Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.95 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử nghiên cứu triết học, vấn đề bản thể luận là một trong những
vấn đề được quan tâm hàng đầu, các nhà triết học đã bàn rất nhiều về nguồn gốc
của thế giới, đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa vật chất và ý thức, sự vận động và phát triển của thế giới. Tất cả những
nghiên cứu, lập luận về bản thể luận trong lịch sử triết học đều là cơ sở, nền tảng
lí luận cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy
vật lịch sử. Bản thể luận không chỉ được tìm hiểu, nghiên cứu trong triết học
phương Tây mà nó cịn xuất hiện ở lịch sử triết học phương Đơng, trong đó nổi
bật tiêu biểu nhất là nền triết học Trung Quốc, có rất nhiều nhà triết gia quan tâm
nghiên cứu về vấn đề bản thể luận khiến cho bản thể luận được nhìn nhận ở
nhiều góc độ, khía cạnh vơ cùng phong phú và đa dạng. Tuy rằng ở những mốc
thời gian lịch sử khác nhau, những quan niệm về bản thể luận của mỗi người có
thể rất khác nhau, nhưng nhìn chung lại cho dù ở góc độ nào, ở trình độ lý luận
nào thì mục đích của các quan điểm đều nhằm tới việc lý giải cho sự tồn tại hiện
thực trên lát cắt cội nguồn, khởi ngun của nó. Đây chính là hạt nhân cho việc
hình thành thế giới quan đúng đắn của triết học Mác, và để hiểu rõ hơn về lịch
sử nghiên cứu về bản thể luận, em xin chọn nghiên cứu về “Vấn đề bản thể
luận trong Triết học Trung Quốc cổ - trung đại, những đóng góp và hạn chế”
để làm đề tài cho bài tiểu luận cá nhân của mình.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, thu thập tài liệu làm tiểu luận sẽ khơng
thể tránh khỏi sai sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô. Em xin
chân thành cảm ơn.

2


1. Điều kiện ra đời của nền triết học Trung Quốc cổ - trung đại



Trung Quốc cổ đại là một vùng đất có diện tích rộng lớn thuộc khu vực
châu Á, được chia làm hai miền địa lý. Miền Bắc ngang vĩ tuyến với Hy Lạp, xa
biển, khí hậu lạnh, đất đai khô khan, cằn cỗi, sản vật nghèo. Miền Nam, khí hậu
ấm áp, cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp, sản vật phong phú. Nền văn minh
Trung Quốc cũng ra đời từ rất sớm, bắt nguồn tại các khu vực chạy dọc theo
thung lũng của các sơng Hồng Hà và Trường Giang với rất nhiều giá trị văn
hóa đặc sắc.
Với quá trình lịch sử phát triển lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III, kéo dài
tới tận thế kỷ III TCN, trong khoảng 3000 năm lịch sử ấy, Trung Quốc được
phân chia làm 2 thời kỳ lớn: thời kỳ từ thế kỷ IX TCN về trước và thời kỳ từ thế
kỷ VIII đến thế kỷ III TCN.
Thời kỳ từ thế IX TCN về trước là thời kỳ hình thành các quốc gia cổ đại
Trung Quốc bao gồm thời Thượng cổ và thời Tam đại: là Hạ, (2205 -1784 TCN)
Thương (1783-1135 TCN), Tây Chu (1135 – 770 TCN). Trong đó, thời Tây Chu
là đỉnh cao của chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc. Các nhà nước cổ đại ở
Trung Quốc thời kỳ này chủ yếu được xây dựng dựa trên chế độ tông tộc là chủ
yếu. Đứng đầu mỗi nhà nước đều là vua, tự xưng là Thiên Tử, quân thần cấp
dưới chủ yếu là con cháu trong dòng tộc được lựa chọn để thay mặt nhà vua cai
trị bách tính, vậy nên cách thức tổ chức nhà nước ở Trung Quốc thời kỳ này khá
bền chặt và ổn định.
Từ thế kỷ VIII - III TCN là thời kỳ Đông Chu (770 – 221 TCN thường gọi
là thời kỳ Xuân thu - Chiến Quốc). Đó là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm
hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Ở thời Đông Chu quyền sở hữu tối cao về
ruộng đất thuộc về chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Chính
ngun nhân kinh tế này làm xuất hiện sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài
sản, sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ và đẩy xã hội Trung Quốc
cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Thời Xuân thu có 438 cuộc chiến
phạt lẫn nhau giữa các thế lực chính trị, đó là “ngũ bá đồ vương” 1 sang thời
Chiến quốc có “thất bá tranh hùng”2. Những cuộc chiến tranh như vậy đã làm

đảo lộn các thiết chế, nghi lễ truyền thống nhà Chu; làm cho xã hội ở tình trạng
loạn lạc, phá hoại sức sản xuất ghê gớm. Từ đây cũng chính là điều kiện lịch sử
địi hỏi giải thể chế độ nơ lệ thị tộc nhà Chu để xây dựng chế độ phong kiến; giải
Cuộc chiến của năm vị bá chủ thời Xn Thu: Tề Hồn cơng, Tống Tương Cơng, Tần Văn
Cơng, Tần Mục Công, Sở Trang Vương (theo Sử ký của Tư Mã Thiên).
1
2

Bảy nước lớn thời Chiến Quốc: Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần.
3


thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải
phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Thực trạng ấy của xã
hội đã làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm "kẻ sĩ" luôn tranh luận về
trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu cho một xã hội tương lai dẫn đến sự
hình thành các nhà tư tưởng lớn và các trường phái triết học khá hồn chỉnh.
Như vậy, có thể thấy rằng những điều kiện về tự nhiên, về kinh tế - xã hội
và văn hố đóng một vai trị quan trọng là cơ sở, tiền đề cho sự ra đời, phát triển
và quy định nội dung, tính chất của triết học Trung Quốc cổ - trung đại.
2. Quá trình phát triển của nền triết học Trung Quốc cổ - trung đại

Cùng với sự phát triển của kinh tế văn hóa xã hội, triết học Trung Quốc bắt
đầu xuất hiện vào khoảng thế kỳ VII – VI TCN trong bối cảnh lịch sử xã hội
Trung Quốc đang chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang chiếm hữu
nơ lệ. Q trình hình thành và phát triển triết học Trung Quốc cổ - trung đại đều
phản ánh những nấc thang phát triển khác nhau của trong lịch sử đất nước đầy
biến động.
2.1.


Các giai đoạn phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại

Trong thời kỳ từ thế kỷ IX TCN về trước, tư tưởng triết học bắt đầu xuất
hiện, nhưng chưa đạt tới hệ thống. Mầm mống tư tưởng bắt nguồn thời tiền sử
Thượng cổ, đến thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) những tư tưởng triết học sơ
khai đầu tiên bắt đầu xuất hiện như tư tưởng thần thoại xuất hiện gắn với tư
tưởng về tục lệ thờ cúng tổ tiên; tư tưởng tơn giáo xuất hiện dưới hình thức
totem giáo và tín ngưỡng vật linh; về đạo đức và chính trị tuy chưa có quan niệm
rõ ràng nhưng thời Ân đã xuất hiện tư tưởng đề cao, tôn sùng người cầm đầu thị
tộc. Ở thời kỳ Tây Chu bên cạnh các tư tưởng duy tâm, tôn giáo đã xuất hiện
những nhà tư tưởng hồi nghi phê phán các tín đồ tơn giáo duy tâm, từ đó mở
đường cho các tư tưởng duy vật chất phác và vô thần ra đời.
Đến thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc, là thời đại quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, tư tưởng triết học có hệ thống được hình
thành. Ở thời kỳ này, trong sự biến động không ngừng của xã hội, hàng loạt vấn
đề đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương thời phải quan tâm. Đặc biệt là
tìm hiểu các vấn đề chính trị - đạo đức để tìm ra cách lý giải và những triết lý,
những biện pháp nhằm khắc phục hiện tượng xã hội biến động trong lịch sử
chính trị, cai trị của các triều đại. Một loạt các trường phái triết học ra đời, mỗi
trường phái đưa ra một kế sách quản lý xã hội, tạo nên một khơng khí sơi động
trong đời sống tinh thần của xã hội Trung Quốc. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời
kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua
4


tiếng)3. Theo ghi chép của Hán thư thì có tất cả 103 học phái triết học khác nhau
như: Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Nông gia, Bình gia,
Tiểu thuyết gia,… với các nhà triết học nổi danh như: Khổng – Mạnh – Tuân Tử
của Nho gia, Lão – Trang Tử của Đạo gia, Mặc Tử của Mặc gia, Huệ Thi – Công
Tôn Long của Danh gia,…Trong đó, 6 học phái tiêu biểu là Nho gia, Mặc gia,

Đạo gia, Âm Dương gia, Pháp gia, Danh gia 4. Các hệ thống triết học thời kỳ này
là cội nguồn tư tưởng của triết học Trung Quốc cổ đại, là cơ sở ban đầu của các
loại thế giới quan và phương pháp luận, hệ thống phạm trù triết học thời kỳ này
đã quy định tiến trình phát triển của tư tưởng triết học.
Từ thời Tần Hán về sau này, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất về tư
tưởng, các phái triết học thời cổ đại lần lượt dung hợp với Đạo Phật từ bên ngoài
vào, tạo nên con đường diễn biến độc đáo của tư tưởng triết học Trung Quốc.
Thời nhà Tần Hán, thiên hạ thống nhất, dựa vào quyền lực chính trị trong tay,
giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất tư tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo,
Phật. Các nhà tư tưởng thời tiên Tần thuộc Nho, Đạo, Pháp, Danh Âm Dương
gia lần lượt dung hợp với Phật giáo từ ngoài truyền vào tạo nên con đường diễn
biến độc đáo của tư tưởng triết học Trung Quốc. Từ Lưỡng Hán đến Ngụy Tấn,
rồi Tùy Đường kế tiếp nhau thịnh hành: Kinh học do Nho gia làm chủ, Huyền
học do Đạo gia làm chủ, Phật học do Phật giáo làm chủ để tập hợp các học phái.
Sự phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc Trung Hoa
sáng tạo nên một nền văn hóa huy hồng trong thời kỳ cực thịnh của xã hội
phong kiến.
Từ thời Tống trở về sau, xã hội phong kiến Trung Quốc bước vào giai đoạn
hậu kỳ. Tư tưởng triết học phải trải qua một quá trình gần một vịng trịn, đến
đời Tống, Nho học lại được đề cao và phát triển mạnh mẽ. Hình thức biểu hiện
cuar nó là Lý học – dung hợp đạo Phật vào Nho. Đến đời nhà Thanh, các nhà tư
tưởng như Hồng Tơng Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi lại đề xướng Thực
học, tiến hành tổng kết một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về
hữu và vô (động và tĩnh), tâm và vật (tri và hành).
2.2.

Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ - trung đại

Triết học Trung Quốc cổ trung đại coi con người và xã hội là trung tâm của
sự nghiên cứu, từ đó mà triển khai hàng loạt phạm trù triết học, nên so với triết

học phương Tây và ấn Độ cùng thời, triết học Trung Quốc mang những đặc
điểm sau đây:
3

Chỉ sự xuất hiện của hàng loạt các học phái triết gia thời kỳ đó.

Bộ GD&ĐT, Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học, nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007, tr.31.
4

5


Tinh thần nhân văn: Vấn đề con người là vấn đề trung tâm nghiên cứu của
các học phái, song đậm nét nhất vẫn là Nho gia. Tư tưởng duy tâm trong Nho
gia coi con người do trời sinh ra, con người có số, có mệnh và do số và mệnh
trời quy định. Muốn tìm bản chất của con người là tìm ở đạo đức. Cịn quan
điểm duy vật trong Nho gia coi con người là sản phẩm của âm dương biến hóa,
ngũ hành sinh khắc, hoặc do khí, do “thái hư” sinh ra. Con người khác con vật là
có ý thức, có lao động và biết “hợp quần”. Các nhà hậu Nho như Mạnh tử, Tuân
tử đã phát triển đến tột đỉnh tư tưởng nhân học, tách con người khỏi động vật,
thần linh cho rằng: “con người có khí, có sinh, có tri, có nghĩa bởi vậy là vật cao
quý nhất trong thiên hạ” (Tuân tử, Vương chế)5. Giá trị cao quý của con người
đã được triết học Trung Quốc khẳng định ngay từ đầu, thể hiện một tinh thần
nhân văn sâu sắc. Tất cả các khái niệm và phạm trù ấy đều là sự cảm nhận đối
với nhân sinh, nhân tính và cả tính mệnh con người. Chính vì vậy, trong tư
tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại các loại tư tưởng liên quan tới con
người đều phát triển, cịn tư tưởng triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thực tiễn đạo đức: Con người trong triết học trung Quốc cổ trung đại được
đánh dấu bởi luân lý đạo đức, nghĩa là nhấn mạnh thuộc tính đẳng cấp xã hội

hơn là thuộc tính tự nhiên của con người. Vũ trụ quan, nhân sinh quan, nhận
thức luận của Nho gia đều thấm đượm ý thức đạo đức. Người Trung Quốc trong
lịch sử coi việc tu thân dưỡng tính cá nhân liên hệ mật thiết với việc nhận thức
thế giới khách quan, thậm chí cho rằng việc tu thân dưỡng tính cá nhân là cơ sở
để nhận thức thế giới khách quan. Bởi vậy, việc tu thân thực hành đạo đức được
coi là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, ln được đặt vào vị
trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Phải chăng đây là nguyên nhân triết học dẫn
đến sự phát triển kém về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng
của Trung Quốc cổ trung đại?
Hài hòa thống nhất: Hầu như tất cả các nhà triết học thời Tiên Tần đều biết
khảo sát một cách biện chứng về sự vận động của vũ trụ, xã hội, nhân sinh, đều
chú ý đến các mặt đối lập thống nhất của sự vật. Đồng thời, hầu hết đều nhấn
mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, chú trọng tính đồng nhất của
các mối liên hệ tương hỗ của một cặp khái niệm hoặc nhiều khái niệm, coi việc
điều hòa mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Nho gia, Đạo
gia, Phật học đều phản đối cái “thái quá” cái “bất cập”. Tính tổng hợp, tính quán
xuyến của các phạm trù thể hiện đặc điểm hài hòa thống nhất của tư tưởng triết
học cổ đại Trung Quốc là: Thiên nhân hợp nhất, tri hành hợp nhất, thể dụng như
nhất, tâm vật dung hợp, cảnh và vật hợp nhất...6
Bộ GD&ĐT, Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học, nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007, tr.35.
5

TS. Dương Quốc Quân, Phân tích triết học Mac – Lenin theo chuyên đề, Nxb Lao động –
Xã hội, 2019.
6

6



Tư duy trực giác: Nhận thức trực giác theo cách cảm nhận hay thể nghiệm
là đặc điểm nổi bật của cách tư duy của triết học Trung Quốc cổ đại. Cảm nhận
(thể nhận) là cách đặt mình vào giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và
vật ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đó
nắm vững bản thể trừu tượng. Hầu hết các triết gia Trung Quốc cổ đại đều quen
với cách tư duy trực giác - thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ: Phản tỉnh
cầu nội của Nho gia, chăm chút toạ vong của Đạo gia, đốn ngộ của Phật học, trí
lương tri của Lý học... Cách tư duy này lấy tâm làm gốc rễ của nhận thức, “lấy
tâm để bao qt vật”. Do khơng phân tích được q trình tác động của tâm,
khơng chứng minh được bằng suy lý sự giác ngộ thần bí của tâm, nên lý luận
triết học của họ rời rạc, nặng về ám thị, thiếu sự phân tích rành rọt. Do chỗ các
triết gia Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh tính chỉnh thể hợp nhất của các khái
niệm và phạm trù, khơng tìm hiểu sâu sự khác biệt bản chất giữa các khái niệm,
phạm trù, nên cách tư duy trực giác dùng quan điểm chỉnh thể để nhìn sự vật,
gặp sự vật là hiểu nội dung được coi là cách tư duy quan trọng nhất. Ngược lại,
cách tư duy đi từ phân tích nội hàm, ngoại diên của khái niệm đến suy luận logíc
trở thành thừa. Vì vậy quan niệm chung chung về đối tượng tỏ ra siêu phàm,
nhưng do thiếu sự luận chứng và phân tích cho nên các khái niệm, phạm trù
thường chỉ là trực giác, thiếu suy tính logíc dẫn đến Trung Quốc cổ đại thiếu
những phương pháp cần thiết để xây dựng một lý luận khoa học.
3. Vấn đề bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ - trung đại, những

đóng góp và hạn chế
Triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một nền triết học phong phú với tính
chất và khuynh hướng đa dạng, tập trung thành nhiều học phái với nhiều đại
biểu cùng các tư tưởng triết học xuất sắc. Xuyên suốt quá trình khám phá và giải
thích thế giới, các trào lưu triết học và các triết gia Trung Quốc cổ - trung đại đã
vạch ra và nghiên cứu hàng loạt vấn đề cơ bản của hiện thực. Có thể thấy rõ
ràng rằng, nội dung xuyên suốt trong các học thuyết triết học Trung Quốc cổ trung đại nổi bật lên đó là vấn đề bản thể luận của Trung Quốc cổ đại.
3.1.


Khái quát về bản thể luận

Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết hợp
giữa hai từ “on” (cái thực tồn) và “logos” (lời lẽ, học thuyết, quan niệm). Có thể
nói bản thể luận chính là học thuyết về tồn tại, là học thuyết, quan niệm về thực
tồn chung, hoàn toàn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của nó. Nhưng mãi đến
thế kỷ XVII, được R. Gôcleniuyt áp dụng vào năm 1613 thuật ngữ này mới
chính thức xuất hiện và đưa ra những cách hiểu đặc thù về bản thể luận7.
Bản thể luận trong triết học, />7

7


Mỗi thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử nghiên cứu về bản thế luận lại đưa ra
những cách lý giải và quan niệm khác nhau. Nhưng tóm lại, bản thể luận hiểu
một cách chung nhất là lý luận về bản thể, lý luận về nguồn gốc hay quan niệm
về thế giới; là bản căn luận, dùng để chỉ một học thuyết nghiên cứu về các
nguyên nhân cũng như căn cứ căn bản về sự hình thành, tồn tại và phát triển của
vũ trụ vạn vật. Nghiên cứu về bản thể luận là tìm hiểu sự nghiên cứu bản chất
của thế giới là gì? Thế giới được hình thành từ đâu? Và như thế nào?
Bản thể luận chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong triết học, nghiên cứu
về bản thể luận là bàn về sự tồn tại, bàn về khởi nguyên của thế giới, do đó bản
thể luận là một vấn đề cơ bản của triết học, theo Ăng – ghen, “vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy
và tồn tại”8. Nghiên cứu vấn đề bản thể luận, làm cơ sở, căn cứ để chúng ta giải
quyết những vấn đề cơ bản khác nhau của hiện thực. Những quan niệm khác
nhau về sự tồn tại của thế giới khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về
chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, của mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau
có ảnh hưởng to lớn tới đời sống hiện đại của nhân loại.

3.2.

Vấn đề bản thể luận trong các trường phái triết học Trung quốc
cổ - trung đại

Nhìn chung, các triết gia Trung Quốc cổ - trung đại đều quy bản thể luận
hay bản căn của vũ trụ vạn vật vào những thứ vơ hình, vơ tướng, khơng phải là
các sự vật hiện tượng cụ thể cảm tính. Có thể tạm phân chia ba quan niệm về
bản thể luận trong triết học Trung Quốc cổ - trung đại như sau: một là, bản căn
là vật chất khơng có hình dáng cố định (ví dụ: khí); hai là, bản căn là khái niệm
hay ngun tắc trừu tượng (ví dụ: “vơ” hay “lí”); ba là, bản căn là tinh thần chủ
quan (ví dụ: “tâm”)9. Điều này đựơc thể hiện rất rõ ràng trong học thuyết của
Lão Tử, Mạnh Tử và Học thuyết Âm dương ngũ hành.
3.2.1. Quan điểm của phái Đạo gia

Một trong những quan điểm tiêu biểu của người Trung quốc cổ đại về bản
thể luận là quan điểm về Đạo của Lão Tử. Lão Tử là nhà triết học lớn về “đạo”
của Trung Quốc cổ đại. Ông được xem là người sáng lập ra trường phái triết học
Đạo gia. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy
là Đam, còn gọi là Lão Đam. Người huyện Khổ, Hưng Lệ, làng Khúc Nhân,
nước Sở (thời Xuân Thu- Chiến Quốc). Ông làm quan sử, giữ kho sách, tàng trữ
8

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.

9

TS Ngọ Văn Nhân, Chuyên đề 2: Bản thể luận, Trường Đại học Luật Hà Nội.
8



thất sử nhà Chu, là tác giả của cuốn Đạo đức kinh gồm 81 chương, chia làm hai
thiên: thượng và hạ. Bằng lối diễn đạt đầy chất thơ, Lão Tử đã trình bày các vấn
đề: học thuyết về “đạo”, tư tưởng về phép biện chứng và học thuyết “vô vi”10.
Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất, là bản nguyên của vũ trụ, trống
không và lặng yên nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự
thống nhất của thế giới, là bản ngun sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có
danh tính, có hình thể được sinh ra.
Tính tự nhiên của “đạo” được hiểu nó vốn như thế, mộc mạc thuần phát,
không bị nhào nặn, gọt rũa bởi con người và nó hồn tồn độc lập với ý muốn,
nguyện vọng của con người. Thuộc tính thứ hai của “đạo” được Lão Tử nói đến
là tính chất lặng n và trống khơng. Ơng viết: “Hết sức trống rỗng cùng cực.
Giữ lặng dốc một lòng”. Lão Tử thường dùng từ “cốc thần” để chỉ tính chất
trống rỗng của “đạo”. “Cốc thần” chỉ khoảng cách trống khơng giữa lịng hang
sâu, khơng hình, khơng ảnh, không trái, không ngược, ở thấp không hèn không
động, giữ lặng yên không suy…”. Cái lặng yên trống rỗng của “đạo” còn được
Lão Tử diễn đạt bằng từ “vi diệu”, “huyền thơng”. Ơng dùng chữ “huyền” với
nghĩa sâu kín, mầu nhiệm, khơng danh tính, khơng hình thể, khơng thể nói ra
bằng lời để chỉ đạo biến hóa. Ơng viết: “Vô danh là đầu trời đất, hữu danh là mẹ
muôn vật…Cả hai cái đó cùng xuất phát một chỗ mà khác tên, cùng gọi là
huyền, huyền tới mức huyền nhất, đó là cái của của mọi thứ diệu kỳ- huyền chi
hựu huyền, chúng diệu chi môn”11.
Lão Tử cho rằng đạo khơng có hình trạng, “khơng nhìn thấy, khơng nghe
thấy, nắm khơng được, đón khơng thấy đầu mà nghe khơng thấy cuối, ở trên
không sáng tỏ, ở dưới không mờ tối”. Nhưng nó khơng bao giờ mất, nó tồn tại
khắp vũ trụ, sâu kín, mập mờ, thấp thống, là một khối hỗn độn thống nhất,
không phân chia sáng và tối, hữu và vơ. Vì thế khơng thể diễn tả nó bằng lời,
khơng thể gọi nó bằng tên thường, nếu gọi bằng tên thì sẽ có sự đối chọi, cân
xứng như tốt xấu, thiện ác, đầu cuối. Nên Lão Tử gọi nó là “đạo vơ danh”.
“Đạo” vơ danh nhưng nó vẫn tồn tại. Sự tồn tại của “đạo” được biểu hiện trong

mỗi sự vật, hiện tựợng đang tồn tại biến hóa vơ cùng vơ tận. Do đó, “đạo” vừa
duy nhất, vừa thiên hình vạn trạng, vừa bất biến, lại vừa biến hóa12.
Vấn đề bản thể luận, />10
11

Lão Tử, Đạo Đức Kinh.

Quan điểm của Đạo gia về Bản thể luận, />12

9


Theo Lão Tử, “đạo” là bản thể của “đức”, “đức” là cơng dụng, năng lực của
“đạo” Ơng viết: “Đạo sinh, đức chứa, làm cho vật lớn lên và nuôi dưỡng vạn vật
yên định”. Và, “đạo” vốn không tên, đến “đức” mới bắt đầu có tên, mới bắt đầu
có sự phân biệt như sáng tối, giàu nghèo, lớn nhỏ, sướng khổ… mới bắt đầu có
khái niệm như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Nên nói: “Mất đạo rồi mới có đức, mất
đức rồi nhân sinh, mất nhân rồi nghĩa sinh, mất nghĩa rồi lễ sinh ra vậy” Như
vậy, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín chỉ là cái vỏ bề ngồi của “đạo” và “đức” mà thôi.
Cho nên Lão Tử chủ trương bỏ những cái đó để quay về với “đạo” và “đức”, có
nghĩa là quay về với cội nguồn của vũ trụ vạn vật, với những tính chất tự nhiên,
tĩnh lặng, trống khơng. Khi đó con người mới có thể lĩnh ngộ được “đạo”13.
Những quan điểm này của Lão tử, nếu gạt bỏ những điểm hạn chế về thế
giới quan và lập trường duy tâm, đã phần nào tiêu biểu cho cho những quan
niệm biện chứng đầy tinh tế và bí hiểm của người phương đông. Quan điểm này
vừa thể hiện quan điểm trực quan nguyên sơ của người trung quốc cổ đại nhưng
lại hàm chứa trong đó những đốn định, cảm nhận sâu sắc về sự tồn tại và biến
hoá của vũ trụ, điều chỉ xuất hiện khi tư duy trừu tượng đạt tới trình độ cao.
Ngồi ra, ở thời Tần Hán, nền triết học có sự xuất hiện của Vương Sung
(27 - 105) là nhà triết học duy vật xuất sắc, người tiêu biểu cho trào lưu tư tưởng

đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm tôn giáo thời Hán. Về bản thể luận, ông đã
kế thừa mặt duy vật trong học thuyết triết học "Đạo đức" của Lão Tử; ông cắt bỏ
phần "Đạo" có nhiều yếu tố duy tâm thần bí và lấy phần “Đức" để nghiên cứu.
Xuất phát từ quan niệm duy vật: "Vạn vật trong thiên hạ sinh ra từ cái có", ơng
cho rằng thế giới là do một thực thể vặt chất "khí" tồn tại vĩnh viễn sinh ra; trong
khi đó "khí đặc và "khí lỗng" (hay hai khí âm và dương, lỗng bay lên cao, đặc
lắng xuống dưới), hai khí đó tương tác với nhau khơng ngừng và sản sinh ra
mn vật. Ơng cũng khẳng định rằng, con người là sản phẩm của thứ "khí tinh
tuý nhất" của đất trời; là sản phẩm của quy luật tự nhiên chứ khơng bởi một ý
chí nào chi phối. Trên lập trường duy vật kết hợp với thành tựu của y học đương
thời, Vương Sung đã tiến hành đấu tranh kiên quyết với tư tưởng hữu thần,
thuyết linh hồn bất tử của con người lúc bấy giờ. Ông cho rằng tinh thần là sản
phẩm của thể xác, phải dựa vào thể xác mới có thể phát huy được tác dụng và
khi con ngưịi chết, máu khơng lưu thơng nữa và liền sau đó là sức sống biến
mất. Sau khi sức sống mất đi, thì cơ thể tan rã và tiến thành tro bụi... Cái chết
của con người như ngọn lửa bị dập tắt... Quả quyết rằng con người sau khi chết
(vẫn cịn) có ý thức thì chẳng khác gì nói rằng ngọn lửa sau khi đã tắt vẫn còn
đem lại ánh sáng. Tiến xa hơn nữa, ơng cịn giải thích về nguyên nhân sinh ra
13

Giáo trinh Triết học Mac – Lenin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
10


quan niệm mê tín có q thần, ơng cho rằng, sự lo âu bất lực của con người
trước ốm đau bệnh tật, thể xác suy yếu, tinh thần bạc nhược là những ngun
nhân sinh ra mê tín có quỷ thần.
3.2.2. Học thuyết Âm dương – Ngũ hành

Học thuyết Âm dương - Ngũ hành lại hướng đến việc lý giải sự tồn tại của

thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong thế giới mà thành. Các
quan điểm này hướng tới việc phân tích sự tác động của các yếu tố cơ bản có
trong tự nhiên tạo thành sự vật (học thuyết ngũ hành) hay là sự liên hệ, tương tác
giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản để tạo nên vũ trụ (học thuyết âm
dương). Việc sử dụng phạm trù âm dương ngũ hành đánh dấu bước phát triển
đầu tiên của tư duy khoa học phương Đơng nhằm đưa con người thốt khỏi sự
khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống.
Chính vì thế, sự tìm hiểu học thuyết âm dương ngũ hành là một việc cần thiết để
lý giải những đặc trưng của triết học phương Đông.
Tư tưởng triết học về Âm - Dương: Ghi chép thành văn về Âm và Dương
trong sách Quốc ngữ, Chu ngữ, Chu Dịch. Dương nguyên nghĩa là ánh sáng. Âm
có nghĩa là bóng tối. Về sau, Âm - Dương được coi như hai khí; hai nguyên lý
hay hai thế lực vũ trụ, biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi nóng, ánh sáng,
khơn ngoan, rắn rỏi... tức là Dương; giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm
ướt, mềm mỏng… tức là Âm.
Theo tác phầm Kinh Dịch – một tác phẩm đại thành của triết học Trung
Quốc cổ đại, bản thể của vũ trụ là Thái cực. Thái cực chính là khởi điểm của vũ
trụ, là nguyên nhân đầu tiên, là nguyên lý tối hậu của trời đất muôn vật. Trong
khí thái cực, có sự phân hóa thành hai mặt đối lập mà có sự vận động khiến hình
thành hai khí âm và dương, gọi là lưỡng nghi. Âm dương trong lưỡng nghi
không ngừng tác động lẫn nhau tạo thành Tứ tượng là Thái Dương, Thiếu
Dương, Thái Âm, Thiếu Âm. Tự tượng lại sinh ra Bát quái là Càn, Khảm, Cấn,
Chấn, Tốn, Ly, Khơn, Đồi và cứ thế biến chuyển liên tục để tạo thành vạn vật.
Mọi sự vật đều bào hàm cả âm và dương nhưng do hai mặt không đồng đều nên
tùy theo mặt nào thắng thế mà vật đó được xếp vào loại âm hay loại dương14.
Những quy luật cơ bản của âm dương nói lên sự mâu thuẫn, thống nhất,
vận động và phát triển của một dạng vật chất, âm dương tương tác với nhau gây
nên mọi sự biến hóa của vũ trụ. Cốt lõi của sự tương tác đó là sự giao cảm âm
dương. Điều kiện của sự giao cảm đó là sự vật phải trung và "hòa" với nhau. Âm
Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Triết học, Nxb. Lý

luận chính trị, Hà Nội, 2019.
14

11


dương giao hòa cảm ứng là vĩnh viễn, âm dương là hai mặt đối lập trong mọi sự
vật, hiện tượng.
Vì vậy, quy luật âm dương cũng là quy luật phổ biến của sự vận động và
phát triển không ngừng của mọi sự vật khách quan.
Nếu như sự vận động không ngừng của vũ trụ đã hướng con người tới
những nhận thức sơ khai trong việc cắt nghĩa quá trình phát sinh của vũ trụ và
hình thành thuyết âm dương, thì ý tưởng tìm hiểu bản thể thế giới, bản thể các
hiện tượng trong vũ trụ đã giúp cho họ hình thành thuyết ngũ hành. Tư tưởng
triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về
những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những tương tác
(tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ) với nhau. Đó là năm yếu tố Kim
- Mộc - Thủy - Hoả - Thổ, trong đó Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khơ,
cay, phía Tây... Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc… Mộc tượng
trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đơng,… Hoả tượng trưng cho tính chất đỏ,
đắng phía Nam,… Cịn Thổ tượng trưng cho chất vàng, ngọt, ở giữa,… Năm yếu
tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh khắc với nhau theo hai nguyên tắc: Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hoả sinh Thổ… và tương
khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hoả; Hoả khắc Kim; Kim
khắc Mộc; và Mộc khắc Thổ…
Tư tưởng về âm dương và ngũ hành lúc đầu được người Trung Quốc xây
dựng trên lập trường duy vật để giải thích về các hiện tượng tự nhiên, về sau khi
vận dụng để giải thích vào các vấn đề xã hội, thuyết này dần mang màu sắc thần
bí, khơng chỉ ảnh hưởng đến Trung Quốc ngày nay mà còn ảnh hưởng đến các
quốc gia phương Đơng, trong đó có Việt Nam.

3.2.3. Quan điểm của phái Nho gia

Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu, người
sáng lập là Khổng Tử (551- 479 TCN). Sau khi Khổng Tử chết, Nho gia chia
làm tám phái, trong đó Mạnh Tử (327-289 TCN) và Tuân Tử (313 - 238 TCN) là
hai người nổi bật tiêu biểu kế thừa và phát triển Nho gia.
Các quan điểm về bản thể luận của Nho gia cũng khá phong phú và đa
dạng. Học thuyết về Lý - Khí của Tống Nho ở đời Tống, với các đại diện chủ
yếu là anh em Trình Hạo, Trình Di, cho rằng “Lý” hay “thiên lý” là bản thể của
thế giới vạn vật. Lý không sinh, không diệt, tồn tại khắp nơi. Lý hay thiên lý vừa
là nguyên tắc tối cao của giới tự nhiên, vừa là của đời sống xã hội. Vì Lý khơng
thể cảm nhận được nên nó là hư khơng, nhưng sự hiện hình của nó trong các sự
12


vật cụ thể làm nên sự hiện hữu của nó. Tuy nhiên, nhằm bảo vệ và thể chế hoá ý
niệm đạo đức và nguyên tắc của xã hội phong kiến đương thời, các nhà tư tưởng
giai đoạn này đã rơi vào lập trường duy tâm khi khẳng định tính có trước, tuyệt
đối, vĩnh cửu, không thể thêm bớt, không thể nhìn thấy, nghe thấy… của Lý 15.
Quan điểm này càng trở nên cực đoan khi họ vận dụng nó vào trong đời sống xã
hội để khẳng định và duy trì vị thế của giai cấp phong kiến như một cái Lý đã
định sẵn. Với tư tưởng như vậy nên quan niệm về bản thể của họ đã trở thành
chỗ dựa tinh thần của giai cấp thống trị.
Nho giáo, với nội dung chủ yếu thiên về giải quyết các vấn đề chính trị- xã
hội và con người nên đưa ra những quan niệm khác nhau khi lý giải về bản
nguyên của tồn tại. Theo Mạnh Tử cái nội tâm chủ quan bên trong là bản thể tự
tại, thuộc về tiên nghiệm, vượt ra khỏi phạm trù không gian, thời gian, vật chất,
vận động. Đạt đến đó là con người có thể thơng quan với trời đất, hố sinh ra
vạn vật. Tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý mà
trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan

hệ với Tính. Tính là cái lý hồn tồn của tâm. Đem cái tâm tính ấy mà ứng xử
với vạn vật bên ngồi là tình. Chỉ có cái tâm đó thì mới biết được tính của ta và
của vạn vật…
Theo Mạnh Tử tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có
đủ mọi lý và trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự.
Tâm có quan hệ với Tính. Tính là cái lý hồn tồn của tâm. Đem cái tâm tính ấy
mà ứng xử với vạn vật bên ngồi là tình. Cho nên tâm của ta với tâm của trời đất
là một thể. Và khi tận tâm tính con người có thể biết được trời, hiểu rõ đạo lý,
tức là con người có thể trở thành thánh thiện bởi vì tâm vốn có “lương năng” và
“lương tri”, đó là cái biết, sinh ra đã biết, do trời phú cho (ý niệm bẩm sinh) ...
Lương tri - lương năng (quan điểm của Vương Thủ Nhân 1472-1528) là cơ
sở để xây dựng luân lý đạo đức của xã hội phong kiến, nó là cái khả năng, cái
biết do tự nhiên mà có chứ khơng phải do giáo dục, học tập mà có ở con người,
là cái vĩnh viễn khơng thay đổi do vậy con người phải “phản tỉnh” để căn cứ
theo nó mà hành động, cư xử cho hợp lễ nghĩa.
Trên đây là những quan điểm duy tâm chủ quan về bản nguyên thế giới mà
ở đó con người đóng vai trị quyết định hay là có sự hợp nhất với trời. Các nhà
tư tưởng Trung Quốc thời cổ - trung đại với những tư tưởng triết học phong phú
và đa dạng đã đưa ra những quan điểm khác nhau về bản thể luận, thể hiện cuộc
đấu tranh của các quan điểm duy vật và duy tâm trong thời kỳ này. Tuy nhiên,
15 />
gop-va-han-che-cua-hoc-thuyet-nay.htm.
13


tựu chung lại, các tư tưởng của họ, thông qua cách giải thích và lý giải về sự tồn
tại của hiện thực, dù cách này hay cách khác đều hướng vào việc bảo vệ và duy
trì trật tự xã hội phong kiến hiện hành.
Những đóng góp và hạn chế của triết học Trung Quốc cổ - trung
đại về bản thể luận

3.3.1. Đóng góp

3.3.

Nền triết học Trung Quốc cổ - trung đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm
hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống
thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy
tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng
những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã
hội theo mơ hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những
giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, triết học Trung Quốc –
đại diện tiêu biểu cho tiết học phương Đông cống hiến cho lịch sử triết học thế
giới những tư tưởng sâu sắc về vấn đề bản thể luận, về sự biến dịch của vũ trụ.
Triết học Trung Hoa nói riêng và triết học phương Đơng nói chung ít bàn đến
vấn đề về giới tự nhiên, nhưng khi kiến giải những vấn đề xã hội lồi người, ít
nhiều họ có đề cập đến vấn đề khởi nguyên của thế giới, vấn đề cơ bản của triết
học.
Về học thuyết Âm dương – Ngũ hành, những tư tưởng về Âm dương - Ngũ
hành tuy cịn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc
mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung quốc cổ đại, có ảnh
hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Quốc và một số nước
khác trong khu vực.
Về trường phái Đạo gia của Lão Tử, Lão Tử cho rằng, khởi nguyên của thế
giới là "Đạo". Đạo" là một tên gọi khiên cưỡng, vì theo ơng "Đạo" là cái lớn
nhất, cái mông lung mờ ảo. Nhưng "Đạo" cũng là cái có trước vạn vật, cái mà
mọi vật được sinh ra và được nhập vào sau khi bị huỷ diệt. "Đạo" cũng là cái mà
mọi vật và cả con người phải tuân theo. Ông cho rằng: "Người theo quy luật của
đất, đất theo quy luật của trời, trời theo quy luật của đạo..." và "đạo theo quy luật

của tự nhiên". Với Lão Tử, "Đạo" có tính duy vật, song trong đó, có chứa đựng
mầm mống duy tâm. Bàn luận của Lão Tử về Đạo thể hiện ra một bức tranh đẹp
đẽ về tư duy biện chứng của Trung Quốc thời cổ đại, trong đó tràn đầy trí tuệ và
sức thấu triệt, sinh ra ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển văn hóa tư tưởng
dân tộc Trung Quốc sau này. Do vậy, sau này, một số nhà triết học thế hệ sau kế
14


tục ông đã khai thác yếu tố duy tâm này và biến "Đạo" thành cái có tính chất
như một tinh thần tuyệt đối, cái mà con người không thể nhận thức được.
Về quan điểm của trường phái Nho gia, đối với Khổng Tử, tuy ông không
trực tiếp bàn đến vấn đề bản thể luận, vấn đề tự nhiên, nhưng ông lại có quan
niệm về "Trời", "mệnh trời". Sau này, một số người kế tục ơng biến các quan
niệm đó thành những thực thể thần thánh, với họ "Trời" là vị thần có nhân cách,
có quyền thưởng phạt..., và là kẻ sáng tạo ra thế giới.
Tóm lại, những tư tưởng về vấn đề bản thể luận trong triết học Trung Quốc
cổ - trung đại đã phần nào tái hiện về giai đoạn lịch sử triết học phát triển rực rỡ
của Trung Quốc, đem lại góc nhìn đa chiều về thế giới, vạn vật, qua đó làm cơ
sở tiền đề cho sự phát triển của nền triết học Trung Quốc nói riêng và triết học
phương Đông sau này, nhằm hướng đến sự phát triển bền vững cho xã hội loài
người trong tương lai.
3.3.2. Hạn chế

Bên cạnh những đóng góp tích cực của các tư tưởng triết học về bản thể
luận cổ - trung đại, do quan điểm cũng như đường lối nghiên cứu của mỗi nhà
triết gia khác nhau qua mỗi thời kỳ nên những tư tưởng của họ cũng không tránh
khỏi những mặt hạn chế.
Đối với Đạo gia, tư tưởng Đạo gia dẫn chúng ta đi theo chủ nghĩa duy tâm
thần bí về Đạo, đề cao tư duy trừu tượng, khơng chú ý đến nghiên cứu sự vật cụ
thể. Mặc dù, tư tưởng biện chứng đó đã vẽ lên một bức tranh mn hình vạn

trạng, phong phú về vạn vật vũ trụ với các mối liên hệ phổ biến và sự vận hành
thống nhất của Đạo, nhưng về cơ bản nó vẫn cịn chất phác, ngây thơ, trực quan
cảm tính. Nó chưa phải là cơ sở để vạch ra cái bản chất, tính tất yếu bên trong sự
vật hiên tượng, vạn vật trong quan điểm này chỉ vận động lặp đi lặp lại một cách
buồn tẻ mà khơng có sự phát triển ra đời của những cái mới. Đạo gia lại đưa ra
chủ trương con người không nên tăng cường hoạt động sáng tạo, mà phải giữ cái
cốt lõi nguyên thủy, phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người, điều này
sẽ khiến cho xã hội sẽ trì trệ, chậm phát triển so với đúng tiềm năng vốn có của
mình.
Về học thuyết Âm dương – Ngũ hành, có thể thấy từ thuở ban đầu với bản
chất nghiên cứu về tự nhiên thiên nhiên để giải thích về bản thể luận, về sự hình
thành của vũ trụ vạn vật, mang bản chất nghiên cứu về các sự vật cụ thể như:
cây cối, lửa, nước, đất,… nhưng càng về sau này, học thuyết đã không giữ được
cái nguyên bản ban đầu mà dần dần chuyển sang chủ nghĩa duy tâm mang nặng
sự huyền bí do chịu tác động của sự phát triển của nhu cầu xã hội, con người.
15


Đối với học thuyết Nho gia, trong quan điểm của Khổng Tử có những quan
điểm duy vật nhưng cũng có những quan điểm duy tâm. Khi bàn về Trời, có lúc
thừa nhận Trời là quy luật tự nhiên, là khách quan (quan điểm duy vật), nhưng
có lúc lại thừa nhận có mệnh Trời và Trời chi phối con người nên con người phải
theo mệnh Trời (quan điểm duy tâm). Khổng Tử rất tin ở trời, với ông trời như
một quan tịa cơng minh cầm cân, nảy mực phán xét mọi sự vật. Trời quyết định
sự thành, bại trong cuộc sống của con người. Khổng Tử đặt hết niềm tin và ý chí
vào trời. Ơng khun mọi người phục tùng ý chí đó và coi việc hiểu biết mệnh
trời như một điều kiện để trở thành một con người hoàn thiện “không hiểu mệnh
trời không phải là quân tử”. Quan điểm của Khổng Tử về trời đất như vậy tất
yếu dẫn đến thuyết “sống chết có mạng, giàu sang tại trời”. Sở dĩ quyền lực và
sức mạnh của trời là sự thần thánh hóa quyền lực và sức mạnh của thế lực cầm

quyền trên mặt đất. Với quan điểm triết học cơ bản là duy tâm, muốn ru ngủ
quần chúng bằng niềm tin vào mệnh trời và số phận, Khổng Tử đã thể hiện rõ
thái độ của mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô khi chế độ chiếm hữu nơ lệ
đã bước vào thời kì suy tàn và khởi nghĩa vũ trang của nhân dân đang nổ ra khắp
nơi.
Những hạn chế trong quan điểm về thế giới của ông còn thể hiện ngay cả
trong những quan điểm duy vật. Những quan điểm mà ông đã rút ra chỉ là từ
những suy luận của chính mình, chỉ là sự hình dung trong đầu óc mà khơng đưa
ra bất cứ cơ sở khoa học nào để chứng minh. Như nhà triết học phương Tây
Franxi Beecon ví đó như phương pháp “con nhện”. Đó là “chỉ biết ngồi rút ra sự
thơng thái của mình từ chính bản thân mình, muốn thay thế việc nghiên cứu giới
tự nhiên và những quy luật của nó bằng những luận điểm trừu tượng, bằng việc
rút ra những kết quả bằng những kết luận chung, khơng tính đến sự tồn tại thực
tế của chúng.

16


KẾT LUẬN
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên
niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng
thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Nguyên nhân là do xã hội
Trung Hoa thời bấy giờ là đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, hình
thành các quan hệ xã hội phong kiến hết sức phức tạp. Chính trong q trình ấy
đã sản sinh ra các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá
hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy con người và xã hội làm
trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết các những vấn đề
thự tiễn chính trị - đạo đức của xã hội, trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư
tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc
như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Thuyểt Âm Dương – Ngũ hành.

Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nơi của văn minh
nhân loại. Đó là những hệ thống tư tưởng quan trọng trong kho tàng kinh điển
của triết học Trung Quốc cổ đại. Những quan niệm bản thể luận của triết học
Trung Quốc cổ đại như một sự giảng giải đầy thuyết phục về cái bản nguyên đầu
tiên của vạn vật được nhận thức ra khi có tâm thanh tịnh và cách thức có thể trở
về bản thể. Mặc dù cịn có những hạn chế nhất định, nhưng những quan niệm về
bản thể luận của triết học Trung Quốc cổ đại đã có những đóng góp quan trọng
trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại trên con đường kiếm tìm những tri
thức chân lý đúng đắn để phục vụ cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn của con
người cả trên phương diện vật chất và đời sống tâm linh.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hố, với những vấn đề xã
hội ngày càng phức tạp trong sự hưng thịnh của Trung Quốc và một số quốc gia
khác càng cần những nghiên cứu nhiều hơn, sâu sắc hơn, khách quan hơn về
những giá trị và hạn chế của các hệ tư tưởng triết học để có thể khai thác khía
cạnh tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các quốc gia nói chung
và Trung Quốc nói riêng, góp phần cho sự ổn định và phát triển của đời sống xã
hội. Đó cũng chính là con đường để nhân loại tìm ra chính mình trong sự tồn tại
hiện hữu một cách tích cực nhất.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, TS. Ngọ Văn Nhân: Bài giảng Chuyên đề 2 Bản Thể Luận, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
2, Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Triết
học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2019.
3, Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội, 2018.
4, Bộ GD&ĐT, Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học, nghiên cứu

sinh không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội,
2007.
5, Giáo trinh Triết học Mac – Lenin, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
6, />7, />8, />
18



×