương pháp rèn luyện



<i>c. Nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi [7]</i>


Nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo
dục đạo đức học sinh tiểu học có khả năng to lớn trong việc động viên học sinh
phát huy mọi sức lực và tinh thần, thể chất, tình cảm và trí tuệ để đạt hiệu quả
cao nhất trong học tập và rèn luyện. Đặc điểm cơ bản của nhóm phương pháp
này là dựa trên kết quả hành vi mà đối tượng giáo dục đã thực hiện trước đây để
phát huy tích cực của học sinh vào các hoạt động thực tiễn. Khuyến khích động
viên, lơi cuốn lịng nhiệt thành tham gia vào hoạt động mà học sinh đã đạt được
những thành quả nhất định. Khắc phục, ngăn ngừa, uốn nắn hay trách phạt đối
với những biểu hiện tiêu cực không được xã hội thừa nhận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

đắn. Trách phạt là phương pháp nhằm ức chế, kìm hãm và điều chỉnh hành vi
khơng phù hợp với các chuẩn mực xã hội.


Nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi là phương
pháp hỗ trợ đắc lực cho các phương pháp giáo dục khác đạt hiệu quả cao hơn,
củng cố những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục uốn nắn những khiếm
khuyết mắc phải trong q trình giáo dục.


Nhóm phương pháp này có các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp khen thưởng


- Phương pháp trách phạt
- Phương pháp thi đua
<b>3. Phương pháp khen thưởng</b>


Khen thưởng là phương pháp biểu thị sự đánh giá tích cực, sự hài lịng, sự
ủng hộ… của tập thể, của xã hội đối với những thành tích mà cá nhân hay tập thể
học sinh đạt được.



Khen thưởng biểu thị sự công nhận, thừa nhận những hành vi của học sinh
đã lựa chọn và thực hiện cũng như các kết quả tốt đẹp của nó nhằm tạo ra cho
người được khen trạng thái phấn khởi, tự hào, vui vẻ, phấn chấn…với những
hành vi, những đóng góp… của bản thân, để từ đó tạo thêm nghị lực cho họ phấn
đấu nhiều hơn, cố gắng nhiều hơn để có thành tích ngày càng cao hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Trong quá trình giáo dục, khen thưởng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó
có tác dụng khẳng định kết quả của q trình giáo dục hồn tồn phù hợp với
những chuẩn mực và quy tắc của xã hội


Khen thưởng còn giúp cá nhân tự khẳng định mình, tin tưởng vào những
gì bản thân đã làm, củng cố vững chắc các kết quả giáo dục, không ngừng cố
gắng vươn lên để tiếp tục hoàn thành nhân cách.


Trong thực tiễn giáo dục, khen thưởng được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Có thể khen đơn thuần về mặt tinh thần, có thể kết hợp giữa khen và
thưởng vật chất, có thể khen tức thì, có thể khen trong những dịp trịnh trọng, có
thể khen trực tiếp, có thể khen gián tiếp thơng qua cấp trên…Tùy theo tính chất,
mức độ, phạm vi ảnh hưởng của những kết quả giáo dục, tùy theo điều kiện,
hồn cảnh và cá nhân cụ thể…để lựa chọn hình thức khen thưởng cho phù hợp.
Trong nhà trường hiện nay có các hình thức khen thưởng cơ bản sau:


- Tỏ thái độ đồng tình, ủng hộ thơng qua thái độ thiện cảm, thơng qua ánh
mắt, nụ cười, hoặc lời nói động viên khích lệ hoặc có lời khen trực tiếp đối với
các hành vi tích cực của học sinh.


- Biểu dương, tuyên dương trước tập thể những cá nhân có thành tích,
những việc tốt, những hành vi đẹp…



- Tặng giấy khen, bằng khen, kỉ niệm chương…và các hiện vật kèm theo
cho những cá nhân có thành tích xứng đáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Khen thưởng mặc dù có vai trị hết sức quan trọng nhưng không nên quá
lạm dụng một cách vô nguyên tắc. Để khen thưởng mang lại hiệu quả giáo dục
tích cực thì giáo viên tiểu học cần tuân thủ một số yêu cầu sau đây:


- Khen thưởng phải đảm bảo tính khách quan, cơng bằng, hợp lý, trung
thực, đúng người, đúng việc. Nếu khen thưởng không đúng dẫn đến tình trạng
học sinh tự mãn, kiêu căng…


- Khen thưởng phải đúng lúc, đúng chỗ, kịp thời, phải kết hợp chặt chẽ
giữa khen và thưởng, giữa động viên và khun khích tinh thần tương ứng với sự
đóng góp của học sinh.


- Khen thưởng phải được đông đảo các thành viên trong lớp thừa nhận,
được dư luận tập thể hoan nghênh và tán thành.


- Khen thưởng phải cụ thể, không nên khen chung chung. Cá nhân được
khen thưởng cảm thấy xứng đáng, tự hào về quá trình phấn đấu của mình và
mong muốn sẽ cố gắng nhiều hơn.


- Cần đặc biệt khen thưởng những em có tính rụt rè, nhút nhát, chậm tiến
khi các em có nhiều có gắng.


<b>4. Phương pháp trách phạt</b>


Trách phạt là phương thức tác động đến nhân cách học sinh bằng cách
biểu thị thái độ không đồng tình, khơng tán thành, sự lên án của giáo viên, và của
tập thể học sinh đối với những hành vi sai trái, không phù hợp với chuẩn mực,


các quy tắc xã hội quy định của đối tượng, với mong muốn gây cho họ tình cảm
hối hận, xấu hổ với những việc mình đã làm, từ đó mà họ thành khẩn nhận lỗi và
quyết tâm từ bỏ những ý nghĩ và hành vi sai trái đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

điều chỉnh những hành vi không phù hợp với chuẩn mực của xã hội, ngăn chặn
và răn đe kịp thời những lỗi lầm của cá nhân hay tập thể. Trách phạt sẽ gây cho
học sinh có lỗi tâm trạng hổ thẹn, cảm thấy thầy cơ giáo khơng cịn tin u
nữa…Làm cho các em cảm thấy cắn rứt lương tâm, sự đấu tranh động cơ, sự ăn
năn, sự hối hận…,nhờ đó giúp họ có thêm ý chí và nghị lực để từ bỏ những thói
quen và hành vi sai trái, sửa chữa khuyết điểm.


Để sử dụng phương pháp trách phạt thực sự có hiệu quả các nhà quản lí
giáo dục cũng như các giáo viên tiểu học cần lưu ý sau:


- Chỉ sử dụng phương pháp trách phạt khi sử dụng phương pháp thuyết
phục và các phương pháp khác khơng cịn tác dụng hoặc tác dụng ít. Đây là
phương pháp khơng thể áp dụng thường xuyên, liên tục, vì nếu thường xuyên
trách phạt sẽ gây lên trạng thái căng thẳng, làm cho đối tượng trở lên trơ lì, chai
sạn dẫn đến càng khó giáo dục.


- Trách phạt phải hồn tồn khách quan, cơng bằng, đúng người, đúng tội,
đúng lúc, đúng chỗ, phải thận trọng khi đưa ra quyết định, không được định kiến,
để tránh tình trạng oan sai. Trách phạt mục đích để học sinh ăn năn, hối lỗi mà
cố gắng sủa chữa khuyết điểm để tiến bộ. Chứ khơng nhằm mục đích thỏa mãn
cơn khát tức giận của giáo viên.


- Trách phạt người giáo viên phải chú ý tới nguyên nhân, hoàn cảnh gây ra
sai phạm và động cơ dẫn đến việc sai phạm đó. Việc trách phạt đó phải làm cho
học sinh nhận rõ khuyết điểm, sai trái của mình cũng như lí do trách phạt từ đó
trách phạt mới có tác dụng



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

- Trách phạt phải được sự đồng tình của tập thể, phải có tác dụng răn đe,
phòng ngừa với những học sinh khác. Nên trách phạt tập thể, trách phạt số đông.


- Đồng thời với trách phạt người giáo viên phải chỉ ra cách thức phấn đấu
sửa chữa khuyến điểm cho học sinh, phải thường xuyên chú ý theo dõi, giúp đỡ
các em, giáo viên chú ý đến dư luận của tập thể, hướng dư luận không nên để tập
thể xa lánh, bỏ rơi những học sinh trách phạt mà ngược lại làm cho tập thể học
sinh quan tâm đến những học sinh này nhiều hơn.


Một số biện pháp trách phạt học sinh trong nhà trường hiện nay:
- Phê bình, nhắc nhở học sinh.


- Phê bình, nhắc nhở học sinh trước lớp, trước toàn trường.
- Cảnh cáo học sinh.


- Dừng tiến độ học tập một thời gian, đuổi học…


Tùy theo mức độ nặng nhẹ của hành vi sai phạm của học sinh để giáo dục
áp dụng hình thức trách phạt cho phù hợp. Tuy nhiên hình thức đuổi học học
sinh rất hạn chế chỉ áp dụng những trường hợp nếu để lại gây ảnh hưởng xấu đến
tập thể. Hình thức này có nguy cơ đẩy học sinh vào đường cùng có thể gây hậu
quả xấu cho cả gia đình và xã hội. Nhà trường phải cứu giúp các em đến cùng,
tìm cách giáo dục để các em trở thành con người tốt.


<b>5. Phương pháp thi đua</b>


Thi đua là phương pháp giáo dục nhằm khích lệ, khích thích khuynh
hướng tự khẳng định của mỗi cá nhân hay tập thể, tạo điều kiện và cơ hội cho họ
cố gắng nhiều hơn, hăng hái đua tài, đua sức để vươn lên cao hơn so với điều


kiện bình thường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

kiện nào đó của nhà trường. Thi đua là nhằm mục đích làm cho cá nhân và tập
thể hoạt động tích cực hơn. Thi đua có thể áp dụng trong mọi hoạt động của học
sinh.


Tuy vậy để thi đua có ý nghĩa giáo dục, nhà trường, các thầy cô không nên
chú trọng vào kết quả mà điều cơ bản là tạo ra phong trào phấn đấu rèn luyện
cho học sinh, tránh tình trạng vì thành tích, bệnh thành tích tạo ra sự ganh đua,
hiếu thắng, tìm mọi cách để hơn người khác…


Cần tổ chức phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực, hấp dẫn, lôi cuốn được
tất cả mọi người tham gia với động cơ tốt, lành mạnh, vì sự phát triển chung.
Trong quá trình tổ chức thi đua, nhà trường phải đặt ra mục đích yêu cầu cũng
như mục tiêu phấn đấu rõ ràng cho từng cá nhân và tập thể để họ phấn đấu.


Phải thường xuyên và có hệ thống tiến hành sơ kết, tổng kết công tác thi
đua, động viên khen thưởng và trách phạt kịp thời, công bằng và khách quan cho
cá nhân và tập thể tham gia


<b> Như vậy có thể nói nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh</b>
hành vi là nhóm phương pháp bổ trợ cho các nhóm phương pháp giáo dục khác.
Trong đó phương pháp khen thưởng và phương pháp thi đua có chức năng chủ
yếu là kích thích và khuyến khích đối tượng tích cực, cố gắng hơn để phát huy
những ưu điểm để đạt được, thông qua đối tượng giáo dục dần dần tự hoàn thiện
nhân cách của mình theo yêu cầu xã hội. Phương pháp trách phạt có chức năng
chủ yếu dùng để điều chỉnh hành vi, để ngăn ngừa sai phạm, giúp học sinh nhận
ra lỗi lầm, từ bỏ những hành vi và thói quen khơng phù hợp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

đua. Trong giáo dục đã có khen thì phải có chê, hai phương pháp này bao giờ


cũng đi liền với nhau. Tuy nhiên đây không phải là mục tiêu mà chỉ là phương
tiện để giáo dục nằm khuyến khích hoặc điều chỉnh hành vi cá nhân.


<b>Chương 2: Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và</b>
<b>điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh các trường tiểu học</b>
<b>ở thành phố Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.</b>


Để tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng nhóm các phương pháp khuyến
khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học ở khu
vực thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc, tôi đã sử dụng phương pháp điều tra bảng
hỏi Ăngket có kết hợp với phương pháp trị chuyện, phương pháp quan sát các
hoạt động dạy học, cũng như các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: các tiết sinh
hoạt đầu tuần, tiết sinh hoạt lớp, những buổi lễ chào mừng ở ba trường tiểu học
khu vực thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.


Đối tượng điều tra: Giáo viên chủ nhiệm ở ba trường tiều học các khối lớp
1, 2, 3, 4, 5.


Thời gian tiến hành: Từ ngày 22/2/2012 đến 28/3/2012


Với tổng số phiếu trưng cầu ý kiến là 84 phiếu trong đó Trường tiểu học
Liên Minh là 36 phiếu, Trường tiểu học Đống Đa là 31 phiếu, Trường tiểu học
Ngô Quyền là 17 phiếu


Trong số 84 giáo viên lấy ý kiến, trình độ của các giáo viên đều đạt trên
chuẩn


Tổng số phiếu thu lại là 84 phiếu
Kết quả thu được như sau:



<b>I. Thực trạng về trình độ đội ngũ giáo viên</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>Bảng 1: Trình độ của giáo viên</b>
Tên trường


tiểu học


Tổng
số giáo
viên


Trình độ


Trung cấp Cao đẳng Đại học Trên Đại
học
Liên Minh 36 0/36 0% 1/36 2,8% 35/36 97,2% 0/36 0%
Đống Đa 31 0/31 0% 1/31 3,2% 29/31 93,6% 1/31


3,2%
Ngô Quyền 17 0/17 0% 5/17 29,4% 12/17 70,6% 0/17 0%


Dựa vào kết quả thu được ta nhận thấy trình độ giáo viên ở các trường tiểu
học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc đều đạt trên chuẩn, đây là một
yếu tố rất thuận lợi trong việc nâng cao chất giáo dục ở các trường tiểu học.
Trong số ba trường tiểu học trên thì trường tiểu học Liên Minh có số giáo viên
Đại học và trên Đại học chiếm 97,2% cao nhất trong khu vực thành phố. Ngoài
ra trường tiểu học Đống Đa có số giáo viên đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ
tương đương với trường tiểu học Liên Minh, và có một giáo viên trên trình độ
đại học. Trường tiểu học Ngơ Qun có số giáo viên chiếm tỷ lệ đại học thấp
hơn so với hai trường trong khu vực.



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

như nghiệp vụ sự phạm điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục
bậc tiểu học hết sức quan trọng vì đó là nền tảng để các học sinh tiếp tục bước
vào các lớp cao hơn sau này. Đồng thời cũng cho thấy được ban giám hiệu các
nhà trường đã có biện pháp cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các thầy cơ
được học tập để nâng cao trình độ. Khi đó các thầy cô trong nhà trường thi đua
dạy tốt từ đó giúp giáo viên yêu nghề và tâm huyết với nghề hơn.


<b>II. Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc sự dụng nhóm các phương</b>
<b>pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức học sinh</b>
<b>tiểu học.</b>


<b>1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc sử dụng nhóm các</b>
<b>phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức</b>
<b>cho học sinh tiểu học.</b>


Để tìm hiểu thực trạng này, tơi đã sử dụng câu hỏi sau:


<i>“ Theo Thầy ( Cô ) trong thực tiễn giáo dục, việc sử dụng nhóm các phương</i>
<i>pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi: Phương pháp khen thưởng, phương</i>
<i>pháp trách phạt, phương pháp thi đua là: ”</i>


Nếu Thầy ( Cô ) đồng ý với ý kiến nào xin hãy đánh dấu “ + ” vào ô đó.
Kết quả thu được:


<b>Bảng 2: Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết sử dụng nhóm phương</b>
<b>pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức.</b>


Tổng số Kết quả



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Cần thiết Không cần thiết
84 84/84 100% 0/84 0%
Với kết quả thu được là 100% các thấy ( cô ) đều cho rằng việc sử dụng
nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức
là cần thiết. Đây là nhận thức đúng đắn vì đã đánh giá khả năng giáo dục đạo đức
của người giáo viên với học sinh của mình. Người giáo viên phải nhận thức được
giáo dục đạo đức thơng qua con đường khuyến khích và điều chỉnh hành vi chỉ
có thể đạt hiệu quả khi người giáo viên biết lơi cuốn phát huy cao độ tính tích
cực của học sinh, khuyến khích, động viên, thu hút học sinh tham ra vào các
phong trào hoạt động lành mạnh, đồng thời cũng khắc phục, ngăn ngừa, uốn nắn
những biểu hiện tiêu cực trong học sinh không bị lệch lạc khỏi chuẩn mực đạo
đức của xã hội. Đồng thời đây là tiêu chí nhận xét đánh giá giáo viên trong các
hoạt động dạy học cũng như hoạt động ngoại khóa cho học sinh trong quá trình
giáo dục trong nhà trường.


<b>2. Nhận thức của giáo viên về vai trị nhóm các phương pháp khuyến khích</b>
<b>và điều chỉnh hành vi trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.</b>


Để tìm hiểu thực trạng này, tôi sử dụng bộ câu hỏi sau:


<i>Theo các Thầy ( Cơ ) nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành</i>
<i>vi có vai trị như thế nào trong việc giáo dục đạo đức học sinh:</i>


1. Phát huy tính tích cực của học sinh vào các hoạt động thực tiễn.
2. Khuyến khích động viên, động viên, lơi cuốn lịng nhiệt tình của
học sinh tham gia vào các hoạt động mà học sinh đã đạt được những thành quả
nhất định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

4. Tạo ra tiền đề tâm lí thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ mới
trên cơ sở những hoạt động trước đây của học sinh.



5. Cả 4 tác dụng trên.


6. Khơng có tác dụng trong giáo dục đạo đức học sinh tiểu học.
Nếu Thầy ( Cô ) đồng ý với ý kiến nào xin hãy đánh dấu “ + ” vào ơ đó.
Kết quả thu được:


<b>Bảng 3: Nhận thức của giáo viên về vai trị của nhóm phương pháp khuyến</b>
<b>khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức học sinh tiểu học</b>


Tổng số Kết quả


1 2 3 4 5 6


84 77/84
91,67%


69/84
82,14%


52/84
61,9%


10/84
11,9%


80/84
95,24%


0/84


0%


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>3. Nhận thức của giáo viên về con đường sử dụng nhóm các phương pháp</b>
<b>khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức.</b>


Để tìm hiểu thực trạng vấn đề này, tôi đã sử dụng câu hỏi sau:


<i>Thầy ( Cơ ) thường sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh</i>
<i>hành vi trong hoạt động nào: </i>


1. Trong hoạt động dạy học.


2. Trong hoạt động ngoài giờ : ( Sinh hoạt đầu tuần, trong tháng có
ngày kỷ niệm…)


3. Tất cả trường hợp trên.


Nếu Thầy ( Cô ) đồng ý với ý kiến nào xin hãy đánh dấu “ + ” vào ơ đó.
Kết quả thu được như sau:


<b>Bảng 4: Nhận thức của giáo viên về con đường sử dụng nhóm các phương</b>
<b>pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi.</b>


Tổng số Kết quả


1 2 3


84 8/84


9,52%



02/84
2,38%


74/84
88,1%


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

lứa tuổi, phát huy tính tích cực tự lực, sự tự tin của học sinh trong các hoạt động
tập thể của lớp, của trường, trên cơ sở đó giáo dục ý thức tự hồn thiện nhân
cách bản thân, nhận thức về ý nghĩa cá nhân và xã hội trong từng suy ngĩ và
hành động của các em học sinh. Qua quan sát và tìm hiểu ở các trường trong khu
vực thành phố Vĩnh Yên-Vĩnh Phúc tôi thấy các thầy ( cô ) ở đây không chỉ giáo
dục đạo đức học sinh qua các bài giảng trên lớp mà đã gắn kết sử dụng phương
pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp
như:


+ Tiết chào cờ đầu tuần
+ Tiết sinh hoạt tập thể


+ Hoạt động giáo dục theo chủ điểm của từng tháng


Trong các nhà trường giáo dục hiện nay việc tổ chức sinh hoạt tập thể
hàng tuần ( 2 tiết ) trong đó: 01 tiết chào cờ đầu tuần vào sáng thứ 2 và 01 tiết
sinh hoạt tập thể lớp vào ngày cuối tuần là diễn ra một cách thường xun. Tiết
sinh hoạt đầu tuần có vai trị hết sức quan trọng trong các trường học. Đây là
buổi sinh hoạt tập thể giáo dục ý thức học sinh về lòng yêu Tổ quốc, rèn luyện
những kỹ năng sinh hoạt tập thể. Đồng thời thông qua tiết chào cờ các học sinh
cịn gắn bó hơn với trường lớp, khơng những thế qua tiết chào cờ nêu gương
những cá nhân, tập thể có thành tích cao trong học tập cũng như trong các phong
chào khác. Do đó có thể nâng cao tinh thần hiếu học, tính tích cực trong hoạt


động tập thể của học sinh và cũng nhắc nhở, ngăn chặn những hành vi chưa tốt
của học sinh. Vì vậy sinh hoạt đầu tuần có nhiều ưu việt trong giáo dục đạo đức
cho học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

tốt, đồng thời nhắc nhở và có hình thức trách phạt với những lớp, những cá nhân
mắc khuyết điểm. Hiệu trưởng lên phát biểu ý kiến và phổ biển kế hoạch tuần tới
đồng thời nhắc nhở, đơn đốc học sinh học hành. Ngồi ra tơi cịn nhận thấy nhiều
trường đã có sự kết hợp sáng tạo các nội dung giáo dục vào giờ chào cờ như
trường tiểu học Đống Đa đã tổ chức cuộc thi tìm hiểu an tồn giao thơng, hay
các buổi khun góp ủng hộ học sinh nghèo vượt khó, mua tăm ủng hộ người mù
vào tiết chào cờ đầu tuần. Qua đó có thể giáo dục học sinh hiểu và giúp đỡ các
em kém may mắn hơn mình. Có trường cịn sáng tạo hơn như trường tiểu học
Liên Minh mỗi tuần sinh hoạt gắn với một chủ đề giáo dục như mỗi tuần mỗi lớp
phải có tiết mục văn nghệ tham gia trong tiết chào cờ. Qua đây giáo dục truyền
thống hào hùng của các bậc cha đi trước đã hy sinh xương máu để giành lại nền
độc lập, tự do cho đất nước, giáo dục truyền thống cách mạng, khơi dậy cho các
em lịng tự hào dân tộc, tình u q hương đất nước. Ngồi ra trường Ngơ
Quyền thường hay tổ chức các tiết mục văn nghệ giữa các lớp trong tiết sinh hoạt
đầu tuần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

chỉ tập trung chủ yếu vào công bố kết quả thi đua trong tuần, và các hoạt động
khác vẫn diễn ra bình thường ( học sinh đi lại, các thầy cơ thì trị chuyện…)


Trong hai đợt thực tập: đợt 1 có ngày lễ kỉ niệm nhà giáo Việt Nam, và
đợt 2 vào tháng 3 có nhiều ngày lễ kỉ niệm lớn gắn liền với nhiều chủ điểm giáo
dục cần được tổ chức để giáo dục cho học sinh như chào mừng ngày 8/3, kỉ niệm
ngày 26/3.


Đợt thực tập 1 với chủ điểm là ngày kỉ niệm nhà giáo Việt Nam 20/11 các
trường đã phát động các phong trào thi đua: Bông hoa điểm mười, dạy tốt học


tốt, viết báo tường, thi văn nghệ…Các em đều tham gia một cách tích cực


Với chủ điểm chào mừng ngày 8/3 các trường dừng lại ở việc tổ chức hoạt
động văn nghệ, đây là hoạt động phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh nên nó đã
thu hút, lơi cuốn được học sinh tham gia vì ở tuổi này các em nhỏ yêu thích ca
hát qua đó giáo dục được các em hịa đồng, tự tin tham gia vào các hoạt động tập
thể và cũng giúp các em trách xa được các trò chơi bạo lực, những hoạt động
không lành mạnh khác. Đồng thời giúp các em có thêm hiểu biết về ngày 8/3.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Tuy nhiên các hoạt động theo chủ điểm như vậy, không phải diễn ra
thường xuyên, không phải tất cả các chủ điểm giáo dục nào cũng được tổ chức,
chính vì vậy chưa phát huy được hiệu quả giáo dục


Ba trường trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên-Vĩnh Phúc đều là các trường
bán trú dạy hai buổi/ngày do đó các tiết luyện tập-thực hành và hoạt động tập thể
thường được tổ chức vào các buổi chiều. Có trường tổ chức các hoạt động ngoại
khóa như: tìm hiểu về ma túy, tìm hiểu về bảo vệ môi trường…được ghi trong kế
hoạch nhưng đầu tư chưa được thỏa đáng, mới diễn ra ở dạng hình thức cho nên
hiệu quả giáo dục chưa cao.


<b>III. Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh</b>
<b>hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học ở thành phố Vĩnh Yên</b>
<b>– Vĩnh Phúc</b>


Thông qua trao đổi với giáo viên, học sinh, quan sát các hoạt động giáo
dục, dự giờ dạy tiết đạo đức kết hợp với sử dụng phiếu ý kiến để tìm thực trạng
sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục
đạo đức học sinh tại ba trường tiểu học tôi nhận thấy như sau:


<b>1. Thực trạng sử dụng phương pháp khen thưởng trong giáo dục đạo đức</b>


<b>cho học sinh tiểu học</b>


Để tìm hiểu thực trạng tôi đã sử dụng câu hỏi sau:


<i>Thầy ( Cơ ) có thường sử dụng phương pháp khen thưởng để động viên học sinh,</i>
<i>đồng thời để các học sinh khác noi theo và phấn đấu vươn lên.</i>


Có Khơng


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

1. Học sinh phải ý thức được nguyên nhân mình được khen thưởng,
thực hiện hành vi đúng đó.


2. Khen thưởng không chỉ kết quả đạt được mà cả động cơ, thái độ,
sự cố gắng vượt khó trong thực hiện hành vi.


3. Khen thưởng phải công bằng, đúng lúc, kịp thời, tránh hiện tượng
thiên vị hay dành tình cảm riêng cho một số em nào đó.


4. Khơng q lạm dụng khen thưởng học sinh.
5. Tất cả các yêu cầu đó.


Nếu Thầy ( Cô ) đồng ý với ý kiến nào xin hãy đánh dấu “ + ” vào ơ đó.
Kết quả thu được:


Tổng số Kết quả


Có Khơng


84 84/84 100% 0/84 0%



Tổng Kết quả


1 2 3 4 5


84 0/84


0%


5/84
5,95%


3/84
3,57%


6/84
7,14%


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

thưởng cho các em, mà chỉ dừng lại ở lời động viên, ngoài ra nhà trường mới chú
trọng đến việc khen các học sinh trong học tập mà quên đi mất các học sinh có
hành động tốt. Các thầy ( cô ) mới chỉ chú trọng đến kết quả của hành động chưa
để ý đến động cơ, thái độ của việc thực hiện hành vi đó, sự cố gắng vượt khó, sự
sáng tạo trong thực hiện các hành vi. Việc khen thưởng của thầy ( cô ) chưa kịp
thời mà chủ yếu tổ chức khen thưởng vào các dịp lễ kỉ niệm như Trường tiểu học
Ngô Quyền,Trường tiểu Đống Đa, cịn Trường tiểu học Liên Minh khơng có tổ
chức khen thưởng trong dip lễ đó. Giáo viên vẫn có hiện tượng thiện cảm với
một số em đặc biệt. Qua quan sát trong các tiết dạy đạo đức tôi thấy các thầy ( cơ
) cũng đã có những lời động viên khuyến khích với các em nhút nhát, rụt rè,
những em chậm tiến, nhưng việc đó khơng diễn ra thường xun. Ngồi ra khí
các thầy cơ khen thưởng học sinh vẫn chưa chú ý đến việc phân tích ngun
nhân vì sao học sinh đó được khen thưởng, điều này có thể dẫn đến tác dụng


ngược của việc khen thưởng là làm cho các em kiêu ngạo, tự mãn, ích kỉ của
người được khen thưởng. Vì tác dụng của việc khen thưởng trong giáo dục đạo
đức cho học sinh tiểu học là làm cho các em tích cực, tự tin tham gia các hoạt
động khác, đồng thời là tấm gương sáng để các em khác trong nhà trường noi
theo muốn phấn đấu cao hơn nữa. Vì vậy việc thực hiện phương pháp khen
thưởng trong giáo dục các giáo viên ở đây thực hiện chưa tốt.


<b>2. Thực trạng sử dụng phương pháp trách phạt trong giáo dục đạo đức cho</b>
<b>học sinh tiểu học.</b>


Để tìm hiểu thực trạng này tơi có sử dụng câu hỏi sau:


Các Thầy ( Cơ ) có thường sử dụng phương pháp trách phạt để giáo dục
<i>những hành vi sai trái của học sinh, tạo cơ hội cho học sinh nhận ra lỗi lầm về</i>
<i>hành vi của mình, từ đó quyết tâm khơng tái phạm nữa:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>*Nếu thường sử dụng phương pháp trách phạt thì trong sử dụng thầy (cơ) thường</b>
chú ý đảm bảo yêu cầu nào sau đây:


1. Trách phạt tập thể và trách phạt trong trường hợp còn nghi vấn.
2. Trách phạt phải khách quan, công bằng, được tập thể lớp ủng hộ.
3. Không được gây ra sự đau khổ về thể xác và tinh thần.


4. Không nên trách phạt quá nhiều.
5. Đảm bảo các yêu cầu 2,3,4.


Nếu Thầy ( Cô ) đồng ý với ý kiến nào xin hãy đánh dấu “ + ” vào ơ đó.
Kết quả:


Tổng Kết quả



Có Khơng


84 84/84


100%


0/84
0%


Tổng Kết quả


1 2 3 4 5


84 3/84


3,57%


10/84
11,9%


7/84
8,33%


1/84
1,19%


63/84
75%
Với kết quả thu được từ phiếu ý kiến cũng như trao đổi với các thầy cô


trong nhà trường tôi nhận thấy:


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

của tập thể lớp. Bên cạnh đó các giáo viên khi trách phạt học sinh vẫn chưa tìm
hiểu, phân tích kỹ ngun nhân và tính đến điều kiện nảy sinh hành vi đó, việc
trách phạt chưa gắn liền với hành động việc làm của học sinh. Thơng qua bảng
số liệu có 3,57% trên tổng số 84 giáo viên lấy ý kiến vẫn có một số thầy ( cơ )
khi khơng tìm ra được cá nhân vi phạm, đã dùng hình thức trách phạt tập thể có
cá nhân đó, điều này dễ tạo lên sự chống đối ngầm, nhiều học sinh cảm thấy ấm
ức, khơng chịu với cách làm của thầy cơ. Đã có những giáo viên mang cả chuyện
tức giận của cá nhân đến lớp dẫn đến có lời lẽ khơng hay với học sinh, thậm trí
việc trách một học sinh vi phạm nào đó diễn ra cả tiết học làm cho lớp học căng
thẳng ảnh hưởng đến tâm sinh lý của các em học sinh. Như vậy các thầy ( cô ) đã
sử dụng phương pháp trách phạt nhưng chưa đảm bảo toàn diện các yêu cầu của
phương pháp trách phạt, các nguyên tắc trong giáo dục đạo đức học sinh như
các thầy ( cơ ) vẫn có hiện tượng xác phạm đến thể xác và nhân phẩm của học
sinh. Vì khi sử dụng phương pháp trách phạt là nhằm mục đích giúp học sinh
thấy được sai trái, lỗi lầm của mình, làm các em có tâm trạng xấu hổ, sự ân hận
trước tập thể về hành vi của mình để từ đó các em sẽ thay đổi hành vi, giúp các
em có nghị lực chống lại sự cám dỗ của hành vi tương tự.


<b>3. Thực trạng sử dụng phương pháp thi đua trong giáo dục đạo đức cho học</b>
<b>sinh tiểu học.</b>


Để tìm hiểu thực trạng này tơi sử dụng câu hỏi:


<i>Các Thầy ( Cơ ) có thường sử dụng phương pháp thi đua để khích lệ, kích thích</i>
<i>các cá nhân, tập thể hăng hái thi đua vươn lên cao hơn nữa:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

* Nếu thường sử dụng phương pháp đó thì trong khi sử dụng thầy (cơ) thường
sử dụng đảm bảo yêu cầu nào dưới đây:



1. Thi đua phải tổ chức trong các hoạt động hằng ngày, mang tính
thường xun.


2. Tránh tình trạng vì thành tích có thể tạo ra sự ganh đua không
lành mạnh.


3. Tổ chức phong trào thi đua sôi nổi, hấp dẫn, lôi cuốn được mọi
người tham gia với động cơ tốt lành.


4. Phải thường xuyên sơ kết, tổng kết công tác thi đua, động viên
khen thưởng, trách phạt kịp thời.


5. Tất cả các yêu cầu đó.


Nếu Thầy ( Cơ ) đồng ý với ý kiến nào xin hãy đánh dấu “ + ” vào ô đó.


Kết quả thu được:


Tổng Kết quả


Có Không


84 84/84


100%


0/84
0%



Tổng Kết quả


1 2 3 4 5


84 4/84


4,76%


1/84
1,19%


3/84
3,57%


4/84
4,76%


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

thấy trong các nhà trường tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên-Vĩnh Phúc có
tổ chức các phong trào thi đua theo từng chủ điểm của tháng để chào mừng các
ngày lễ kỉ niệm như ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày thành lập quân đội
nhân dân Việt Nam 22/12, kỷ niệm ngày thành lập Đồn Thanh Niên Cộng Sản
Hồ Chí Minh…Sau mỗi đợt thi đua nhà trường cũng có sơ kết, tổng kết công tác
thi đua, động viên khen thưởng và trách phạt. Tuy nhiên phong trào thi đua trên
mới chỉ diễn ra ở cấp trường giữa việc thi đua các lớp với nhau, chưa chú ý đến
phong trào thi đua trong lớp, ngồi ra một số thầy ( cơ ) trong nhà trường chỉ chú
ý đến kết quả thi đua, bệnh thành tích gây nên sự ganh đua hiếu thắng, tìm mọi
cách để hơn lớp khác, điều đó ảnh hưởng xấu cho các em học sinh, sự động viên
khen thưởng thi đua trong nhà trường chưa kịp thời, các phong trào thi đua thực
sự chưa thiết thực, và hấp dẫn, nên chưa lơi kéo được học sinh tham gia.Vì thi
đua là phương pháp giáo dục đạo đức, thu hút, khích lệ các cá nhân, tập thể tạo


điều kiện và cơ hội cho họ vươn lên, cố gắng nhiều hơn nữa để khẳng định mình.
Do vậy kết luận rằng các trương tiểu học trong khu vực đã sử dụng phương pháp
thi đua trong giáo đục đạo đức nhưng chưa tốt.


<b>Chương 3: Nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp cần thiết để</b>
<b>đảm bảo tốt việc sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh </b>
<b>hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học..</b>


<b>1. Nguyên nhân của thực trạng</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Trong xã hội hiện đại ta thấy sự xuống dốc đạo đức của một bộ phận thanh
thiếu niên sống khơng có mục đích, hồi bão, mơ ước…Để đất nước phát triển
cần những con người có tâm và có tầm, tiến xa hơn nữa là con người của chủ
nghĩa xã hội. Vậy mà việc sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều
chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức học sinh chưa được các cấp quản lý chú
trọng, trong các nhà trường có sử dụng nhưng không đảm bảo các yêu cầu của
phương pháp, mới chỉ dừng lại ở tính hình thức, bệnh thành tích trong giáo dục.
Trong giáo dục đã có các thơng tư về quy chế khen thưởng thi đua của bộ ban
hành, nhưng đó chỉ là cho giáo viên, chứ khơng phải cho học sinh. Việc sử dụng
phương pháp đó chưa có văn bản ép buộc nào để mọi giáo viên, mọi cở sở giáo
dục phải thực hiện.


Giáo viên là chủ thể của quá trình giáo dục – là những người giữ vai trị
lãnh đạo, chỉ đạo đối với q trình giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên
trình độ, khả năng nhận thức của mỗi giáo viên lại tác động rất lớn đến kết quả
của quá trình giáo dục. Nội dung của nhóm phương pháp đã được các giáo viên
tiếp cận khi còn là sinh viên tuy nhiên sự hiểu biết đó chưa sâu, nội dung của
phương pháp chưa thuần nhuyễn, và thời gian đã lấy dần đi các kiến thức đó nếu
khơng thường xun bồi dưỡng và cập nhận kiên thức mỗi ngày. Việc không
hiểu đúng bản chất, việc thực hiện không thường xuyên, sau mỗi lần thực hiện


các phương pháp đó khơng tìm hiểu và đúc rút kinh nghiệm dãn đến việc thực
hiện chưa tốt. Không những thế việc thực hiện đánh giá các hành vi đạo đức của
học sinh chưa đồng đều, học sinh chưa được thực hành các hành vi đạo đức nên
cơ hội cho học sinh chuyển hóa bước đầu niềm tin các chuẩn mực đạo đức còn
nhiều hạn chế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

thức khoa học, phụ huynh học sinh thì chỉ chú ý đến việc con em mình đã lĩnh
hội được những gì mà quên đi mất ý nghĩa của quá trình giáo dục bao gồm hai
mặt: dạy học và giáo dục. Điều đó có nghĩa là song song với việc truyền đạt kiến
thức cho học sinh thì phải giáo dục đạo đức cho các em, để các em có một nền
tảng đạo đức mới, đạo đức của con người xã hội chủ nghĩa. Thời gian học văn
hóa gần như lấp kín thời gian biểu trong gian trường ít các tổ chức hoạt động tập
thể, nếu có thì cũng chỉ vào các ngày lễ lớn trong năm học. Không những thế
trong các nhà trường hiện nay chưa có một hình thức kiểm tra, và thang đánh giá
đạo đức của học sinh tiểu học.


Chính việc chưa được đề cao giáo dục đạo đức trong nhà trường vì vậy
việc đầu tư kinh phí cho các hoạt động giáo dục còn nhiều hạn chế. Với học sinh
tiểu học cần hình thành ở các em một con người tự tin tham gia vào các phong
trào hoạt động, luôn vươn lên, phấn đấu trong học tập, trong các phong trào hoạt
động thi đua, biết tránh các hạnh vi đạo đức mà khơng được xã hội chấp nhận.
Muốn có được điều đó thì các em phải được trải nghiệm bằng những hoạt động
thực tiễn. Tức là các em có những buổi hoạt động ngoại tham quan các bảo tàng
lích sử, nói chuyện với những tấm gương sáng trong các lĩnh vực khác nhau…
tất cả các hoạt động đó đều cần có kinh phí và thời gian, cần đến sự đóng góp
của các cơ quan đồn thể, cha mẹ học sinh, sự đầu tư từ vốn ngân sách trong nhà
trường.


<b>2. Những giải pháp cần thiết để đảm bảo tốt việc sử dụng nhóm các phương</b>
<b>pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học</b>


<b>sinh tiểu học.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

trò đặc biệt quan trọng trong việc sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích
và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức học sinh, thì thực trạng sử dụng
nhóm phương pháp chưa tốt, dẫn đến kết quả giáo dục đạo đức học sinh chưa
cao. Dựa vào các ngun nhân tơi đã phân tích ở trên, tôi xin đưa ra một số giải
pháp để đảm bảo tốt việc sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều
chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học hiện nay:


<b>a. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lí</b>


Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo tốt việc sử dụng
nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức
cho học sinh tiểu học. Để thực hiện điều đó, các cán bộ quàn lý giáo dục, các cấp
có thẩm quyền phải thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng nhóm phương
pháp này. Các nhà quản lý giáo dục phải ban hành các văn bản, công văn hướng
dẫn, quy định mọi người phải hiểu và sử dụng nhóm các phương pháp khuyến
khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục. Ban lãnh đạo của nhà trường phải
xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức dựa trên tình hình đạo đức của học
sinh trong nhà trường, tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức đó, chỉ đạo
thực hiện kế hoạch giáo dục đó, cuối cùng là phải tổ chức kiểm tra đánh giá định
kỳ đạo đức học sinh.


<b>b. Nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực giáo dục của mỗi giáo viên</b>


Để sử dụng tốt nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành
vi trong giáo dục đạo đức, đòi hỏi mỗi giáo viên phải hiểu và vận dụng một cách
sáng tạo, đảm bảo các yêu cầu khi sử dụng phương pháp khen thưởng và phương
pháp trách phạt trong giáo dục đạo đức học sinh



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

trường cũng phát động phong trao thi đua giữa các thầy cô để mỗi thầy cô là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.


<b>c. Đầu tư kinh phí cho các hoạt động giáo dục</b>


Để hình thành và phát triển nhân cách của một con người mà ngày từ khởi
đầu của sự giáo dục là cấp tiểu học cần phải cho các em có những trải nghiệm
thực tế thơng qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa trong nhà trường như tổ
chức nói chuyện với những tâm gương sáng về đạo đức: lòng dũng cảm, tấm
gương về sự vượt khó vươn lên trong cuộc sống…các hoạt động này cần phải
đầu tư kỹ lưỡng, có nội dung, tổ chức quy củ để có thể lôi cuốn các học sinh
tham gia vào các hoạt động đó một cách tích cực, tạo cho học sinh sự hứng thú,
niềm tin vào những gì mà các em đang được nghe nhân vật sống kể lại. Để đạt
được kết quả như mong muốn cần phải có sự đầu tư về kinh phí, cần sự chung
tay góp sức của các tập thể và cá nhân.


<b>d. Tổ chức kiểm tra đánh giá định kỳ kết quả giáo dục đạo đức ở học sinh</b>
Đánh giá hành vi đạo đức của học sinh cần dựa vào ba yếu tố: Mục tiêu
thực hiện hành vi, kết quả của việc thực hiện hành vi đạo đức và điều kiện thực
hiện hành vi đó. Đối với những hoạt động thực tiễn, cần đặc biệt chú ý động cơ
thực hiện hành vi đó đó: các em đã thực hiện những hành vi đạo đức gì?vì sao
thực hiện hành vi đó. Chúng ta nên hướng dẫn học sinh tự nhận xét đánh giá các
hành vi của mình, giáo viên là người đưa ra kết luận cuối cùng. Kết quả của q
trình giáo dục thành cơng như thế nào chỉ có đánh giá một cách cơng bằng,
khách quan, tính rõ ràng cơng khai, cần có sự phối hợp các phương pháp kiểm
tra đánh giá khác.Kết quả đó là cơ sở để các em tự điều chỉnh mình trong các
hành vi của mỗi quan hệ với tập thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

việc trả bài miệng, bài viết khơng hiệu quả, vì khơng có tác dụng trong việc hình
thành nhân cách của học sinh. Điều cần thiết và quan trọng nhất trong việc đánh


giá đạo đức của học sinh thông qua hành động, thông qua chuyển biến của học
sinh chứ không phải thông qua trả bài đạo đức như hiện nay. Công việc đánh giá
đạo đức cần có sự kết hợp chặt giữa các lực lượng giáo dục là nhà trường, gia
đình và xã hội. Ba lực lượng này cần có sự kết hợp chặt chẽ, trao đổi thông tin
kịp thời từ đó đề ra những hướng giáo dục phù hợp với các em.


<b>PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ</b>
<b>I. Kết luận:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc. Qua tìm hiểu, đa số các thầy cơ đều có nhận
thức đúng đắn về sự cần thiết phải sử dụng nhóm phương pháp trên trong giáo
dục đạo đức. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng nhận thức sâu sắc và
đúng đắn về nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi, cũng vận
dụng phương pháp một cách sáng tạo và tuân theo các yêu cầu khi sử dụng các
phương pháp đó. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp giáo dục đạo đức cho học sinh
chưa đạt được kết quả cao. Tùy từng tình huống giáo dục cụ thể, địi hỏi ở mỗi
người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhóm phương pháp
khuyến khích và điều chỉnh hành vi chứ khơng phải sử dụng một cách tùy tiện,
đại khái được.


Trên cơ sở thực trạng, đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo tốt
việc sử dụng nhóm phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi. Đó là:
nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao trình độ hiểu biết và
năng lực giáo dục của mỗi giáo, đầu tư kinh phí cho hoạt động giáo dục, tăng
cường công tác kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục đạo đức của học sinh. Các đề
xuất giải pháp ở trên chủ yếu dựa vào cơ sở lí luận và tìm hiểu thực tiễn trong
một số trường tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.


<b>II. Kiến nghị:</b>



Để đảm bảo việc sử dụng tốt nhóm các phương pháp khuyến khích và điều
chỉnh hành vi cần có sử đồng tình, ủng hộ của các cấp có thẩm quyền: Đảng và
Nhà nước, Bộ giáo dục, Sở giáo dục, các Phịng giáo dục cần có những chủ
trương, chính sách đúng đắn và điều chỉnh kịp thời theo xu thê phát triển của
thời đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Cần có sử chỉ đạo, kiểm tra công tác giáo dục từ cấp Bộ, Sở, Phòng, và
các trường tiểu học.


Chăm lo hơn nữa đến công tác giáo dục và đạo tạo đạo đức cho các em,
giáo dục đạo đức không chỉ theo kiểu “ đánh trống ghi tên ” mà thấm vào tư
tưởng, từng trang sách, qua từng bài học, từng việc làm cụ thể và thiết thực.
Thầy cô, cha mẹ phải làm gương cho các con loi theo, qua đó các em có niềm tin
tham gia vào các hoạt động xã hội trong cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


[1] Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII, Tạp chí Lịch
sử Đảng số 2 ( 1/1997 )


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

[3] Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Hữu Hợp, Giáo dục học tiểu học II, Nhà xuất bản
Đại Học Sư Phạm Hpà Nội ( 2010 )


[4]. Nguyễn Hữu Hợp, Đạo đức và phương pháp dạy học môn đạo đức ở tiểu
<i>học, Nhà xuất bản đại học sư phạm (2010 )</i>


[5]. Trần Hậu Khiêm, Giáo trình đạo đức học, Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia
Hà Nội (1997 )


[6] Nguyễn Phương Lan, Hà Nhật Thăng, Đạo đức và phương pháp giáo dục


<i>đạo đức ở tiểu học, Tài liệu đào tạo giáo viên tiểu học – Dự án phát triển giáo</i>
viên tiểu học, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. ( 2006 )


[7]. Phan Thanh Long, Trần Quang Cấn, Nguyễn Văn Diện, Lí luận giáo dục
<i>học, Nhà xuất bản Đại Học Sư Phạm Hà Nội ( 2009 )</i>


[8]. Hồ Chí Minh. Tồn tập( tập 5 ). NXB chính trị quốc gia (2000)


[9] Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc Chương, Phạm Viết Vượng, Nguyễn Văn
Diện, Lê Tràng Định, Giáo dục học ( tập 2), Nhà xuất bản Đại Học Sư Phạm Hà
Nội ( 2011 )


[10].Nguyễn Thị Quy. Khuyến khích và trừng phạt trẻ em hư, phạm pháp nhìn từ
góc độ tâm lý ( 2011) truy cập ngày ( 11/11/2011 )
[11]. Lưu Thu Thủy, Nguyễn Hữu Hợp, <i>Hỏi đáp về dạy học môn Đạo đức ở</i>
<i>Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục (2001 )</i>


[12]. Thông tư hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng ngành giáo dục


MỤC LỤC


Trang


<b>Phần 1: Mở đầu……….</b> <b>1</b>


<b>Phần 2: Nội dung………...</b> <b>8</b>


<b>Chương 1: Một số vấn đề lí luận về phương pháp giáo dục đạo</b>
<b>đức………..</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<b>PHỤ LỤC</b>
<b>Biên bản quan sát</b>


<b>Biên bản quan sát để đánh giá thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp</b>
<b>khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học </b>
Họ và tên người quan sát: Trần Thị Lan


Lớp được quan sát:4G-Trường tiểu học Liên Minh
Tên bài học:Lịch sự với mọi người


<b>1. Mục đích: Sử dụng phương pháp đánh giá qua quan sát </b>để đánh giá thực trạng sử
dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo
đức cho học sinh tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.


- Đối tượng cần đánh giá: Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích
và điều chỉnh hành vi của giáo viên


<b>2. Ghi nhận quan sát:</b>


- Một số nét về cách bố trí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho người dạy
Gv và Hs sử dụng SGK đầy đủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>chỉnh hành vi</b>


<b>Nội dung quan sát</b> <b>Chú ý</b>




Hs phấn khởi, tự tin



Hs khác cố gắng phấn đấu
<b>Sư dụng nhóm</b>


<b>phương pháp</b>
<b>khuyến khích</b>
<b>và điều chỉnh</b>
<b>hành vi</b>


1. Trong giờ dạy môn đạo
đức…….


2. Trong sinh hoạt đầu tuần
3. Thái độ tiếp nhận của học


sinh khi được khen
thưởng…………..


4. Tác động của khen thưởng
đến các học sinh


khác………


5. Thái độ của học sinh khi bị
trách


phạt………
…..


6. Giáo viên có chú ý đến động
cơ của học sinh khi trách


phạt không


7. Ý thức của học sinh sau khi
bị trách phạt


8. Phát động phong trào thi đua
9. Tác động đến của phong trào


đến học sinh


10.Học sinh tiếp nhận như thế
nào về phong trào thi đua
<b>3. Đánh giá</b>


Đánh giá chung : Trong tiết dạy khơng thấy có hiện tượng trách phạt hay phát động thi
đua


Giáo viên có khen học sinh khi trả lời đúng
- Nêu một số nguyên nhân dẫn đến kết quả thu được:


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<b>Biên bản quan sát</b>


<b>Biên bản quan sát để đánh giá thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp</b>
<b>khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học </b>
Họ và tên người quan sát: Trần Thị Lan


Tên bài quan sát: Tiết sinh hoạt đầu tuần của Trường tiều học Liên Minh


<b>1. Mục đích: Sử dụng phương pháp đánh giá qua quan sát để đánh giá thực trạng sử </b>
dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi trong giáo dục đạo


đức cho học sinh tiểu học ở khu vực thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc.


- Đối tượng cần đánh giá: Thực trạng sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích
và điều chỉnh hành vi của giáo viên


<b>2. Ghi nhận quan sát:</b>


- Một số nét về cách bố trí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho người dạy
Hs tập trung tồn trường, có đầy đủ Gv ngồi trên


- Bảng kiểm quan sát sử dụng nhóm các phương pháp khuyến khích và điều
<b>chỉnh hành vi</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>



-Tuyên dương Hs đạt kết
quả học tập cao trong
tuần, những em có hành
động tốt làm Hs đó tự tin,
phấn khởi


- Hs khác khác noi theo
-Nhà trường phê bình em
có nhiều điểm kém, ý thức
kém trong tuần, Hs xấu hổ
-Gv không chú ý đến
động cơ





-Hs không hứng thú mấy
<b>Sư dụng nhóm</b>


<b>phương pháp</b>
<b>khuyến khích</b>
<b>và điều chỉnh</b>
<b>hành vi</b>


1. Trong giờ dạy môn đạo
đức…….


2. Trong sinh hoạt đầu


tuần………


3. Thái độ tiếp nhận của học
sinh khi được khen


thưởng…….


4. Tác động của khen thưởng
đến các học sinh


khác………


5. Thái độ của học sinh khi bị
trách


phạt………


6. Giáo viên có chú ý đến động


cơ của học sinh khi trách
phạt


không………


7. Ý thức của học sinh sau khi
bị trách


phạt………..
8. Phát động phong trào thi


đua…


9. Tác động của phong trào
đến học sinh


………..


10.Học sinh tiếp nhận như thế
nào về phong trào thi
đua…………


<b>3. Đánh giá</b>


-Đánh giá chung : Trong tiết sinh hoạt đầu tuần nhà trường có sử dụng nhóm
các phương pháp khuyến khích và điều chỉnh hành vi, nhưng cịn chưa tuân theo các
quy tắc của phương pháp. Phát động phong trào thi đua chưa lôi cuốn được Hs



-Nêu một số nguyên nhân dẫn đến kết quả thu được:


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50></div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51></div>

<!--links-->
Thông báo tuyển sinh viên làm khóa luận tốt nghiệp
  • 1
  • 577
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×