Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Ứng dụng gis để xây dựng bản đồ đơn vị đất đai theo phương pháp đánh giá đất đai của fao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.35 MB, 85 trang )

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất là tài sản quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao
động đồng thời cũng là sản phẩm lao động. Đất còn là vật mang của các hệ
sinh thái tự nhiên và các hệ sinh thái canh tác, đất là mặt bằng để phát triển
nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, nhu cầu tăng trưởng kinh tế và sức ép về dân
số ngày càng gây áp lực mạnh mÏ ®èi víi vÊn ®Ị sư dơng q ®Êt qc gia.
Tiềm năng đất đai là có hạn, do vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng
đất, bảo vệ đất và môi trường cho sản xuất lâu dài đÃ, đang và sẽ cần được
đặc biệt coi trọng. Sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả và bền vững là vấn đề hết
sức quan trọng cho đời sống nhân loại không những đối với hiện tại mà còn
cả trong tương lai. Để làm được việc này, cần thiết phải tiến hành điều tra,
đánh giá tài nguyên đất đai một cách toàn diện; trên cơ sở đó, đề xuất được
hướng sử dụng hợp lý, có hiệu quả. Trong đánh giá đất đai, việc xây dựng
các đơn vị đất đai (Land unit) và bản đồ đơn vị đất đai lại là bước đầu tiên vô
cùng quan trọng, tạo cơ sở cho toàn bộ quá trình như: đánh giá mức độ thích
nghi, phân bố và quy hoạch sử dụng đất.
Nhiều năm qua, hầu hết các tỉnh và nhiều huyện trong cả nước đà xây
dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất đai ngắn, trung và dài hạn phục vụ chiến
lược phát triển kinh tế của mình. Những quy hoạch đó đà góp phần thay đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi, phục vụ đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, góp
phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp (NN) của nước ta. Tuy nhiên, do còn
nhiều hạn chế, còn nặng về thổ nhưỡng (soil) mà ít hoặc chưa quan tâm đến
đất đai (land), sử dụng đất đai (land use) và đánh giá đất đai (land
evaluation) và các yếu tố kinh tế - xà hội khác, nên những quy hoạch đó
chưa có độ chính xác cao và phương pháp xây dựng nhiều khi cũng chưa
nhất thống.


2


Trong quản lý tài nguyên, Việt Nam (VN) cũng như nhiều nước trên
Thế giới đà ứng dụng công nghệ thông tin như là một công cụ lưu trữ, quản
lý, phân tích và hỗ trợ giải pháp có hiệu quả cao. Hệ thống thông tin địa lý
(Geographic Information System - GIS) là một công nghệ máy tính tổng hợp
tuy mới chỉ ra đời vào thập niên 70 nhưng cho tới nay nó đà được ứng dụng
rộng khắp trên toàn Thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong những
năm gần đây, GIS đà được nhiều cơ quan, tổ chức ứng dụng trong nghiên cứu
nông nghiệp và đặc biệt là trong đánh giá đất đai. Công nghệ GIS ra đời là
một bước đột phá phát triển công nghệ thông tin, cùng một lúc chúng có thể
cập nhật nhiều thông tin khác nhau và đưa ra nhiều phương án khác nhau mà
làm bằng thủ công không có được.
Chính vì vậy, việc tiến hành đề tài "ứng dụng GIS để xây dựng bản đồ
đơn vị đất đai theo phương pháp đánh giá đất đai của FAO'' đà được lựa chọn
để thực hiện.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, xác định các chỉ tiêu phân cấp để xây dựng bản đồ đơn vị
đất đai (ĐVĐĐ) theo phương pháp đánh giá đất đai (ĐGĐĐ) của FAO(Foot
and Agricultrure Organizaion- Tổ chức nông nghiệp và lương thực Liên hợp
quốc)
- ứng dụng kỹ thật GIS trong phân tích và chồng ghép xây dựng bản đồ
đơn tính và bản đồ đơn vị đất đai .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Từ ý nghĩa thực tiễn của đề tài tôi đà tiến hành xây dựng bản đồ đơn vị
đất đai cho huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang theo phương pháp đánh giá đất
đai của FAO. Đề tài được thực hiện giới hạn trên các loại đất đang sản xuất
nông nghiệp và các loại đất có tiềm năng khai thác, mở rộng phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp.


3

4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu, xác định các chỉ tiêu phân cấp để xây dựng bản đồ đơn vị
đất đai (ĐVĐĐ) cho huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang theo phương pháp
đánh giá đất đai (ĐGĐĐ) của FAO(Foot and Agricultrure Organizaion- Tổ
chức nông nghiệp và lương thực Liên hợp quốc)
5. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra, tổng hợp các điều kiện sinh thái và đặc điểm, tính chất đất
có liên quan tới việc xác định các đơn vị bản đồ đất đai.
- Xác định và phân cấp các chỉ tiêu xây dựng bản đồ ĐVĐĐ.
- Xây dựng các bản ®å ®¬n tÝnh b»ng GIS.
- Sư dơng kü tht GIS chồng ghép, xây dựng bản đồ ĐVĐĐ tỷ lệ
1:25.000 theo chỉ dẫn của FAO.
- Thống kê, mô tả các ĐVĐĐ theo các nhóm yếu tố.
6. ý nghĩa của đề tài
6.1. ý nghĩa khoa học của đề tài
- Xác định các chỉ tiêu phân cấp để xây dựng bản đồ ĐVĐĐ cho một
huyện miền núi huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang theo phương pháp đánh giá
đất đai của FAO.
- Xây dựng bản đồ ĐVĐĐ, góp phần làm cơ sở khoa học cho đánh giá
chất lượng đất nông nghiệp của huyện.
6.2. ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Làm tài liệu tham khảo cho các nhà lÃnh đạo, nhà quản lý chỉ đạo và
điều hành sản xuất ở huyện Bắc Quang.
- Tăng thu nhập, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ nông dân
trong huyện, góp phần tăng trưởng chung nền kinh tế, đồng thời cải tạo, bảo
vệ, nâng cao độ phì nhiêu đất.


4
Chương 1

cơ sở khoa học của QUá TRìNH XÂY DựNG BảN Đồ
ĐƠN Vị ĐấT ĐAI
1.1. Tổng quan về đánh giá đất đai
Dân số ngày càng tăng đà gây sức ép mạnh trong việc sử dụng nguồn tài
nguyên đất đai rất quý hiếm của nhân loại. Một mặt, đất đai phải dành cho sản
xuất NN, đủ bảo đảm nhu cầu lương thực và thực phẩm nuôi sống con người.
Mặt khác, khi dân số tăng, nhu cầu về đất ở và các hạ tầng cơ sở phục vụ sinh
hoạt cũng phải tăng theo nên làm giảm diện tích đất canh tác. Để thỏa mÃn
nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm, sản xuất NN phải đi theo
hai hướng: Thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng hoặc mở rộng diện
tích đất nông nghiệp. Dù đi theo hướng nào, việc điều tra, nghiên cứu đất đai
để nắm vững quỹ đất cả về số lượng lẫn chất lượng là hết sức cần thiết đối với
tất cả các nước trên Thế giới, cũng như đối với nước ta.
Để đáp ứng lâu dài những yêu cầu về lương thực, thực phẩm đang tăng
không ngừng theo tốc độ gia tăng dân số, các quốc gia ngày càng quan tâm
đến việc tìm kiếm những giải pháp sử dụng hợp lý, có hiệu quả và bền vững
tài nguyên đất đai. Bên cạnh việc đánh giá ở những phạm vi rộng lớn (như
cấp quốc gia, vùng sinh thái) nhằm hoạch định các giải pháp chiến lược cho
việc sử dụng đất ở phạm vi vĩ mô, những nghiên cứu đánh giá đất chi tiết
nhằm phục vụ cho việc định hướng sản xuất NN bền vững ở từng tiểu vùng
sản xuất cụ thể đang là vấn đề cần thiết phải giải quyết, nhất là những vùng
sản xuất NN có tính đặc thù.
1.1.1. Các nghiên cứu về đánh giá đất đai trên Thế giới
Từ những thập niên 50 của thế kỷ XX, việc đánh giá khả năng sử dụng
đất được xem như là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc
điểm đất. Xuất phát từ những nỗ lực riêng lẻ của từng quốc gia, về sau phương
pháp ĐGĐĐ được nhiều nhà khoa học hàng đầu trên Thế giới và các tổ chức


5

quốc tế quan tâm, do vậy trở thành một trong những chuyên ngành nghiên cứu
quan trọng và đặc biệt gần gũi với những nhà quy hoạch, người hoạch định
chính sách đất đai và người sử dụng (Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông
nghiệp, 1995) [15].
Mấy chục năm gần đây ĐGĐĐ đà được nhiều nhà khoa học của nhiều
nước trên Thế giới quan tâm, tập trung nghiên cứu nhằm tìm ra những cơ sở
khoa học cho công tác ĐGĐĐ. Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của
công tác ĐGĐĐ trong việc quản lý, sử dụng, cải tạo và bảo vệ được nguồn tài
nguyên đất, từ những năm 70 của thế XX, nhiều nhà khoa học của nhiều nước
trên Thế giới đà tập trung nghiên cứu nhằm xây dựng một phương pháp
ĐGĐĐ chung, có tính khoa học cao, đồng thời khắc phục được tình trạng
chưa thống nhất trên Thế giới về công tác ĐGĐĐ. Năm 1972 đề cương ĐGĐĐ
đà được phác thảo và được công bố vào năm 1973. Sau đó, năm 1975 tại Hội
nghị ở Rome đề cương ĐGĐĐ năm 1973 đà được các chuyên gia hàng đầu về
ĐGĐĐ bổ sung, biên soạn lại và hình thành nội dung phương pháp ĐGĐĐ
đầu tiên của FAO được công bố năm 1976 và sau đó liên tục được bổ sung,
chỉnh sửa và từng bước hoàn thiện.
Đánh giá đất đai cần các nguồn thông tin: Đất (cùng với khí hậu, nước,
thảm thực vật tự nhiên,...), tình hình sử dụng đất và các thông tin vỊ ®iỊu kiƯn
kinh tÕ - x· héi. Tïy theo mục đích và điều kiện cụ thể, mỗi nước đà đề ra nội
dung phương pháp ĐGĐĐ cho từng mức độ chi tiết trên từng tỷ lệ bản đồ của
mình. ĐÃ có rất nhiều các phương pháp ĐGĐĐ khác nhau, nhưng nhìn chung
có hai khuynh hướng: ĐGĐĐ về mặt tự nhiên và ĐGĐĐ về mặt kinh tế.
- Đánh giá đất đai về mặt tự nhiên nhằm xác định tiềm năng và mức độ
thích hợp của đất đai với các mục đích sử dụng đất cụ thể.
- Đánh giá đất đai về mặt kinh tế là đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế trên
một loại hình sử dụng đất đai nhất định, trên cơ sở tính toán các chỉ tiêu kinh
tế nhằm so sánh về mặt giá trị trong các kiểu sử dụng đất ở cùng một loại để
tìm ra kiểu sử dụng đất có hiệu quả nhất.



6
Đánh giá đất đai đưa ra nhiều phương pháp khác nhau để giải thích hoặc
dự đoán việc sử dụng tiềm năng đất đai.
Tùy theo mục đích và điều kiện cụ thể, mỗi nước đà đề ra nội dung
phương pháp ĐGĐĐ cho từng mức độ chi tiết trên từng tỷ lệ bản đồ của mình.
Theo tổng kết của Đào Châu Thu, hiện nay có 3 phương pháp ĐGĐĐ chính:
- Đánh giá đất đai theo định tính, chủ yếu dựa vào sự mô tả và xét đoán.
- Đánh giá đất đai theo phương pháp thông số.
- Đánh giá đất đai theo định lượng dựa trên mô hình mô phỏng định
hướng (Dẫn theo Bùi Tân Yên, 2001) [21].
Tới nay công tác ĐGĐĐ trên Thế giới đà đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong công tác nghiên cứu khoa học cũng như áp dụng ngoài thực tế sản xuất
nông, lâm nghiệp. Dưới đây là sơ lược tình hình ĐGĐĐ của một số nước trên
Thế giới.
* Tình hình đánh giá đất đai ở Liên Xô (cũ)
ĐGĐĐ ở đây đà xuất hiện từ trước thế kỷ thứ XIX. Tuy nhiên, đến những
năm 60 của thế kỷ XX, việc phân hạng và ĐGĐĐ mới được quan tâm và tiến
hành trên cả nước Liên Xô (cũ) theo quan ®iĨm ®¸nh gi¸ ®Êt cđa Dokuchaev
(1846 - 1903) bao gåm 3 bước:
- Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng (So sánh các loại thổ nhưỡng theo tính
chất tự nhiên).
- Đánh giá khả năng sản xuất của đất (Yếu tố được xem xét kết hợp với
yếu tố khí hậu, độ ẩm, địa hình).
- Đánh giá kinh tế đất (Chủ yếu là đánh giá khả năng sản xuất hiện
tại của đất).
Phương pháp này quan tâm nhiều đến khía cạnh tự nhiên của đất đai,
chưa xem xét kỹ các khía cạnh kinh tế - xà hội của việc sử dụng đất.
* Tình hình đánh giá đất đai ở Hoa Kỳ
ở Hoa Kỳ, ngay từ đầu thế kỷ XX đà chú ý tới công tác phân hạng

đất đai nhằm mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất. Bộ Nông nghiệp


7
Hoa Kỳ đà xây dựng được một phương pháp đánh giá phân hạng đất đai có
tên là Đánh giá tiềm năng đất đai. Phương pháp được áp dụng phổ biến
ở Hoa Kỳ và sau đó được vận dụng ở nhiều nước. Đánh giá tiềm năng đất
đai dựa trên các yếu tố hạn chế khá phổ biến như: Độ dốc, độ dày tầng
đất, thành phần cơ giới, xói mòn, tính thấm, khí hậu và các yếu tố khác để
phân chia đất đai thành các cấp, cấp phụ và đơn vị.
Sau này đánh giá đất đai được ứng dụng rộng rÃi theo 2 phương pháp:
- Phương pháp tổng hợp: Lấy năng suất cây trồng nhiều năm làm tiêu
chuẩn và phân hạng đất ®ai cho tõng c©y trång cơ thĨ, trong ®ã chän cây
lúa mì làm đối tượng chính.
- Phương pháp yếu tố: Bằng cách thống kê các yếu tố tự nhiên, kinh
tế để so sánh, lấy lợi nhuận tối đa là 100 điểm hoặc 100% để làm mốc so
sánh các đất khác nhau.
Trong lÃnh thổ Hoa Kỳ, đất được chia làm 8 cấp, trong đó 4 cấp có
khả năng sản xuất NN (từ mức thích hợp cao đến thấp), 2 cấp có khả năng
sản xuất lâm nghiệp, 2 cấp còn lại không có khả năng sử dụng. Mỗi cấp
được phân ra các cấp phụ qua việc xác định từng yếu tố hạn chế như: Mức
độ xói mòn, khả năng cung cấp nước, độ dày tầng đất cho rễ phát triển,...
Cách phân chia này phù hợp với việc phân chia các loại sử dụng đất
khác nhau trong toàn quốc hoặc từng vùng đất NN (ruộng, cây màu, cây
công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi,...) hay cho lâm nghiệp (bảo tồn rừng,
trồng rừng,...).
* Tình hình đánh giá đất đai ở Canada
ở Canada, ĐGĐĐ được thực hiện dựa vào các tính chất của đất và năng
suất ngũ cốc nhiều năm. Trong nhóm ngũ cốc, lấy cây lúa mì làm tiêu chuẩn
và khi có nhiều loại cây thì dùng hệ số quy đổi ra lúa mì. Trong đánh giá đất

đai các chỉ tiêu thường được chú ý là: thành phần cơ giới, cấu trúc đất, mức độ
xâm nhập mặn trong đất, xói mòn, đá lẫn. Chất lượng đất đai được đánh giá
bằng thang điểm 100 theo tiêu chn trång lóa m×.


8
Trên cơ sở đó đất được chia thành 7 cấp, trong đó Cấp I thuận lợi nhất
cho sử dụng (ít hoặc hầu như không có yếu tố hạn chế) cho tới Cấp VII gồm
những loại đất không thể sản xuất nông nghiệp được.
* Tình hình đánh giá đất đai ở Anh
ở Anh có hai phương pháp ĐGĐĐ đó là dựa vào sức sản xuất tiềm tàng

của đất hoặc dựa vào sức sản xuất thực tế của đất.
- Phương pháp ĐGĐĐ dựa vào thống kê sức sản xuất thực tế của đất: Cơ
sở của phương pháp này là dựa vào năng suất bình quân nhiều năm so với
năng suất thực tế trên đất lấy làm chuẩn.
- Phương pháp ĐGĐĐ dựa vào thống kê sức sản xuất tiềm tàng của đất:
Phương pháp này chia làm các hạng, mô tả mỗi hạng trong quan hệ bị ảnh
hưởng bởi những yếu tố hạn chế của đất đối với việc sử dụng trong sản xuất
NN (Dẫn theo Bùi Tân Yên, 2001) [21].
* Tình hình đánh giá đất đai ở Bungari
ở Bungari, việc phân hạng dựa trên cơ sở các yếu tố đất đai được chọn để
đánh giá là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến độ phì nhiêu và sự sinh
trưởng và phát triển của từng loại cây trồng, như: thành phần cơ giới; mức độ
mùn; độ dầy tầng đất; các tính chất lý, hóa học của đất,... Qua đó hệ thống lại
thành các nhóm và chia thành các hạng đất, được phân chia rất chi tiết tới 10
hạng (với mức chênh lệch 10 điểm) thuộc 5 nhóm: rất tốt; tốt; trung bình; xấu
và không sử dụng được (Bùi Tân Yên, 2001) [21].
* Tình hình đánh giá đất đai ở ấn Độ và các vùng nhiệt đới ẩm Châu Phi
Thường áp dụng phương pháp tham biến, có tính đến sự phụ thuộc

của một số tính chất đất đối với sức sản xuất. Các nhà khoa học đất đi sâu
nghiên cứu, phân tích về các đặc trưng thổ nhưỡng có ảnh hưởng đến sản
xuất như: sự phát triển của phẫu diện đất (sự phân tầng, cấu trúc đất,
CEC,...), mầu sắc đất, độ chua, độ no bazơ (%), hàm lượng mùn. Kết quả


9
phân hạng cũng được thể hiện dưới dạng phân trăm hoặc điểm (Đào Châu
Thu, Nguyễn Khang, 1998) [16]. Các yếu tố dùng trong ĐGĐĐ ở ấn Độ
được phân thành nhiều cấp và tính phần trăm. Các yếu tố dùng trong ĐGĐĐ
ở vùng nhiệt đới ẩm Châu Phi được các nhà khoa học Bỉ nghiên cứu, đề
xuất và thể hiện bằng phương trình toán học, từ đó sẽ tính toán được sức
sản xuất của đất.
Như vậy, các nước trên Thế giới đều đà nghiên cứu về đánh giá và
phân hạng đất đai ở mức khái quát chung cho cả nước và ở mức chi tiết
cho các vùng cụ thể. Hạng đất phân ra đều thể hiện tính thực tế theo điều
kiện từng nước.
* Tình hình đánh giá đất đai của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực
của Liên Hiệp Quốc (FAO)
Qua quá trình nghiên cứu, các chuyên gia về đất đà nhận thấy cần có
những cuộc thảo luận quốc tế nhằm đạt được sự thống nhất và tiêu chuẩn
hóa các phương pháp. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của đánh giá đất
đai, phân hạng đất đai làm cơ sở cho công tác quy hoạch sử dụng đất đai,
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên Hiệp Quốc (FAO) đà tổng
hợp các kết quả và tổng hợp kinh nghiệm của nhiều nước, đề ra phương
pháp đánh giá đất đai dựa trên cơ sở Phân loại Đất đai Thích hợp (Land
Suitability Classification). Cơ sở của phương pháp này là so sánh giữa yêu
cầu sử dụng đất với chất lượng đất, gắn với phân tích các khía cạnh về
kinh tế - xà hội, môi trường để lựa chọn phương án sử dụng đất tối ưu. Đó
chính là đề cương đánh giá đất đai được công bố năm 1976.

Tài liệu này được cả Thế giới quan tâm thử nghiệm, vận dụng và đà được
chấp nhận và công nhận là phương tiện tốt nhất để đánh giá tiềm năng đất đai.
Tiếp theo đó, FAO đà xuất bản hàng loạt các tài liệu hướng dẫn về đánh giá
đất đai trên từng đối tượng cụ thể:
- §G§§ cho n«ng nghiƯp nhê n­íc trêi (1983).


10
- ĐGĐĐ cho các vùng (1984).
- ĐGĐĐ cho vùng nông nghiệp được tưới (1985).
- ĐGĐĐ cho đồng cỏ (1989).
- ĐGĐĐ cho mục tiêu phát triển (1990).
- ĐGĐĐ và phân tích hệ thống canh tác cho việc quy hoạch sử dụng đất
(1992).
Theo hướng dẫn của FAO, việc ĐGĐĐ cho các vùng sinh thái và các
vùng lÃnh thổ khác nhau là nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, ổn định, bền
vững và hợp lý. Như vậy, ĐGĐĐ phải được xem xét trên phạm vi rất rộng,
bao gồm cả không gian, thời gian, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xà hội.
Đặc điểm ĐGĐĐ của FAO là những tính chất đất đai có thể đo lường hoặc
ước lượng, định lượng được. Cần thiết có sự lựa chọn chỉ tiêu ĐGĐĐ thích
hợp, có vai trò tác động trực tiếp và có ý nghĩa tới đất đai của vùng/khu vực
nghiên cứu. Khi tiến hành ĐGĐĐ cụ thể cho từng đối tượng sản xuất NN,
lâm nghiệp thì tùy thuộc vào yêu cầu, điều kiện của vùng, khu vực nghiên
cứu để lựa chọn mức độ đánh giá đất đai ở các mức sơ lược, bán chi tiết và
chi tiết.
1.1.2. Phương pháp đánh giá đất theo FAO
Theo FAO (1976) [24], đánh giá đất đai (Land Evaluation) là quá trình
so sánh, đối chiếu những tính chất vốn có của vạt, khoanh đất cần đánh giá với
những tính chất đất đai mà loại yêu cầu sử dụng đất cần phải có. Khi tiến hành
ĐGĐĐ cụ thể cho các đối tượng sản xuất nông, lâm nghiệp, thì tùy thuộc vào

yêu cầu, điều kiện của vùng, khu vực nghiên cứu để lựa chọn mức độ đánh giá
đất ở các mức: sơ lược, bán chi tiết hoặc chi tiết.
1.1.2.1. Mục đích của đánh giá đất đai theo FAO
Đánh giá đất đai nhằm tăng cường nhận thức và hiểu biết phương pháp
đánh giá đất đai trong khuôn khổ quy hoạch sử dụng đất trên quan điểm tăng
cường lương thực cho một số nước trên Thế giới và giữ gìn nguồn tài nguyên


11
đất không bị thoái hóa, sử dụng đất được lâu bền (Đào Châu Thu, Nguyễn
Khang, 1998) [16].
1.1.2.2. Yêu cầu đạt được trong đánh giá đất đai theo FAO
+ Thu thập được những thông tin phù hợp về điều kiện tự nhiªn, kinh tÕ x· héi cđa khu vùc nghiªn cøu.
+ Đánh giá được sự thích hợp của vùng đất đó với các mục tiêu sử dụng
khác nhau theo mục tiêu và nhu cầu của con người.
+ Phải xác định được mức độ chi tiết đánh giá đất theo quy mô và phạm
vi quy hoạch là toàn quốc, tỉnh, huyện hay cơ sở sản xuất.
+ Mức độ thực hiện đánh giá đất đai phụ thuộc vào tỷ lệ bản đồ.
(Đào Châu Thu, Nguyễn Khang, 1998) [16].
1.1.2.3. Nguyên tắc đánh giá đất ®ai theo FAO
+ Møc ®é thÝch hỵp cđa ®Êt ®ai được đánh giá và phân hạng cho các loại
sử dụng đất cụ thể.
+ Việc đánh giá khả năng thích nghi đất đai yêu cầu có sự so sánh giữa
lợi nhuận với đầu tư cần thiết trên các loại đất khác.
+ Yêu cầu có một quan điểm tổng hợp, có sự phối hợp và tham gia đầy
đủ của các nhà nông häc, l©m nghiƯp, kinh tÕ - x· héi häc.
+ ViƯc ĐGĐĐ phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xà hội của vùng.
+ Khả năng thích nghi đưa vào sử dụng phải dựa trên cơ sở sử dụng đất
bền vững.
+ ĐGĐĐ có liên quan tới so sánh các loại hình sử dụng.

(Hội Khoa học Đất, 1999) [7].
FAO dùng 4 cấp phân vị trong ĐGĐĐ, gồm: Bộ (Order), Lớp (Class),
Lớp phụ (Subclass) và Đơn vị (Unit) thể hiện trong bảng cấu trúc (Sơ đồ 1.1).
* Bộ thích nghi - gåm 3 líp thÝch nghi
S1- ThÝch nghi cao (Highly Suitable): Đặc tính đất đai không thể hiện
những yếu tố hạn chế hoặc chỉ thể hiện ở mức độ nhẹ, rất dễ khắc phục và


12
không ảnh hưởng đến năng suất của các loại sử dụng đất. Sản xuất trên các
hạng đất này dễ dàng, thuận lợi và cho năng suất cao.
S2- Thích nghi trung bình (Moderately Suitable): Đặc tính đất đai có thể
hiện một số yếu tố hạn chế ở mức độ trung bình có thể khắc phục được bằng
các biện pháp KHKT hoặc tăng mức đầu tư. Sản xuất trên các hạng đất này khó
khăn hơn hoặc đầu tư tốn kém hơn S1 nhưng vẫn có thể cho năng suất khá.
S3- ít thích nghi (Marginally Suitable): Đặc tính đất đai đà thể hiện nhiều
yếu tố hạn chế hoặc một yếu tố hạn chế nghiêm trọng khó khắc phục. Sản xuất
trên các hạng đất này khó khăn hơn hoặc đầu tư tốn kém hơn S2 nhưng vẫn có
thể cho năng suất và có lÃi.
* Bé kh«ng thÝch nghi - gåm 2 líp
N1- Kh«ng thÝch nghi hiện tại (Currently not Suitable): Đặc tính đất đai
không thích hợp với các loại sử dụng đất hiện tại vì có yếu tố hạn chế
nghiêm trọng. Tuy nhiên yếu tố hạn chế đó có thể khắc phục được bằng các
biện pháp cải tạo đất đồng bộ, đầu tư lớn trong tương lai để nâng lên hạng
thích hợp.
N2- Không thích hợp vĩnh viễn (Permanently not Suitable): Đặc tính đất
đai thể hiện nhiều yếu tố hạn chế nghiêm trọng, hiện tại không thể khắc phục
được và cũng không nên đưa vào sử dụng trong tương lai vì không có hiệu quả
(Đào Ch©u Thu, Ngun Khang, 1998) [16].



13

cấp phân vị (Category)
Bộ (Order)

Lớp (Class) Lớp phụ (Subclass)

Đơn vị (Unit)

S1

S- Thích nghi
(Suitable)

S2

S2m

S3

S2d

S2d-1

S2e

S2d-2

...

S2d-3
...

N- Không thích nghi
(Not Suitable)

N1
N2

N1 sl
N1 e

Sơ đồ 1.1. Cấu trúc bảng phân loại khả năng thích nghi ®Êt ®ai cđa FAO
Trong ®ã: m: §é Èm

e: §é cao

d: Độ dày tầng đất

d-1: Dày > 100 cm; d-2: Dày 50-100 cm; d-3: Dày < 50 cm

1.1.2.4. Các phương pháp thực hiện quy trình đánh giá đất đai theo FAO
Sự liên hệ giữa những khảo sát tài nguyên và phân tÝch kinh tÕ - x· héi
cịng nh­ ®èi chiÕu víi cách thức mà các loại hình sử dụng đất được xây dựng
có thể tiến hành theo phương pháp 2 bước (Two Stages) hoặc phương pháp
song hành (Paralell).
- Phương pháp 2 bước: Bao gồm bước thứ nhất chủ yếu là đánh giá điều
kiện tự nhiên, sau đó là bước thứ 2 bao gồm những phân tích về kinh tế - xà héi.



14
- Phương pháp song hành: Trong phương pháp này, sự phân tích mối liên
hệ giữa đất đai và loại hình sử dụng đất được tiến hành đồng thời với phân tích
kinh tế - xà hội.
Phương pháp hai bước thường được dùng trong các cuộc thống kê tài
nguyên cho mục tiêu quy hoạch rộng lớn và các nghiên cứu để đánh giá tiềm
năng sản xuất sinh học. Phân hạng thích nghi đất đai ở bước đầu tiên được
dựa vào khả năng thích nghi của đất đai đối với các loại hình sử dụng đất đÃ
được chọn ngay từ đầu cuộc khảo sát. Sự đóng góp của phân tích kinh tế xÃ
hội ë b­íc nµy chØ nh»m kiĨm tra sù thÝch øng của các loại hình sử dụng đất.
Sau khi giai đoạn một đà hoàn tất, kết quả sẽ được trình bầy dưới dạng bản
đồ và báo cáo. Những kết quả này có thể sau đó tùy thuộc vào bước thứ hai
(bước phân tích chi tiết các hiệu quả kinh tế - xà hội).
Trong phương pháp song hành việc phân tích kinh tế - xà hội các
loại hình sử dụng đất được tiến hành song song với khảo sát và đánh giá
các yếu tố tự nhiên, các yêu cầu về số liệu và cách phân tích thay đổi khác
nhau theo từng kiểu sử dụng. Phương pháp song hành thích hợp cho các đề
xuất rõ ràng trong các dự án phát triển ở mức độ chi tiết và bán chi tiết,
đòi hỏi thời gian ngắn hơn so với phương pháp hai bước và thích hợp với
quy hoạch sử dụng đất đai.
1.1.2.5. Nội dung chính của đánh giá đất đai theo FAO
+ Xác định các loại hình sử dụng đất.
+ Xác định các chỉ tiêu xây dựng bản đồ đơn vị đất đai.
+ Xây dựng hệ thống cấu trúc phân hạng đất đai.
+ Phân hạng thích hợp đất đai.
Về nội dung phương pháp ĐGĐĐ của FAO biên soạn gắn liền ĐGĐĐ và
quy hoạch sử dụng đất, coi ĐGĐĐ là một phần của quá trình quy hoạch sử
dụng đất. Tiến trình ĐGĐĐ và quy hoạch sử dụng đất được minh họa ở Phụ
lục 1, trong ®ã:



15
Bước 1: Xác định mục tiêu của việc ĐGĐĐ trong mối quan hệ chặt chẽ
với các mục tiêu phát triển kinh tế - xà hội chung của các cấp hành chính.
Bước 2: Thu thập các tài liệu của vùng nghiên cứu nhằm hiểu rõ các
đặc thù về tài nguyên thiên nhiªn cịng nh­ kinh tÕ - x· héi cđa vïng
nghiªn cứu. Đồng thời kế thừa và tham khảo các tài liệu sẵn có phục vụ
công tác ĐGĐĐ.
Bước 3: Xác định loại hình sử dụng đất. Lựa chọn và mô tả các loại
hình sử dụng đất phù hợp với chính sách, mục tiêu phát triển, các điều kiện
sinh thái về tự nhiên, điều kiện chung về kinh tế - xà hội, tập quán đất đai
của khu vực nghiên cứu (đặc biệt là các hạn chế sử dụng đất). Xác định yêu
cầu của mỗi loại hình sử dụng đất đà lựa chọn.
Bước 4: Xác định các đơn vị đất đai dựa vào các yếu tố tác động và
các chỉ tiêu phân cấp.
Bước 5: Đánh giá khả năng thích hợp đất đai thông qua việc so sánh,
đối chiếu giữa các yêu cầu sử dụng đất của các loại hình sử dụng đất đà lựa
chọn với các đặc tính đất đai của vùng nghiên cứu, qua đó phân loại khả
năng thích hợp của từng đơn vị đất đai đối với mỗi loại sử dụng đất, gồm có:
- Khả năng thích hợp trong điều kiện hiện tại.
- Khả năng thích nghi trong điều kiện đất đai sẽ được cải tạo.
Bước 6: Phân tích những tác ®éng cđa c¸c u tè kinh tÕ - x· héi và môi
trường tới tính thích hợp của các loại hình sử dụng đất đai được đánh giá.
Bước 7: Dựa trên phân tích tính thích hợp của các loại hình sử dụng đất
trên từng ĐVĐĐ, xác định và đề xuất loại hình sử dụng đất thích hợp nhất
trong hiện tại và tương lai.
Bước 8: Quy hoạch sử dụng đất. Trên cơ sở đánh giá tính thích hợp của
cây trồng, các mục tiêu phát triển để bố trí sử dụng đất thích hợp.
Bước 9: áp dụng kết quả ĐGĐĐ vào thực tế s¶n xuÊt.



16
Đề cương hướng dẫn của FAO khái quát toàn bộ những nội dung, các
bước tiến hành, những gợi ý và các ví dụ nêu ra để minh họa, tham khảo.
Trên cơ sở đó, tùy theo điều kiện cụ thể của từng vùng, từng quốc gia mà vận
dụng cho thích hợp (Đào Châu Thu, Nguyễn Khang, 1998) [16].
1.1.3. Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai trong đánh giá đất đai theo FAO
Đơn vị Bản đồ đất đai (Land Mapping Unit - LMU) được định nghĩa là
một vạt hay một khoanh đất được xác định cụ thể, được thể hiện trên bản đồ, có
những đặc tính và tính chất đất đai riêng biệt thích hợp đồng nhất cho từng loại
hình sử dụng đất, có cùng điều kiện quản lý đất, cùng một khả năng sản xuất và
cải tạo đất. Mỗi ĐVĐĐ có chất lượng đủ để tạo nên một sự khác biệt với các
đơn vị đất đai khác nhằm đảm bảo sự thích hợp của chúng với các loại sử dụng
đất khác nhau (Đào Châu Thu, Nguyễn Khang, 1998) [16].
Các đơn vị bản đồ đất đai được xác định cần phải thỏa mÃn các yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính đồng nhất tối đa, các chỉ tiêu phân cấp phải được xác
định rõ.
- Có ý nghĩa thực tiễn trong đánh giá thích hợp cho các loại hình sử
dụng đất được lựa chọn.
- Các đơn vị bản đồ đất đai phải thể hiện được trên bản đồ.
- Các đơn vị bản đồ đất đai phải được xác định một cách đơn giản dựa
trên các đặc điểm của nó.
- Các đặc tính và tính chất của các đơn vị bản đồ đất đai phải là các
đặc tính, tính chất khá ổn định.
1.1.4. Quy trình xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
Quy trình xây dựng bản đồ ĐVĐĐ gồm 4 bước:
Bước 1: Xác định và phân cấp chỉ tiêu xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
+ Lựa chọn các chỉ tiêu xây dựng bản đồ ĐVĐĐ.
Xác định các chỉ tiêu phân cấp của bản đồ ĐVĐĐ có ý nghĩa đảm bảo
tính chính xác của bản đồ ĐVĐĐ và phản ánh đúng điều kiƯn ®Êt ®ai ®èi víi



17
nhu cầu của các loại hình sử dụng đất. Cơ sở lựa chọn chỉ tiêu xây dựng bản
đồ ĐVĐĐ phụ thuộc vào phạm vi chương trình ĐGĐĐ như: Phạm vi vïng
l·nh thỉ, tØnh, hun... vµ phơ thc vµo mèi quan hệ giữa yêu cầu đánh giá
đất (chi tiết, bán chi tiết, tổng thể...) với tỷ lệ bản đồ cần thể hiện. Ví dụ: Để
ĐGĐĐ cho một vùng với mức độ chi tiết trên bản đồ 1/25.000 thì các yếu tố
cần thiết cho việc xây dựng bản đồ ĐVĐĐ gồm: Đất, độ dốc, địa hình tương
đối, độ dày tầng đất, thành phần cơ giới, độ phì nhiêu... ở các tỷ lệ bản đồ
1/5.000 hay lớn hơn thì ngoài các yếu tố xây dựng bản đồ ĐVĐĐ kể trên còn
có thêm các yếu tố thể hiện mức độ chi tiết hơn của quá trình ĐGĐĐ như:
Độ dày tầng canh tác, điều kiện sản xuất, chế độ mặn, phèn...
+ Phân cấp chỉ tiêu xây dựng bản đồ ĐVĐĐ.
Dựa vào yêu cầu, mục đích của chương trình đánh giá đất, kết hợp với
các nguồn tài liệu sẵn có hoặc bổ sung thêm để lựa chọn được chỉ tiêu phân
cấp phù hợp với mục đích, yêu cầu sử dụng đất và mức độ thích hợp đất đai.
Bước 2: Xây dựng các bản đồ đơn tính
Bản đồ đơn tính là bản đồ chỉ thể hiện duy nhất một yếu tố đơn lẻ, mỗi
yếu tố đó là một chỉ tiêu xây dựng bản đồ ĐVĐĐ đà được lựa chọn (loại đất, độ
dày tầng đất, địa hình, độ dốc, lượng mưa, điều kiện tưới, tiêu...). Trong xây
dựng bản đồ ĐVĐĐ, ở các mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, chủ đề
thể hiện của các bản đồ đơn tính cũng khác nhau.


18
Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa phạm vi điều tra, tỷ lệ bản đồ và các loại bản đồ
cần có để xây dựng bản đồ đơn vị đất đai phục vụ trong đánh giá
Yêu cầu đánh giá
Rất chi tiết


Chi tiết

Bán chi tiết

Tỷ lệ bản đồ
> 1/10.000
1/10.000 1/25.000
1/25.000 1/100.000

Kế hoạch tổng thể

1/100.000 -

(Master plan)

1/250.000

Thăm dò

Bản đồ cần có
Bản đồ giải thửa, đất, hiện trạng
đường đất, địa hình chi tiết
Bản đồ giải thửa, đất, nước ngầm,
hiện trạng đường đất, địa hình chi
tiết
Bản đồ đất, hệ thống đất đai, địa
lý nhân văn, địa hình, hiện trạng
sử dụng đất
Bản đồ phân vùng địa lý tự nhiên,

đơn vị đất đai, phân vùng khí hậu,
hiện trạng sử dụng đất

1/250.000-

Bản đồ các đơn vị đất đai. Hiện

1/1.000.000

trạng sử dụng đất
Bản đồ phân vùng địa lý, khí hậu,

Tổng quan

<1/1.000.000

HTSD đất, thực bì, địa hình, địa
mạo, sinh thái NN, ĐVĐĐ

(Nguồn: Đào Châu Thu, Nguyễn Khang, 1998) [16].
Trong hệ thống thông tin địa lý (Geographic Infomation System - GIS)
thì các dữ liệu để xây dựng các bản đồ đơn tính được thực hiện trên các bản
đồ kỹ thuật số (Digital Map). Các giá trị thuộc tính của các yếu tố được gán
vào các đối tượng bản đồ (vùng, đường, điểm) và sẽ được tổ hợp lại trong
bản đồ ĐVĐĐ bằng phép chồng ghép bản đồ (map overlaying).


19
Bước 3: Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai
Các bản đồ đơn tính được biên soạn trên cùng một phép chiếu

(projection), được chồng ghép để tạo thành bản đồ ĐVĐĐ. Kỹ thuật GIS là
một công cụ đắc lực trong việc xây dựng bản đồ ĐVĐĐ. GIS thực hiện phép
chồng ghép nhanh chóng, có độ chính xác cao đồng thời hỗ trợ nhiều phép
xử lý, phân tích không gian (Spatial Analysis) phức tạp nhưng lại rất thuận
tiện. Phần mềm GIS quản lý các ĐVĐĐ đà tạo bằng các đơn vị không gian
(Polygons trong kỹ thuật Vector và grid cells trong kỹ thuật Raster) và mô tả
chúng bằng các trường dữ liệu thuộc tính (Attribute Data Fields).
Bước 4: Mô tả bản đồ đơn vị đất đai
Theo Sổ tay điều tra, phân loại đánh giá đất của các tác giả Tôn Thất
Chiểu, Lê Thái Bạt, Nguyễn Khang và Nguyễn Văn Tân (1999) [6], các
ĐVĐĐ được mô tả theo các chỉ tiêu thể hiện các đặc điểm (đặc tính, tính
chất) của đơn vị ®Êt ®ai ®ã. Néi dung vµ møc ®é chi tiÕt mô tả các ĐVĐĐ
tùy thuộc vào các chỉ tiêu lựa chọn và phân cấp của mỗi loại ĐVĐĐ.
Trong mô tả bản đồ ĐVĐĐ, phải chỉ rõ được:
+ Số ĐVĐĐ, diện tích từng đơn vị.
+ Số khoanh, diện tích, mức độ phân tán... của từng ĐVĐĐ.
+ Mô tả các đặc điểm (đặc tính, tính chất) của từng ĐVĐĐ (đặc điểm
khí hậu, địa hình, thủy văn, thực vật, động vật và đặc điểm đất).
Xây dựng bản đồ ĐVĐĐ là bước đầu tiên, không thể thiếu trong quy
trình đánh giá đất theo FAO. Bản đồ ĐVĐĐ là cơ sở, xuất phát điểm cho
toàn bộ quá trình đánh giá đất.
1.1.5. Tình hình nghiên cứu ®¸nh gi¸ ®Êt ®ai cđa ViƯt Nam
1.1.5.1. Kh¸i qu¸t chung
Tõ xa xưa, trong quá trình sản xuất nhân dân ta đà ĐGĐĐ với cách thức
hết sức đơn giản như đất tốt, đất xấu... Dưới thời phong kiến, đất được
đánh giá theo kinh nghiệm để quản lý, đánh thuế, mua bán ,... §Õn thêi phong


20
kiến thực dân đà có một số công trình nghiên cứu về đất do một số nhà khoa

học người Pháp chủ trì với ý đồ lập đồn điền, trang trại... (Nguyễn Văn Thân,
1995) [15].
Năm 1954, ở miền Bắc, Vụ Quản lý Đất đai, Viện Thổ nhưỡng Nông
hóa, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp đà nghiên cứu, phân hạng đất
vùng sản xuất nông nghiệp (áp dụng phương pháp ĐGĐĐ của Docuchaev).
Các chỉ tiêu chính để phân hạng là tính chất và điều kiện sinh thái của vùng
sản xuất NN. Kết quả đà phân chia đất thành 4 đến 7 hạng (theo yêu cầu của
cơ sở sử dụng đất) bằng cách phân hạng đất theo giá trị tương đối của đất.
Từ sau năm 1975, việc đánh giá tài nguyên đất đai trở thành yêu cầu bức
thiết của các nhà khoa học đất và quản lý đất đai. Bản đồ đất toàn quốc tỷ lệ
1/1.000.000 đà được xây dựng cùng với một hệ thống phân loại đất có thuyết
minh chi tiết kèm theo. Bên cạnh đó, nhiều công trình khoa học về nghiên cứu
ĐVĐĐ cũng đà được công bố.
1.1.5.2. ứng dụng phương pháp đánh giá đất đai theo FAO, xây dựng bản đồ
đơn vị đất đai ở Việt Nam
Quỹ đất sản xuất NN của nước ta khá hạn chế, dân số ngày càng tăng đÃ
gây sức ép mạnh trong việc sử dụng nguồn tài nguyên đất đai quý báu đó.
Từ những năm 1990 trở lại đây, các nhà khoa học đất Việt Nam đÃ
nghiên cứu, áp dụng phương pháp ĐGĐĐ của FAO vào điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xà hội cụ thể của nước ta. Các kết quả thu được từ những nghiên cứu
này đà cho thấy tính khả thi cao của phương pháp ĐGĐĐ của FAO và khẳng
định việc vận dụng phương pháp này như là một tiến bộ kỹ thuật cần được áp
dụng rộng rÃi vào VN. Cho đến nay, đà có nhiều công trình nghiên cứu, áp
dụng phương pháp ĐGĐĐ của FAO để đánh giá tài nguyên đất đai ở các
phạm vi khác nhau:
Cấp Quốc gia
Theo công trình ĐGĐĐ toàn quốc ở tỷ lệ 1/500.000 của Viện Quy hoạch
và Thiết kế Nông nghiệp (1993 - 1994), có 7 chỉ tiêu phân cấp bản đồ đơn vị



21
đất đai được dựa vào, gồm: Thổ nhưỡng (13 nhóm đất); Tầng dày của đất (3
cấp); Độ dốc (3 cấp); Lượng mưa năm (3 cấp); Thuỷ văn nước mặt (trong đó có
4 cấp chế độ ngập và 4 cấp xâm nhập mặn); Tưới tiêu (2 cấp). Các tác giả xây
dựng bản đồ đất đai riêng cho từng vùng sinh thái ở tỷ lệ 1/250.000, sau đó tổng
hợp lên cấp miền và cấp toàn quốc ở tỷ lệ 1/500.000. Kết quả đà xác định được
270 ĐVĐĐ ở miền Bắc và 196 ĐVĐĐ ở miền Nam, nhưng khi tổ hợp lên cấp
toàn quốc thì chỉ còn 373 ĐVĐĐ do tính đồng nhất của một số yếu tố tự nhiên
như lượng mưa, chế độ thủy văn, độ dốc... (Đào Châu Thu, Nguyễn Khang,
1998) [16].
Cấp vùng lÃnh thổ
Chương trình đánh giá và đề xuất sử dụng đất đai vùng Tây Bắc đà xây
dựng được 230 ĐVĐĐ. Các tác giả thống kê được 157 ĐVĐĐ trên đất trống
đồi trọc chưa sử dụng với diện tích 3.246.395 ha. ĐVĐĐ có diện tích nhỏ nhất
là 164 ha, lớn nhất là 264.068 ha. Các ĐVĐĐ cũng được thống kê theo cấp độ
dốc và tầng dày của đất, (Lê Thái Bạt, 1995) [19].
Theo Phạm Dương Ưng, Nguyễn Khang, Đỗ Đình Đài, vùng Tây nguyên
có 195 ĐVĐĐ, trong đó những đơn vị có tiềm năng NN lớn gồm 45 ĐVĐĐ
thuộc nhóm đất đỏ bazan, 32 ĐVĐĐ thuộc nhóm đất bồi tụ và đất đen vùng
đồng bằng và thung lũng, 35 ĐVĐĐ có độ dốc 0 - 150, tầng dầy > 100 cm.
Bản đồ ĐVĐĐ vùng Tây Nguyên tỷ lệ 1/250.000 được xây dựng từ 7 chỉ tiêu,
gồm: Đất và địa chất, địa mạo, độ dốc, độ dày tầng đất, khả năng tưới tiêu,
lượng mưa trung bình năm, tổng nhiệt độ (Lê Quang Vịnh, 1998) [18].
Công trình ĐGĐĐ của Nguyễn Văn Nhân (1996) [19] ở Vùng đồng bằng
sông Cửu Long đà xác định được 6 chỉ tiêu xây dựng bản đồ ĐVĐĐ là: Nhóm
đất, tình trạng xâm nhập mặn, độ sâu ngập, khả năng tưới, lượng mưa trung
bình năm và thời gian canh tác nhờ mưa được thể hiện ở tỷ lệ 1/250.000. Trên
cơ sở các chỉ tiêu đó, tác giả đà xác định được 123 ĐVĐĐ, bao gồm 63
ĐVĐĐ ở các vùng đất phèn, 10 ĐVĐĐ ở vùng đất mặn, 22 ĐVĐĐ ở vùng đất
phù sa không có hạn chế và 18 ĐVĐĐ ở vùng đất khác.



22
Kết quả xây dựng bản đồ ĐVĐĐ vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ 1/250.000 của
Phạm Quang Khánh (1995) [19] cho thấy có 6 chỉ tiêu phân cấp xây dựng bản
đồ đất là: Nhóm đất, phân bố mưa, khả năng tưới, độ dốc, độ dày tầng đất
mịn, đá lộ đầu, và xây dựng 54 ĐVĐĐ với 602 khoanh.
Vùng đồng bằng sông Hồng đà được Nguyễn Công Pho (1995) [19]
nghiên cứu, xây dựng bản đồ ĐVĐĐ tỷ lệ 1/250.000 gồm 33 ĐVĐĐ trong đó
có 22 ĐVĐĐ thuộc đất đồng bằng và 11 ĐVĐĐ thuộc đất đồi núi. Tác giả xác
định được 4 chỉ tiêu phân cấp xây dựng bản đồ ĐVĐĐ là: Loại đất (9 nhóm
đất), độ dốc (3 cấp), chế độ tưới tiêu và ngập úng (có 4 cấp).
Cấp tỉnh
Các tác giả Nguyễn Chiến Thắng, Cấn Triển (1995) [19] xây dựng bản
đồ ĐVĐĐ cho toàn tỉnh Bình Định, sử dụng 5 chỉ tiêu là: Nhóm đất (G) 7
nhóm, độ dốc (S) 4 cấp, tầng dầy (D) 3 cấp, chế độ tưới (I) 2 cấp, lượng mưa
(RF) 3 cấp; đà xác định được 45 ĐVĐĐ, trong đó: 9 ĐVĐĐcó độ dốc trên
150, tầng dầy dưới 50 cm; 28 ĐVĐĐ có độ dốc dưới 80, tầng dầy hơn 50 cm,
có khả năng phát triển NN hoặc nông lâm kết hợp; 8 đơn vị có độ dốc từ 8 0 150, tầng dầy mỏng, chỉ phát triển trồng màu và nông lâm kết hợp.
Cố Giáo sư Vũ Cao Thái và tập thể các nhà khoa học đất đà ĐGĐĐ và
quy hoạch sử dụng đất tỉnh Đồng Nai (1996) [14], xây dựng bản đồ ĐVĐĐ ở
tỷ lệ 1/50.000 gồm 66 đơn vị bản đồ đất đai dựa trên 6 chỉ tiêu (Loại hình thổ
nhưỡng, khả năng tưới, độ dày tầng đất hữu hiệu, độ dốc, xâm nhập mặn,
lượng mưa). Các tác giả đà mô tả chi tiết đặc tính của các ĐVĐĐ theo 15
nhóm đất và thống kê diện tích của chúng theo các đơn vị hành chính.
Cấp huyện
Các chỉ tiêu phân cấp xây dựng bản đồ ĐVĐĐ huyện Ô Môn - Cần Thơ
ở tỷ lệ 1/26.000 được Đặng Kim Sơn và nhóm tác giả (1995) [11] xác định
gồm: Độ sâu tầng phèn (4 cấp), độ dày tầng mùn (2 cấp), độ sâu ngập nước lị
(3 cÊp), thêi gian ngËp lơt (5 cÊp), thêi gian kªnh n­íc nhiƠm chua (2 cÊp).



23
Bản đồ ĐVĐĐ huyện Gia Lâm tỷ lệ 1/ 25.000 của Vũ Thị Bình (1995) có
20 ĐVĐĐ với gần 200 khoanh đất được xác định với 6 chỉ tiêu phân cấp gồm:
Loại đất (G), thành phần cơ giới (T), điều kiện tưới (I), điều kiện tiêu (F), ngập
úng (L), độ phì (P) (Lê Quang Vịnh, 1998) [18].
Từ năm 1998 đến 2001, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa xây dựng bản đồ
đơn vị đất đai ở tỷ lệ 1/10.000 cho nhiều huyện thuộc các tiểu vùng khác
trong chương trình ĐGĐĐ và quy hoạch sử dụng đất NN, đà xác định một số
chỉ tiêu như sau: Loại hình thổ nhưỡng; độ dốc (đối với vùng đồi núi); địa
hình tương đối; độ sâu xuất hiện tầng glây (đối với vùng đồng bằng); thành
phần cơ giới đất; khả năng tưới, tiêu; độ phì nhiêu của đất, v.v.
Các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả tiến hành trên nhiều đối tượng
và phạm vi nghiên cứu khác nhau đà chứng tỏ việc xác định các chỉ tiêu xây
dựng bản đồ ĐVĐĐ phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng. ở các
vùng khác nhau thì số lượng cũng như loại chỉ tiêu xây dựng bản đồ ĐVĐĐ
cũng khác nhau. Các chỉ tiêu được lựa chọn phản ánh đặc thù của vùng
nghiên cứu đồng thời cũng phản ánh mức độ và phạm vi nghiên cứu.
1.2. Tổng quan về hệ thống thông tin địa lý
1.2.1. Quá trình phát triển và ứng dụng của hệ thống thông tin địa lý
Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System - GIS) tuy mới
chỉ ra đời vào thập niên 70 cđa thÕ kû tr­íc nh­ng cho tíi nay nã ®· được ứng
dụng rộng khắp trên toàn Thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ các
thông tin bản đồ và thông tin thuộc tính lưu trữ ta có thể dễ dàng tạo ra các
loại bản đồ và tài liệu để cung cấp một sự nhìn nhận có hệ thống và tổng thể,
nhằm thu nhận và quản lý thông tin vị trí có hiệu quả, cho phép các nhà lÃnh
đạo thực hiện tốt hơn công việc lập kế hoạch và trợ giúp quyết định. Hệ thống
thông tin địa lý quản lý vị trí địa lý gắn liền với các số liệu riêng rẽ khác liên
quan đến nó.

Định nghĩa về GIS rất đa dạng. Nhìn chung, GIS là một tập hợp có tổ
chức của các phần cứng, phần mền máy tính, dữ liệu địa lý và các thủ tục của


24
ng­êi sư dơng nh»m trỵ gióp viƯc thu nhËn, l­u trữ, quản lý, xử lý, phân tích
và hiển thị các thông tin không gian từ Thế giới thực để giải quyết các vấn đề
tổng hợp thông tin cho các mục đích của con người đặt ra. Trong đó, thành
phần quan trọng nhất là người sử dụng, nhân tố điều hành hoạt động của hệ
thống GIS. Các thông tin của Thế giới thực được đưa vào GIS quản lý và xử lý
theo mục đích của người sử dụng.
Các phần mềm GIS phát triển trên nền tảng của các tiến bộ công nghiệp
máy tính, đồ họa máy tính, phân tích dữ liệu không gian và quản lý dữ liệu.
GIS được ứng dụng đầu tiên ở Canada để xử lý các thông tin về NN, lâm
nghiệp, sử dụng đất và động vật hoang dÃ. Từ những năm 80 trở lại đây, công
nghệ GIS đà trở thành một công cụ hữu hiệu trong công tác quản lý và trợ giúp
đưa ra quyết định. GIS lưu trữ thông tin dạng số và thể hiện các đối tượng
bằng hình ảnh dựa trên các thông tin thuộc tính của hình ảnh (cái gì? ở đâu?
mối quan hệ của nó với các đối tượng khác?). Ngày nay công nghệ GIS đang
phát triển mạnh theo hướng tổ hợp và là một công cụ đa ngành.
Tại châu Âu và các nước công nghiệp phát triển, công nghệ GIS được coi
là một công cụ không thể thiếu của các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp.
Hầu hết các nước công nghiệp phát triển đà ứng dụng công nghệ GIS để xây
dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên môi trường thống nhất trong toàn quốc. Công
nghệ GIS còn được dùng để xây dựng các hệ thống thông tin chuyên ngành,
trợ giúp lÃnh đạo, quản lý nhân sự, cấp cứu y tế, hướng dẫn hàng không...
- Tại Canada công nghệ GIS đà trở thành công cụ chuyên dụng trong
công tác quản lý ngành Lâm nghiệp, NN và Quản lý môi trường. Canada là
nước đầu tiên ứng dụng công nghệ GIS và hiện nay cũng là một trong các
nước đi đầu trong lĩnh vực GIS trên Thế giới.

- Tại Trung Quốc, Nhật Bản, công cụ GIS được sử dụng để thực hiện
giám sát và xây dựng mô hình biến động môi trường.


25
- Tại Mỹ, GIS được ứng dụng để thực hiện dự án xây dựng cơ sở dữ liệu
địa lý toàn Liên bang ngay từ những năm 1980. Hiện nay Mỹ là nước đứng
đầu Thế giới về sản phẩm phần mềm GIS cũng như ứng dụng công nghệ GIS
phục vụ phát triĨn kinh tÕ - x· héi.
- ë ViƯt Nam, GIS tuy là một công nghệ thông tin mới mẻ nhưng cũng
đà chứng tỏ vai trò của nó trong các ngành lâm nghiệp, địa chất, NN, giao
thông, v.v Một số cơ quan đà đầu tư tự thiết kế, xây dựng các phần mềm nội
địa có một số chức năng của GIS như Viện Công nghệ Thông tin thuộc Viện
Khoa học và C«ng nghƯ Qc gia, C«ng ty AIC (CAMAP), C«ng ty
DOLSOFT thành phố Hồ Chí Minh (WINGIS) ... Từ năm 1995, dự án Xây
dựng GIS phục vụ công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên và giám sát môi
trường, một trong các dự án trọng điểm của Chương trình Quốc gia về công
nghệ thông tin do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì thực hiện. Thông qua
việc triển khai các dự án GIS đà góp phần làm tăng thêm nhận thức của các
ngành và các địa phương về vai trò và khả năng của công nghệ GIS trong công
tác quản lý nhà nước, thúc đẩy thêm một bước trong tiến trình ứng dụng rộng
rÃi công nghệ GIS vào thực tế nước ta (Lê Ngọc Thuật, 2000) [17].
1.2.2. Quản lý và phân tích dữ liệu trong GIS
Thông thường, bước đầu tiên trong việc phát triển một ứng dụng GIS là
thống kê về các chủ đề nghiên cứu trên một vùng địa lý như: Đất, cây trồng,
cơ sở hạ tầng... Những chủ đề này được mô tả trong GIS bằng các lớp dữ liệu
chuyên đề. ở bước cơ sở này, GIS được sử dụng như một công cụ, phương
pháp kết hợp giữa dữ liệu không gian (bản đồ, ảnh viễn thám...) và các bảng
số liệu (dân số, đất, khí hậu...) trong bộ cơ sở dữ liệu. Trong đó, các lớp dữ
liệu riêng rẽ có thể được khôi phục, cập nhật, hiển thị và in ấn.

Từ các bộ cơ sở dữ liệu, GIS cho phép tiến hành các truy hỏi đơn giản đến
phức tạp và thực hiện các phân tích bậc cao trên nhiều lớp dữ liệu. GIS có hàng


×