Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao hiệu quả làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương tại trường mầm non nga bạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 35 trang )

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
CHỈ ĐẠO NÂNG CAO HIỆU QUẢ LÀM ĐỒ DÙNG DẠY HỌC,
ĐỒ CHƠI TỰ TẠO TỪ NGUYÊN VẬT LIỆU THIÊN NHIÊN
VÀ NGUYÊN VẬT LIỆU SẴN CÓ Ở ĐỊA PHƯƠNG
TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA BẠCH, HUYỆN NGA SƠN,
TỈNH THANH HÓA

Người thực hiện: Hồng Thị Hạnh
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị cơng tác: Trường Mầm non Nga Bạch, Nga Sơn
SKKN lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA, NĂM 2021


2

MỤC LỤC
Tên đề mục

Trang

1. Mở đầu



1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

6

Giải pháp 1: Làm tốt công tác tham mưu định hướng kế hoạch,
thời gian làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho giáo viên.

6

Giải pháp 2: Bồi dưỡng nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ dùng,
đồ chơi cho đội ngũ giáo viên thông qua chuyên đề.

7

Giải pháp 3: Tổ chức thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự
tạo từ nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương.

10

Giải pháp 4: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, đồ chơi vào các
hoạt động của trẻ.

13

Giải pháp 5: Nâng cao hiệu quả làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự
tạo thông qua hội thi.

15


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

18

3. Kết luận, kiến nghị

19

3.1. Kết luận

19

3.2. Kiến nghị

20

Tài liệu tham khảo

21


1

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết: “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ

em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng,
những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa
những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và
cho việc dạy học suốt đời”[1]. Để đạt được mục tiêu này chúng ta cần thực hiện
ba nội dung đó là chăm sóc- ni dưỡng và giáo dục trẻ. Một trong ba nội dung
quan trọng đó chính là giáo dục. Và để đạt được mục tiêu giáo dục thì việc sử
dụng đồ dùng đồ chơi trong các hoạt động giáo giục là một yếu tố vơ cùng cần
thiết, bởi vì: Đồ dùng, đồ chơi có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với trẻ, đồ
chơi là một nhu cầu thực tế không thể thiếu được trong cuộc sống. Nó cần cho
trẻ như thức ăn, nước uống và còn giúp trẻ phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần.
Đồ chơi tự tạo có mn hình, muôn vẻ, bởi chúng được tạo ra từ những vật
liệu sẵn có, dễ kiếm, dễ làm. Nguồn đồ chơi tự tạo là vô tận, làm đồ chơi tự tạo
là hoạt động sáng tạo và độc đáo. Có thể dùng ln những đồ vật thông thường
trong sinh hoạt hằng ngày, sử dụng trực tiếp những vật liệu tự nhiên làm đồ
chơi, trò chơi và chế tạo đồ chơi, trò chơi bằng những vật thu lượm được.[2]
Với phương châm: “Học bằng chơi, chơi mà học”[3] thì đồ dùng dạy học,
đồ chơi là phương tiện để trẻ hoạt động vui chơi mà hoạt động vui chơi là hoạt
động chủ đạo của trẻ Mầm non. Ngoài đồ dùng dạy học ra, đồ chơi vốn là thứ trẻ
u thích nhất, khơng có đồ chơi trẻ khơng có phương tiện, mơi trường để hoạt
động và thực hiện các trò chơi. Cách thức chơi với đồ chơi và những thứ đồ chơi
mà trẻ yêu thích được thay đổi theo sự phát triển và hiểu biết của trẻ thì chính đồ
chơi đó lại trở thành đồ dùng dạy học của trẻ, giúp trẻ có nhiều cơ hội trải
nghiệm và lĩnh hội các kiến thức thông qua đồ chơi được sử dụng trong các trị
chơi. Vì vậy càng có nhiều cách để trẻ chơi với một đồ chơi thì trẻ càng có cơ
hội dạy học và tích lũy kiến thức theo các cách khác nhau.
Từ nhận thức trên, tôi thiết nghĩ việc trang bị các kiến thức và nâng cao kỹ
năng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho giáo viên mầm non trong nhà trường là
việc làm hết sức cần thiết và bổ ích vì đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo là một
hoạt động mang tính sáng tạo và độc đáo. Sự sáng tạo và độc đáo được thể hiện
ở chỗ cùng một nguyên vật liệu mỗi người lại có ý tưởng riêng, cách thức riêng

để tạo ra sản phẩm theo phong cách của mình. Chính vì vậy để phát huy năng
lực sẵn có của mỗi người tôi quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp chỉ đạo
nâng cao hiệu quả làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu
thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương tại trường Mầm non Nga
Bạch, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa” với mong muốn góp sức nhỏ bé của
mình trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm non mà ở một
góc độ nhất định nào đó được bắt đầu từ đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo.


2

1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Nhằm nâng cao năng lực chun mơn, nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm; phát
huy tính sáng tạo, sự kiên trì, tính khéo léo, kỹ năng làm và sử dụng đồ dùng dạy
học, đồ chơi cho giáo viên trong trường.
- Tìm ra một số giải pháp chỉ đạo làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên vật
liệu thiên nhiên và nguyên liệu sẵn có ở địa phương trong trường mầm non Nga
Bạch nhằm nâng cao hiệu quả toàn diện về các lĩnh vực giáo dục cho trẻ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả làm đồ dùng, đồ chơi tự
tạo từ nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương áp
dụng cho giáo viên tại trường Mầm non Nga Bạch.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu: Lựa chọn các nguồn tài liệu có
nội dung liên quan đến đồ dùng, đồ chơi để vận dụng và đưa ra các giải pháp tổ
chức thực hiện cho phù hợp như: Chương trình giáo dục mầm non, tài liệu chuẩn
hướng dẫn làm đồ dùng đồ chơi trong trường mầm non, chương trình Bồi dưỡng
thường xuyên...
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.

+ Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát quá trình giáo viên và trẻ tham
gia các hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi và hiệu quả đạt được trong quá trình trẻ
hoạt động với đồ dùng đồ chơi, nhằm điều tra khảo sát khả năng đạt được của
giáo viên tại trường. Sau khi quan sát thu thập những vấn đề liên quan và ghi
chép lại một cách cụ thể, chính xác với giáo viên.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức cho giáo viên và trẻ hành
động, thao tác trực tiếp với đồ vật, đồ chơi thích hợp để tạo ra sản phẩm.
+ Phương pháp phỏng vấn: Thu thập thông tin để giáo viên nắm bắt một số
nội dung liên quan đến việc làm đồ dùng dạy học, đồ chơi.
- Phương pháp trực quan, minh họa: Sử dụng các mơ hình hoặc các vi deo
có liên quan đến đồ dùng đồ chơi nhằm phục vụ cho q trình làm đồ dùng đồ
chơi của cơ và trẻ.
- Phương pháp dùng lời nói: Nhằm gợi mở hướng dẫn cho giáo viên và trẻ
trong quá trình làm đồ dùng đồ chơi.
- Phương pháp đánh giá, nêu gương: Đánh giá cao những giáo viên và trẻ
đã tích cực tham gia phong trào làm đồ dùng đồ chơi và khen thưởng kịp thời
những giáo viên có sự sáng tạo trong hoạt động.
Từ thực tế của nhà trường bản thân đã đưa ra một số giải pháp chỉ đạo giáo
viên làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ các nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên
vật liệu sẵn có phục vụ cho các hoạt động của trẻ nhằm nâng cao hiệu quả làm
đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo trong nhà trường.


3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận:
Mọi người đều cơng nhận rằng đồ chơi, trị chơi là nhu cầu tự nhiên không
thể thiếu đối với cuộc sống của trẻ. Nhu cầu về đồ chơi của trẻ là thiết yếu và vơ
tận: Tuy nhiên, có thể chúng ta khơng có tiền mua hoặc khơng có khả năng mua

tất cả các đồ chơi cho trẻ. Để thỏa mãn hoạt động vui chơi của trẻ, chúng ta có
thể tự làm lấy đồ chơi cho trẻ. Đồ chơi tự tạo được làm từ nguyên vật liệu dễ
kiếm và cũng dễ chế tạo những sản phẩm gần gũi với hoạt động của trẻ và ln
đổi mới.[4]
Đồ chơi tự tạo có ý nghĩa và tác dụng rất tốt. Đồ chơi tự tạo góp phần to
lớn trong giáo dục - phát triển tồn diện trẻ bao gồm: Phát triển vận động giúp
trẻ luyện vận động các cơ tay, sự khéo léo của bàn tay, ngón tay và luyện vận
động đi, chạy, nhảy, bật… Phát triển nhận thức giúp trẻ luyện các giác quan (thị
giác, thính giác, xúc giác…) nhận biết mơi trường xung quanh, so sánh, học
đếm, định hướng trong không gian, giải quyết vấn đề…Phát triển ngôn ngữ là
cung cấp vốn từ, kích thích trẻ nói, giúp cho trẻ làm quen với thơ, truyện, đóng
kịch…Phát triển cảm xúc, tình cảm nhằm gợi cho trẻ những cảm xúc tình cảm
khác nhau (vui nhộn, thoải mái, âu yếm, nhẹ nhàng). Phát triển xã hội giúp trẻ
biết hợp tác chia sẻ, quan tâm đến mọi người…[5]
Đồ dùng đồ chơi là sách giáo khoa của trẻ, là người bạn thân thiết không
thể thiếu được đối với trẻ, nó là món ăn tinh thần của trẻ mầm non; nó cần cho
trẻ như thức ăn, nước uống hàng ngày. Được chơi với đồ chơi trẻ say mê hoạt
động, giúp trẻ phát triển về trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ và phát triển nhân cách
theo đặc điểm tâm sinh lý. Vì vậy giáo viên cần phải tìm tịi sáng tạo nhiều đồ
dùng, đồ chơi để làm và dạy trẻ làm để trẻ tự mình sáng tạo ra sản phẩm và
thành quả của trẻ.
Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các
hoạt động để giúp trẻ em phát triển toàn diện. Muốn trẻ chơi tốt thì phải có đồ
dùng đồ chơi, ngồi nguồn đồ dùng đồ chơi do nhà trường cung cấp thì đồ dùng
đồ chơi do giáo viên tạo ra cũng vô cùng đa dạng và phong phú. Một trong
những yêu cầu của chương trình Giáo dục mầm non là tạo điều kiện thuận lợi
cho trẻ được tích cực tìm tịi, khám phá mọi lứa tuổi. Khi làm đồ chơi phải đảm
bảo thực hiện theo mục tiêu giáo dục, mang tính thẩm mỹ và phải giúp trẻ phát
triển trí tưởng tượng, kích thích cho trẻ tính độc lập, sáng tạo, đồng thời phải
phù hợp với từng lứa tuổi và đảm bảo được sự an tồn cho trẻ. Bên cạnh đó cần

căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý trẻ lứa tuổi mầm non như:
Đối với trẻ nhà trẻ các cháu cịn nhỏ cơ giáo phải là người đóng vai trị chủ
đạo vì trẻ chưa thể làm đồ chơi một mình được mà phải có người lớn hỗ trợ.
Đối với trẻ mẫu giáo 3, 4 tuổi thì trẻ đã biết sử dụng màu sắc để tạo ra được
các sản phẩm đơn giản cô giáo là người đóng vai hỗ trợ những chi tiết khó khi
thực hiện. Cịn đối với trẻ 5 tuổi thì trẻ đã có thể tự mình làm được đồ dùng đồ
chơi theo ý tưởng của mình mà khơng cần đến những người lớn, đồ dùng đồ


4

chơi làm được thường có màu sắc sặc sỡ, hình dạng phong phú, hấp dẫn hơn. Vì
vậy, tơi căn cứ vào các tài liệu hướng dẫn sau đây:
Căn cứ theo sách hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục
nhóm trẻ 12-36 tháng tuổi, lớp 3, 4, 5 tuổi của đồng tác giả: TS Lê Thu Hương,
TS Trần Thị Ngọc Trâm, TS Lê Thị Ánh Tuyết nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
[6]
Căn cứ theo thông tư 28/2016/TT- BGDĐT ngày 30/12/2016 ban hành
chương trình giáo dục mầm non.[7]
Căn cứ Thông tư số 36/2011/TT- BGDĐT ngày 17/8/2011 ban hành
chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non (MODULE MN 30:
“Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo”.[8]
Căn cứ Thơng tư 12/2019/TT-BGDĐT ngày 26/8/2019 ban hành chương
trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non (M0DULE GVMN 22: Làm
đồ dùng dạy học, đồ chơi từ nguyên liệu địa phương).[9]
Dựa trên các tài liệu và thực tế nhà trường bản thân đã đi sâu nghiên cứu,
tìm hiểu nhằm nâng cao hiệu quả làm đồ dùng, đồ chơi cho giáo viên. Qua đó
xác định đây là một việc làm vơ cùng cần thiết để phát huy tinh thần tự giác tích
cực, lịng u nghề, sự say mê sáng tạo của đội ngũ giáo viên nhằm tạo ra sản
phẩm mang lại hiệu quả trong việc tổ chức cho trẻ học và chơi.

2.2. Thực trạng.
*.Thuận lợi:
- Đối với nhà trường:
+ Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục huyện Nga Sơn, các cấp uỷ Đảng
chính quyền địa phương tạo điều kiện bổ sung cơ sở vật chất trang thiết bị đồ
dùng đồ chơi tạo điều kiện thuận lợi để nhà trường hoạt động một cách tích cực.
+ Trường mầm non Nga Bạch nằm trên địa bàn thuộc khu vực vùng ven
biển. Cũng chính từ miền này là cơ sở tạo điều kiện cho việc tìm kiếm nguyên
vật liệu dễ dàng, thuận lợi đa dạng và phong phú tạo điều kiện cho việc làm đồ
dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ.
- Đối với giáo viên:
Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ nhiệt tình, đồn kết hăng say cơng tác,
tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường đặc biệt là việc làm đồ dùng
đồ chơi phục vụ cho trẻ, có nhiều giáo viên có năng khiếu tạo hình và khả năng
sáng tạo trong việc làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động của trẻ.
- Đối với học sinh:
Các cháu ngoan đi học đều, trẻ đến trường được học đúng độ tuổi nên việc
triển khai thực hiện kế hoạch chăm sóc, giáo dục của nhà trường diễn ra thuận
lợi.
- Đối với phụ huynh:
Đa số phụ huynh quan tâm đến con em, có ý thức phối hợp với nhà trường
và giáo viên trong chăm sóc giáo dục trẻ.
*. Khó khăn:


5

Trong quá trình thực hiện bên cạnh những thuận lợi thì bản thân cũng gặp
những khó khăn như sau:
- Đối với nhà trường.

+ Nhà trường đang trong quá trình phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia mức độ I
về cơ sở vật chất trường vẫn còn thiếu các phòng chức năng. Đồ dùng đồ chơi
được bổ sung hằng năm nhưng chưa đồng bộ và hiện đại.
+ Số lượng giáo viên còn thiếu so với định biên, chỉ có 1 giáo viên/nhóm,
lớp. Vì đặc thù riêng của ngành học, giáo viên phải đứng lớp cả ngày, thời gian
dành cho việc tìm kiếm và làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cịn ít, phần lớn chỉ
trong thời gian hè, ngày nghỉ và tranh thủ quĩ thời gian còn lại trong ngày.
- Đối với giáo viên:
Vẫn còn một số giáo viên còn hạn chế trong việc hiểu cách làm, biết cách
vận dụng và khả năng sáng tạo khi làm đồ dùng, đồ chơi.
Một số giáo viên chưa phát huy hết tác dụng của những đồ dùng dạy học,
đồ chơi đã có.
- Đối với học sinh:
Số lượng học sinh/nhóm lớp đơng nên ảnh hưởng đến các hoạt động của trẻ
đặc biệt là việc trẻ tham gia làm đồ dùng đồ chơi cùng cô giáo.
- Đối với phụ huynh:
Vẫn cịn một số ít phụ huynh đi làm ăn xa nên chưa quan tâm đến con em,
việc phối hợp với nhà trường và giáo viên trong chăm sóc giáo dục trẻ cịn hạn
chế.
*. Kết quả của thực trạng:
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn và động viên
các giáo viên ở các nhóm lớp tự làm đồ dùng, đồ chơi từ các nguyên, vật liệu
sẵn có nhưng để đáp ứng được với u cầu thì phần nào đó cịn hạn chế, số đồ
dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động giáo dục đã có nhưng chưa phong phú
về hình thức và chủng loại. Để có những biện pháp chỉ đạo phù hợp ngay từ đầu
năm học tôi đã khảo sát chất lượng đầu năm kiểm tra kiến thức, kỹ năng của
giáo viên và trẻ kết quả như sau:
Tổng số giáo viên: 16 cơ
Tổng số học sinh: 415 cháu
Trong đó: Học sinh nhà trẻ: 61 cháu; học sinh mẫu giáo: 354 cháu.

(Bảng khảo sát đầu năm học- phụ lục 1)
Xuất phát từ thực tế trên, làm thế nào để khơi dậy niềm đam mê hứng thú
với đồ chơi và cách làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ, làm thế nào để giáo viên và trẻ
nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên
nhiên, nguyện vật liệu tận dụng, sẵn có của địa phương để giảm bớt chi phí mua
đồ dùng, đồ chơi có sẵn, đắt tiền mà nhiều khi không phù hợp với lứa tuổi, làm
thế nào để khi có đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn: Sẽ lôi cuốn trẻ hứng thú tham
gia hoạt động, tôi quyết định lựa chọn các giải pháp trọng tâm để thực hiện có
hiệu quả như sau:


6

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giải pháp 1: Làm tốt công tác tham mưu định hướng kế hoạch,
thời gian làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho giáo viên.
Để có đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho trẻ không phải bất cứ lúc nào giáo viên
cũng có thời gian để làm, hơn nữa các giáo viên ít có cơ hội học hỏi lẫn nhau
nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ chơi. Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để mình
hồn tồn chủ động có nhiều đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo trong suốt năm
học. Vì thế ngay từ đầu năm học bản thân đã xây dựng kế hoạch về việc chỉ đạo
giáo viên làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên liệu sẵn
có theo từng đợt sau đó tham mưu với Ban giám hiệu về kế hoạch đã xây dựng,
Ban giám hiệu đã thống nhất và duyệt kế hoạch mà Tôi đưa ra, cụ thể:
Đợt 1: Làm đồ dùng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi, trang trí mơi trường
giáo dục chuẩn bị cho năm học mới với nội dung xây dựng môi trường giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm.
*. Mục đích:
Giúp cho giáo viên có thêm vốn kiến thức, kỹ năng phong phú trong việc
làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ.

Giúp giáo viên thuận lợi trong việc xây dựng được môi trường giáo dục từ
chủ đề đầu tiên và là cơ sở cho các chủ đề xuyên suốt năm học.
Các nhóm, lớp có thêm nguồn đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động
của trẻ khi trẻ ở trường.
*. Biện pháp thực hiện:
- Mở chuyên đề đồ dùng đồ chơi cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường
tham gia.
- Chỉ đạo giáo viên thực hiện trên các nhóm lớp: Thực hiện trang trí nhóm
lớp theo chủ đề.
- Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi phục vụ chủ đề và các góc mở.
Đợt 2: Phát động phong trào làm đồ dùng dạy học, đồ chơi lập thành tích
chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11.
Mục đích:
Tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao tay nghề trong việc làm đồ dùng đồ
chơi.
Bổ sung thêm vào kho đồ dùng đồ chơi của nhóm lớp thêm đa dạng, sinh
động.
*. Biện pháp thực hiện:
- Chỉ đạo giáo viên thực hiện trên các nhóm lớp thực hiện trang trí theo chủ
đề.
- Mỗi lớp làm ít nhất 3 bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động.
Đợt 3: Tham gia hội thi: “Đồ dùng đồ chơi sáng tạo” cấp trường chào
mừng ngày quốc tế Phụ nữ 8/3.
Mục đích:
Là cơ hội cho giáo viên khẳng định khả năng sáng tạo của mình trong việc
làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ.


7


Tạo động lực thúc đẩy phong trào làm đồ dùng, đồ chơi của nhà trường
ngày càng mạnh mẽ và trở thành hoạt động thường xuyên, liên tục trong nhà
trường.
*. Biện pháp thực hiện:
- Chỉ đạo giáo viên trong toàn trường tham gia làm đồ dùng đồ chơi dự thi.
- Chỉ đạo các giáo viên phối hợp với Ban đại diện cha mẹ trẻ ở các nhóm
lớp tham gia ủng hộ nguyên vật liệu và cùng giáo viên làm đồ dùng đồ chơi
tham gia hội thi đạt kết quả.
Ngoài ra trong cả năm học Tôi cũng định hướng cho giáo viên có kế hoạch
bổ sung đồ dùng dạy học, đồ chơi tự làm theo tháng, theo chủ đề. Giáo viên căn
cứ vào chương trình của từng độ tuổi, từng chủ đề xem độ tuổi đó, chủ đề đó có
những trị chơi gì, bài học gì, cần những đồ dùng dạy học đồ chơi nào, cái gì đã
có và có thể vận dụng được, cịn cái gì chưa có để chủ động làm.
Ví dụ: Đối với trẻ mẫu giáo 5 tuổi đang thực hiện chủ đề “Bản Thân”, chủ
đề tiếp theo là chủ đề “Gia Đình” thì ngồi những đồ dùng dạy học, đồ chơi đã
có thì cần phải chủ động bổ sung thêm đồ dùng, đồ chơi mới đầy đủ và phù
hợp cho đề “Gia Đình”.
Sau khi kế hoạch được duyệt tôi đã triển khai cho giáo viên thực hiện theo
các nội dung kế hoạch nhà trường đã xây dựng.
Kết quả: Từ việc xây dựng và triển khai kế hoạch cụ thể đã định hướng cho
giáo viên trong việc sắp xếp thời gian và công việc một cách hợp lý để tham gia
vào quá trình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo. Giáo viên đã xác định được việc
cần thiết của việc làm đồ dùng đồ chơi và vai trò của đồ dùng đồ chơi trong các
hoạt động giáo dục, từ đó giáo viên ngày càng tích cực hơn tham gia vào việc
làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các hoạt động để giúp trẻ học và chơi một
cách hứng thú, tích cực.
2.3.2. Giải pháp 2: Bồi dưỡng nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ dùng,
đồ chơi cho đội ngũ giáo viên thông qua chuyên đề.
Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi
cho đội ngũ giáo viên là một việc làm vơ cùng cần thiết bởi vì muốn tạo ra

những đồ chơi đẹp phong phú hấp dẫn trước hết bản thân mỗi giáo viên cần phải
có kiến thức, kỹ năng cơ bản trong việc làm đồ dùng dạy học, đồ chơi. Vì vậy
Tơi ln xác định rõ mục đích, nội dung và hình thức bồi dưỡng cho giáo viên
như thế nào để đạt hiệu quả.
*. Mục đích của việc bồi dưỡng:
Nhằm nâng cao vốn kiến thức, kỹ năng cho giáo viên trong việc làm đồ
dùng, đồ chơi cho trẻ và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên
trong phong trào làm đồ dùng, đồ chơi.
Phát huy óc sáng tạo, kỹ năng làm, rèn luyện tính kiên trì, khả năng khéo
léo của đôi bàn tay cho cô và trẻ.
Đưa việc làm đồ dùng đồ chơi tự tạo trở thành hoạt động thường xuyên của
nhà trường góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình giáo dục mầm
non và tạo mơi trường giáo dục thân thiện, an tồn.


8

*. Nội dung của việc bồi dưỡng:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm đã làm đồ dùng, đồ chơi từ các
nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có của địa phương ở mỗi lớp,
mỗi cá nhân giáo viên.
Giúp nhau thực hành làm các đồ dùng dạy học, đồ chơi theo ý tưởng riêng
và cách làm của mỗi người.
*. Hình thức bồi dưỡng:
Giáo viên được thảo luận trao đổi, chia sẻ để hiểu và nắm vững các kiến
thức cơ bản về đồ dùng dạy học, đồ chơi.
- Các khái niệm:
+ Đồ dùng dạy học: Là những đồ vật dùng để minh họa nội dung bài dạy và
làm cho lời nói của giáo viên cụ thể, dễ hiểu hơn.
+ Đồ chơi là “Đồ vật dùng vào việc vui chơi, giải trí”. Trong quy chuẩn kỹ

thuật quốc gia về an toàn đồ chơi trẻ em, đồ chơi được hiểu là: Các sản phẩm
hoặc vật liệu bất kỳ được thiết kế hoặc được nêu rõ để trẻ em sử dụng khi vui
chơi. Đồ chơi là đồ vật để trẻ chơi nhằm thỏa mãn nhu cầu, sở thích của trẻ, đơi
khi khơng cần có sự giúp đỡ hay hướng dẫn của người lớn.
+ Đồ chơi tự tạo: Là những đồ vật được chế tạo từ các nguyên vật liệu đơn
giản, dễ kiếm (nguyên vật liệu tự nhiên; nguyên vật liệu đã qua sử dụng).
- Tầm quan trọng của đồ dùng đồ chơi đối với sự phát triển tâm - sinh lý, trí
tuệ, thể lực, tình cảm thẩm mỹ và góp phần hình thành nhân cách trẻ thơ.
Đối với phát triển trí tuệ: Trong quá trình chơi với đồ dùng đồ chơi trẻ được
tiếp xúc với nhiều nguyên vật liệu khác nhau (lá cây, gỗ, nhựa...) qua đó trẻ biết
được những thuộc tính và cách sử dụng đồ dùng đồ chơi sao cho phù hợp. Điều
này góp phần khơng nhỏ vào việc phát triển khả năng quan sát, ghi nhớ có chủ
định và làm giàu vốn sống, kinh nghiệm cho trẻ.
Đối với phát triển tình cảm - kỹ năng xã hội: Trong quá trình chơi với đồ
dùng đồ chơi, trẻ sẽ học cách giao tiếp ứng xử một cách tự nhiên, nhẹ nhàng,
qua đó góp phần hình thành nhân cách cho trẻ. Trẻ thích thú, hào hứng khi được
chơi với chính đồ chơi do cơ giáo mình làm ra trẻ có cơ hội được trải nghiệm
những cảm xúc đặc biệt như tình yêu thương, lòng mong muốn được làm những
điều tốt đẹp cho người thân và học cách ứng xử phù hợp. Điều đó góp phần làm
phong phú thêm đời sống tâm hồn trẻ. Từ đó sẽ hình thành ở trẻ thái độ biết trân
trọng, giữ gìn sản phẩm lao động của cơ giáo, đồng thời giáo dục ý thức tiết
kiệm cho trẻ cũng như thói quen biết bảo vệ mơi trường xung quanh.
Đối với phát triển thể lực: Đồ chơi còn giúp phát triển thể lực, sức khỏe cho
trẻ. Khi được chơi với đồ chơi u thích trẻ sẽ có trạng thái tinh thần vui vẻ sảng
khối, các trị chơi xếp hình bằng vỏ bao diêm... xâu vòng bằng các loại hột hạt
là phương tiện góp phần rèn luyện, phát triển các tố chất vận động, kỹ năng vận
động và phát triển các nhóm cơ của trẻ.
Đối với phát triển thẩm mỹ: Trong q trình chơi với các đồ chơi u thích
trẻ quan sát, tìm hiểu về các sự vật, hiện tượng, điều đó sẽ giúp trẻ nhận ra cái
đẹp về màu sắc, hình dáng, bố cục... nhận ra những nét độc đáo tạo nên sự hấp



9

dẫn của đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo, gợi cho trẻ sự thích thú, phát triển khả
năng cảm thụ cái đẹp, tạo ra những rung động tinh tế trong tâm hồn trẻ. Sự
phong phú đa dạng trong vẻ đẹp của đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo chính là
yếu tố kích thích sự xuất hiện của những rung động, những xúc cảm thẩm mỹ,
hình thành nên tình cảm thẩm mỹ giúp trẻ biết thưởng thức và mong muốn tạo ra
cái đẹp trong tự nhiên, cuộc sống và nghệ thuật.
- Ý nghĩa của đồ dùng đồ chơi: Việc làm đồ dùng đồ chơi có ý nghĩa rất
lớn: Nó làm phong phú hơn số lượng đồ dùng đồ chơi trong q trình chăm sóc
và giáo dục trẻ. Giúp giáo viên chủ động trong việc chuẩn bị đồ dùng đồ chơi
trong các hoạt động. Phát huy được tính tự lập, khả năng sáng tạo, ý thức tiết
kiệm, bảo vệ môi trường và biết chia sẻ kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp với
nhau. Có thể phối hợp với phụ huynh trong việc đóng góp các nguyên vật liệu
để làm đồ dùng đồ chơi.
- Những yêu cầu sư phạm đối với đồ dùng đồ chơi:
+ Đồ dùng đồ chơi phải đảm bảo tính giáo dục: Có hình dáng màu sắc, âm
thanh hấp dẫn trẻ. Phản ánh các sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi với trẻ.
Là phương tiện giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện.
+ Đồ dùng đồ chơi phải đảm bảo an toàn vệ sinh: Làm đồ dùng đồ chơi
bằng những nguyên vật liệu dễ lau rửa. Phải sơn đồ dùng đồ chơi bằng những
loại sơn không độc hại. Các bộ phận chi tiết nhỏ của đồ dùng đồ chơi cần được
gắn chắc chắc và khơng có cạnh sắc nhọn. Các nguyên vật liệu để làm đồ dùng
đồ chơi phải được làm sạch trước khi tạo thành đồ chơi.
+ Đồ dùng đồ chơi phải đảm bảo tính thẩm mỹ: Đồ dùng đồ chơi phải đẹp,
hình dáng kích thước màu sắc bố cục của sản phẩm phải thể hiện sự hài hòa cân
đối, sự trau chuốt gọn gàng trong từng sản phẩm.
+ Đồ dùng đồ chơi phải mang tính thực tiễn: Phản ánh được xã hội mà trẻ

đang sống.
* Các nguyên vật liệu làm đồ dùng đồ chơi gồm có:
+ Nguyên vật liệu thiên nhiên: Lá cây, cành cây, hoa quả và hạt; Vỏ ngao,
vỏ ốc, trai, hến, sò; Rơm rạ, vỏ trứng, lơng gà; Tre nứa, cói, gỗ, sọ dừa.
+ Ngun liệu tái sử dụng (sẵn có): Giấy bìa, họa báo, bưu thiếp, và vỏ hộp
cattong; Các loại, vải vụn, bít tất găng tay cũ, len; Vỏ hộp chai nhựa…
+ Nguyên vật liễu mua sẵn: Xốp màu, giấy màu, giấy trang kim, bóng kính,
dây kim tuyến, đất nặn….
* Quy trình hướng dẫn làm đồ dùng đồ chơi: Giáo viên nghiên cứu tài liệu
sau đó đưa ra cách làm, khuyến khích những giáo viên có cách làm hay độc đáo
và sáng tạo.
Ngồi ra tơi cịn hướng cho giáo viên tham khảo cách làm đồ dùng đồ chơi
trên truyền hình, trên mạng Internet và một số tài liệu như: tập san, tạp chí giáo
dục đó là: Tài liệu hướng dẫn trẻ làm đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên
nhiên của Thạc sỹ Nguyễn Thị Bách Chiến chuyên viên vụ giáo dục mầm
non[10]. Tài liệu Hướng dẫn tạo hình bằng nguyên vật liệu thiên nhiên của tác


10

giả Phạm Thị Việt Hà- Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam[11], MODULE MN 30:
Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo.
Kết quả: Thông qua việc mở lớp chuyên đề bồi dưỡng kiến thức làm đồ
dùng đồ chơi cho giáo viên tôi đã thu được kết quả đáng kể. Đội ngũ giáo viên
nhà trường đã nắm được kiến thức làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ. Mọi
người đều phấn khởi và khẳng định họ học được nhiều điều bổ ích như cách
làm, kỹ năng làm và nhất là kỹ thuật làm nhanh hơn, chính xác hơn và có những
đồ dùng dạy học, đồ chơi mà theo họ cách làm dễ hơn nhưng tạo sản phẩm lại
đẹp hơn. Mỗi giáo viên đã tích lũy được kinh nghiệm quý báu cho bản thân và
tự làm đồ dùng đồ chơi phục vụ thiết thực cho các hoạt động học tập và vui chơi

của trẻ giúp trẻ phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong mọi hoạt động.
(Hình ảnh: Chuyên đề đồ dùng đồ chơi sáng tạo-Phụ lục 2.1 )
2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự
tạo từ nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương.
Sau khi triển khai chuyên đề bước tiếp theo tôi tổ chức cho giáo viên thực
hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo một phần giúp cho đội ngũ giáo viên
củng cố cách làm, qui trình làm, mặt khác quan trọng hơn cả là họ tạo ra được
nhiều sản phẩm cho các cháu hoạt động, vui chơi. Để động viên và khuyến
khích tinh thần làm đồ dùng đồ chơi chúng tôi gắn kết quả làm đồ chơi tự tạo
vào tiêu chí thi đua trong năm học để các lớp và giáo viên phấn đấu.
Để tạo thành phong trào lớn và phát huy hết các thế mạnh của từng giáo
viên Tôi chỉ đạo cho giáo viên thực hiện làm theo hình thức chia các lớp làm
thực hành theo nhóm và phân cơng nhiệm vụ cho từng nhóm.
Nhóm 1: Gồm khối nhà trẻ và khối 3 tuổi.
Nhiệm vụ: Thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ các nguyên vật liệu
thiên nhiên: Lá cây, vỏ cây, cành cây, hạt đậu, hạt lạc, hạt vừng, các loại hạt trái
cây, tre, trúc, cói đay, rơm, rạ, bẹ ngơ…
Nhóm 2: Gồm khối 4 tuổi.
Nhiệm vụ: Thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ các nguyên vật liệu
tái sử dụng sẵn có: Vải, len, sợi, giấy bìa, họa báo, bưu thiếp, hộp cattong chai,
lọ….
Nhóm 3: Gồm khối 5 tuổi.
Nhiệm vụ: Thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ các ngun liệu
mua sẵn: Xốp màu, xốp dạ, bóng kính, đất nặn...
Sau khi nhận nhiệm vụ các nhóm sẽ thảo luận phân cơng cơng việc cho
từng thành viên trong nhóm, lên kế hoạch sẽ làm đồ dùng đồ chơi gì, phục vụ
cho hoạt động nào, các nguyên vật liệu sử dụng là gì…và tiến hành làm đồ dùng
dạy học, đồ chơi tự tạo theo nội dung được phân cơng.
Trong q trình chuẩn bị làm đồ chơi tôi thường nhắc nhở giáo viên phải
luôn quan tâm đến các loại màu sắc (xanh, đỏ, vàng...) hình dáng (trịn, dài,

nhọn, bẹt...) tính chất (cứng, mềm, xốp, ráp...) tạo điều kiện để dạy trẻ sao cho
phù hợp với từng độ tuổi và khi trẻ tiếp xúc trực tiếp trẻ sẽ nhận ra được đồ
dùng đồ chơi đó được tạo nên từ ngun vật liệu gì.


11

Thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi:
Nhóm 1: Làm đồ chơi, đồ dùng dạy học từ nguyên vật liệu thiên nhiên:
+ Từ lá cây, cành cây, hoa quả và hạt: Các loại lá cây, cành cây có nhiều
màu sắc, kích thước, hình dạng khác nhau và rất dễ kiếm từ thiên nhiên để làm
thành các đồ chơi vô cùng phong phú theo ý thích. Từ lá cây có thể làm thành đồ
chơi con cá, con bướm, cái kèn…Quả cà pháo, quả bàng gắn lại với nhau tạo
thành con gà, con vịt, con kiến (phục vụ cho hoạt động khám phá hoa học)…
Một số loại hột hạt có thể xâu lại thành chuỗi vòng cho trẻ chơi. Các loại hạt
hồng xiêm, hạt mít, hạt vải, hạt na…cho trẻ chơi xếp hình, đếm.
+ Vỏ ốc, ngao, trai, hến, sị: Là nguyên vật liệu rất dễ kiếm và có thể làm
thành các đồ chơi như: Xâu các vỏ ốc để tạo thành chuỗi vòng cổ, gắn các vỏ
ngao, hến tạo thành hình thù các con vật, cây cối hay sơn các màu khác nhau lên
vỏ ngao, hến cho trẻ chơi các trị chơi phân biệt, đếm, thậm chí những chiếc vỏ
trai có kích thước khác nhau để làm bộ đồ nấu ăn: vỏ to làm nồi, chảo, vỏ nhỏ
làm bát, đĩa (phục vụ ở góc đóng vai trong nhóm chơi bán hàng).
+ Rơm rạ, vỏ trứng, lông gà…
Rơm, rạ là nguyên vật liệu rất dễ kiếm ở vùng nơng thơn, vì vậy giáo viên
có thể tận dụng để làm các đồ chơi đơn giản như búp bê, mũ, ổ gà, ổ chim.
Đan, tết: thành cái làn, mũ, xoong, nồi, chảo rán, bát thìa, cốc uống nước…
phục vụ cho các buổi chơi và các trị chơi đóng vai; các con vật, các hình khối
… Tết thành con tơm, con cá, con cua (các con vật sống dưới nước để phục vụ
chủ đề thế giới động vật, cái đĩa, cái bát, cái cốc… (đồ dùng ăn uống) phục vụ
cho khám phá khoa học, nhận biết và các hoạt động khác. Bện thành những sợi

dây tròn, dây dẹt (Để dạy học: Nhận biết dài- ngắn; tròn, dẹt; Để chơi: Chơi kéo
co, nhảy dây) các thảm trịn, thảm hình chữ nhật, thảm vng, thảm hình tam
giác (làm đồ dùng học tốn: Nhận biết hình trịn, vuông, chữ nhật, tam giác; Để
chơi : ngồi chơi ô ăn quan, chồng nụ chồng hoa, nu na nu nống…) nhằm ơn lại
các trị chơi truyền thống, các trị chơi dân gian phục vụ một số nội dung trong
chuyên đề “Lấy trẻ làm trung tâm”. Những chiếc lông gà sau khi được rửa sạch,
phơi khô giáo viên làm thành những quả cầu lơng để chơi trị chơi tung- bắt, làm
đi cho con cơng hoặc trang trí vương miện.
+ Tre, trúc, song mây: Từ những nan tre nhỏ làm sạch đánh bóng trơn, ghép
lại với nhau, sau đó dùng keo 502 và mạt cưa để đính chúng lại cho chắc, sau đó
ghép lại thành lăng Bác Hồ (ở góc chơi xây dựng). Từ các ống, các đoạn tre ngà,
trúc vàng có màu vàng óng rất đẹp, với kích thước dài ngắn, to, nhỏ khác nhau
có thể làm bộ lồng ghép, bộ gõ, bộ lăn, xúc xắc, cán cờ, đũa dài, đũa ngắn, làm
tầu hỏa, làm cối giã gạo, làm thùng xách nước…những đoạn trúc nhỏ hơn có thể
làm đồ chơi xâu hạt.
Nhóm 2: Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ các nguyên vật liệu tái sử dụng
sẵn có tại địa phương: vải, len, sợi, giấy bìa, họa báo, bưu thiếp, chai, lọ … Đây
là nguồn nguyên vật liệu vô cùng phong phú dễ kiếm và dễ làm thành sản phẩm
+ Từ giấy gấp thành máy bay, mũ calô, chim, con thuyền, bông hoa, cái
máy ảnh, con ếch… Vỏ hộp bánh làm thành ti vi, bộ bàn ghế và các con vật như


12

con mèo, con chó, con lợn… Lõi chỉ bằng gỗ thì làm bánh xe lăn, bằng giấy thì
cắt thành khoanh nhỏ nhuộm màu làm đồ chơi xâu hạt. Bao diêm cũ bọc giấy
màu làm đồ chơi xếp hình, làm xúc xắc cho trẻ nhà trẻ.
+ Từ vải vụn, len, bít tất, găng tay cũ có thể làm thành những con rối trong
các câu chuyện, may váy cho búp bê…
+ Từ chai, lọ nhựa, hộp sữa chua có thể làm thành con công, con thỏ, con

lợn, trống cơm, xúc xắc…Những ống nhựa, dây nhựa truyền huyết thanh bỏ đi
có thể rửa sạch làm ống nghe cho trẻ chơi trò chơi bác sĩ…Những miếng xốp
chèn hàng cũng có thể tạo ra nhiều đồ chơi lý thú như cắt bộ ghế, bộ ấm chén, tủ
quần áo, con cá, con chim bồ câu. Những dây buộc hàng bằng ni lông các màu
đan thành những bộ lồng rất đẹp khơng kém lồng nhựa.
Nhóm 3: Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ các nguyên liệu khác: Xốp, xốp
màu, xốp dạ, bóng kính: Từ xốp màu, xốp dạ có thể làm thành những bát hoa,
vườn hoa, vườn cây ăn quả, vườn rau cho trẻ quan sát, hay làm thành những con
chuồn chuồn, con bướm trang trí cho cửa ra vào, tạo nên những hình ảnh bắt
mắt. Bóng kính làm những bao đựng sản phẩm tạo hình cho trẻ, bên ngồi bao
dán những hình ảnh bằng xốp vừa trang trí và làm ký hiệu riêng cho trẻ…
Khi thực hiện làm đồ dùng đồ chơi tôi nhắc nhở và khuyến khích giáo viên
thường kết hợp nhiều màu sắc để tạo nên những đồ dùng đẹp, sinh động, hợp sở
thích của trẻ. Chất liệu làm đồ dùng đẹp, bền, giá thành thấp, tiết kiệm, hiệu quả
giá trị sử dụng cao nhiều nhất đó là các đồ dùng làm từ nguyên vật liệu thiên
nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương. Đặc trưng của trẻ mầm non là
thích khám phá, vì thế đồ dùng, đồ chơi làm ra phải đảm bảo an tồn, khơng gây
thương tích, có độ bền cao. Đặc biệt, các đồ dùng đồ chơi phải đẹp mắt thì trẻ sẽ
rất hứng thú khi sử dụng.
Một lưu ý quan trọng khi làm đồ dùng đồ chơi là đối với trẻ nhà trẻ chưa
thể tham giam làm đồ dùng đồ chơi cơ có thể để trẻ quan sát cô làm. Đối với trẻ
mẫu giáo đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi trẻ đã có thể làm đồ dùng đồ chơi cùng cơ. Vì
vậy giáo viên cần động viên khuyến khích để trẻ làm cùng cơ.
Trong q trình thực hiện tôi yêu cầu giáo viên đưa ra nhiều nguyên vật
liệu để tìm hiểu, khám phá ý tưởng của trẻ để phát huy tính tích cực cho trẻ như:
vỏ chai lọ (Nước khoáng, C2, lon bia, vỏ thạch, can nhựa..) và hỏi trẻ có thể
làm được những đồ chơi gì? Ví dụ trẻ có thể nói (làm con lợn, búp bê, máy bay,
thuyền buồm...) Sau đó giáo viên có thể nói thêm những sản phẩm mà những
nguyên vật liệu trên có thể làm để mở rộng sự hiểu biết cho trẻ.
Trong khi làm cô giúp trẻ rèn kỹ năng phân loại từ đơn giản đến phức tạp

các loại đồ chơi, xắp xếp chúng thành những đồ dùng phục vụ cho việc học, việc
chơi. Trong khi cùng trẻ làm đồ dùng, đồ chơi thì yêu cầu giáo viên phải hướng
dẫn các bước làm cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu để trẻ có thể làm được.
Ví dụ: Chuẩn bị ngun liệu để làm “Con cơng” thì phải chuẩn bị được các
ngun vật liệu đó là: xốp màu, vỏ hộp sữa chua, thìa sữa chua, keo nến, hột
vịng; Hay để làm con “Gà mái” cần có: rơm, keo nến, hạt na, chỉ buộc; Làm
con “Hươu cao cổ” cần có: cói khơ, xốp màu, que kem; Làm con bướm, con cá


13

cần có: vỏ ngao, vỏ trai, hạt vịng, xốp màu; Làm “Thuyền buồm” cần có: Vỏ
can nước rửa bát, xốp màu, que kem; Làm con trâu cần có lá mít, lá đa; Làm
chiếc đồng hồ đeo tay cần có lá dừa, lá dứa....
Khi trẻ tham gia làm đồ dùng, đồ chơi giáo viên trò chuyện để tạo mối
quan hệ gần gũi thân thiện cùng trẻ. Khi hướng dẫn cho trẻ làm, chúng ta phải
biết cách gợi ý cho trẻ làm đồ dùng đồ chơi sao cho đảm bảo phù hợp với sự
phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ lớn. Khi cho trẻ thực hiện cùng, cô hướng dẫn
để trẻ làm từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp dần, phù hợp với tình hình
lớp, địa phương. Phát huy được sự sáng tạo, linh hoạt giúp trẻ hứng thú tham gia
các hoạt động. Bằng hình thức này trẻ tham gia rất hứng thú, chủ động tìm tịi,
khám phá, trải nghiệm để lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất phù hợp với việc
thực hiện các loại chương trình và cũng là thực hiện tốt một số nội dung của xây
dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm mà ngành đang chỉ đạo.
Sau đợt phát động làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo các lớp xuất hiện rất
nhiều đồ dùng dạy học, đồ chơi đẹp, hấp dẫn, có giá trị sử dụng. Nhiều đồ chơi
cịn sáng tạo hơn ban đầu như lớp cơ Hồng Thị Thùy, cô Lê Thị Dung, cô Trịnh
Thị Trang (Khối lớp 5 tuổi); Cô Bùi Phương Thuỷ, Cô Khương Quỳnh (Khối
lớp 4 tuổi) cơ Hồng Thuỷ, cơ Đồn Linh (Khối lớp 3 tuổi), cơ Lã Nguyệt,
(Khối nhà trẻ).

Kết quả: Có thể nói sản phẩm làm ra muôn màu muôn vẻ được trưng bày
như là một “thư viện” đồ chơi tạo thành bức tranh sinh động, đẹp mắt và vô
cùng hấp dẫn.
Về chất lượng sản phẩm: Chất lượng đảm bảo, bền, đẹp, có giá trị sử dụng,
hình thức phong phú và nhiều thể loại khác nhau.
Về số lượng: Nhiều hơn, đủ cho các hoạt động học và chơi của trẻ. Theo
thống kê của các lớp số lượng đồ chơi được tính theo bộ:
Đồ dùng đồ chơi làm từ nguyên vật liệu thiên nhiên dùng cho các hoạt
động học: 45 bộ.
Đồ dùng đồ chơi làm từ nguyên vật liệu tái chế sẵn có ở địa phương dùng
trong các hoạt động vui chơi: 35 bộ.
Đồ dùng đồ chơi làm từ nguyên vật liệu mua sẵn dùng để trang trí: 25 bộ.
(Hình ảnh: Giáo viên thực hành làm đồ dùng dạy học, đồ chơi - phụ lục 2.2).
(Hình ảnh: Sản phẩm sau đợt thực hành làm ĐDĐC- phụ lục 2.3)
(Cách làm một số đồ dùng dạy học, đồ chơi từ nguyên vật liệu thiên nhiên và
nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương- Phần phụ lục)
2.3.4. Giải pháp 4: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, đồ chơi vào các
hoạt động của trẻ.
Sau khi đã có nguồn đồ dùng dạy học, đồ chơi phong phú vấn đề đặt ra là
làm thế nào để các giáo viên và trẻ sử dụng nguồn đồ dùng đồ chơi vào các hoạt
động một cách có hiệu quả. Một yếu tố để phát huy tối đa hiệu quả đồ dùng dạy
học, đồ chơi đã làm tôi đã cùng ban giám hiệu chỉ đạo các lớp xây dựng môi
trường lớp học khoa học, sắp xếp đồ dùng đồ chơi hợp lý giúp trẻ dễ thấy, dễ
lấy, dễ sử dụng, dễ cất nhằm tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ chơi thường


14

xun theo ý thích cá nhân của mình. Đặc biệt là các đồ dùng dạy học đồ chơi
đó được phát huy tác dụng trong mỗi buổi chơi, mỗi trò chơi và với nhiều cách

chơi khác nhau.
Ví dụ: Một bộ vỏ ngao có thể phân loại to nhỏ, nhiều ít, xếp cao thấp; Xếp
hình các loại quả, các chữ số, chữ cái, bơng hoa, các con vật; Hoặc xếp thành
nhiều hình dáng khác nhau: Từ con cá đang nằm chỉ cần xếp lại cái đi theo
hình cong từ dưới lên một chút thành cá đang quẫy đuôi bơi rất đẹp. Trẻ có thể
chơi cá nhân hoặc theo nhóm và cùng nhau thảo luận cách chơi.
Đối với trẻ, hoạt động một ngày của trẻ diễn ra từ lúc đón trẻ đến khi trả
trẻ. Vì vậy khi làm đồ dùng đồ chơi giáo viên cần cho trẻ được hoạt động nhiều
trên sản phẩm. Khi được trải nghiệm những sản phẩm do mình và cơ giáo là ra
trẻ sẽ thấy tự tin, tích cực và hứng thú hơn trong mọi hoạt động.
Ví dụ: Đối với trẻ nhà trẻ:
* Bộ đồ chơi xếp- tháo, bộ xếp lồng làm từ tre
Trẻ sử dụng vào hoạt động chơi tập có chủ đích, hoạt động chơi ở các khu
vực. Khi hoạt động với những đồ dùng, đồ chơi này giúp trẻ phát triển các giác
quan, các tố chất vận động, rèn luyện các kỹ năng, cầm, nắm, tháo, lắp, … và
rèn luyện cơ tay cho trẻ.
* Bộ tranh lá cây tạo thành các con vật; Vỏ trứng làm thành con cá vàng,
Rơm rạ làm thành búp bê trai, búp bê gái.
Trẻ sử dụng trong hoạt động nhận biết, hoạt động với đồ vật, hoạt động
chơi ở các khu vực. Quá trình chơi với các đồ dùng đồ chơi giúp trẻ phát triển về
thể chất, nhận thức ngôn ngữ và đặc biệt là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách trẻ.
Ví dụ: Đối với trẻ mẫu giáo.
* Bảng học toán: Số lượng.
Sử dụng trong hoạt động làm quen với tốn hoặc sử dụng trong hoạt động
góc hoặc chơi trong thời điểm đón trả trẻ. Trẻ sử dụng loại đồ chơi này sẽ được
thỏa mãi nhu cầu về vui chơi, về nhận thức: Nhận biết các nhóm có số lượng là
bao nhiêu, chữ số ứng với nhóm số lượng, thao tác đếm, xếp tương ứng 1-1.
* Bộ rối tay hình người, hình các con vật.
Sử dụng loại rối này làm các nhân vật truyện trong hoạt động làm quen với

văn học, hoạt động góc. Khi sử dụng loại rối này thỏa mãn nhu cầu của trẻ đó là:
Tưởng tượng: Trẻ có thể tưởng tượng ra các nhân vật rối và làm theo ý thích của
mình. Giao tiếp: hai trẻ sử dụng nhân vật rối và nói chuyện giao tiếp với nhau.
Trong hoạt động góc chủ đề hiện tượng tự nhiên khối lớp 3-4 tuổi tôi chỉ
đạo các khối, giáo viên đưa ra sử dụng bộ đồ dùng, đồ chơi tự làm để cho trẻ
hoạt động ở góc xây dựng, trẻ được thực hiện, được tái tạo lại những công trình
bằng đồ dùng tự làm là các hàng rào dùng bằng các nan tre và hộp sữa để từ đó
trẻ thực hành tái tạo lại sản phẩm, tiếp thu kiến thức , kỹ năng tốt.
Trong hoạt động học trẻ 5-6 tuổi "Khám phá khoa học" về đồ dùng gia
đình. Để trẻ dễ liên hệ đồ dùng trong gia đình tơi yêu cầu giáo viên sử dụng các
đồ dùng trong gia đình mà cơ đã làm cho trẻ quan sát và nhận xét về đồ dùng đó.


15

Từ đó trẻ được trải nghiệm, sử dụng có hiệu quả và ghi nhớ đặc điểm của đồ
dùng trong gia đình.
Trong hoạt động góc cho trẻ sử dụng đồ chơi giáo viên tự làm ra, xây dựng
mơ hình theo chủ đề, trẻ tái tạo lại sự việc như sa bàn giao thông trẻ tái tạo lại
việc tham gia giao thông của con người trong thực tế từ đó trẻ thấy được các đồ
dùng đồ chơi tuy giống nhau nhưng có thể sử dụng được với các chủ đề khác
nhau, tạo ra các mơ hình phù hợp các chủ đề. Trẻ biết cách giữ gìn, biết bảo vệ
những sản phẩm mà cô và trẻ đã làm ra.
Để giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của đồ chơi với sự phát triển
của trẻ. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, hiệu quả cơng việc, tơi thường
xun trị chuyện với giáo viên về việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục tại các lớp, từ đó gợi ý cho giáo viên tự nhận xét về quá trình tổ
chức các hoạt động hằng ngày: ý tưởng thiết kế, hình thức tổ chức, đồ dùng đồ
chơi phục vụ hoạt động và hiệu quả của đồ chơi đối với sự thành công của các
tiết dạy cũng như tác dụng của đồ chơi đối với sự phát triển nhận thức của trẻ để

bổ sung và điểu chỉnh cho các hoạt động sau và rút ra bài học về sự cần thiết của
đồ dùng, đồ chơi đối với sự phát triển toàn diện của trẻ.
Kết quả: Sau khi chỉ đạo giáo viên sử dụng các đồ dùng dạy học, đồ chơi
đã làm vào các hoạt động tôi thấy hiệu quả giờ học tăng lên rõ rệt, trẻ hứng thú,
tích cực, tự tin tham gia vào các hoạt động, trẻ có ý thức cao trong việc giữ gìn
bảo quản các sản phẩm do cơ và trẻ làm ra.
(Hình ảnh: Trẻ chơi ở góc xây dựng với ĐDĐC do cô và trẻ làm ra - phụ lục
2.4)
2.3.5. Giải pháp 5: Nâng cao hiệu quả làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự
tạo thông qua hội thi.
Tôi xác định đây là một giải pháp quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ
năm học và đáp ứng được yêu cầu đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ. Trên cơ sở
phát động làm đồ dùng dạy học, đồ chơi dưới các lớp chúng tôi tổ chức hội thi
theo cấp trường. Tổ chức thi vào tháng 3 năm 2021. Vì thế ngay từ đầu năm học
bản thân đã xây dựng kế hoạch về việc chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng đồ chơi từ
nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên liệu sẵn có cho cả năm học sau đó tham
mưu với Ban giám hiệu về kế hoạch đã xây dựng, Ban giám hiệu đã thống nhất
và duyệt kế hoạch mà tơi đưa ra, cụ thể:
* Mục đích - u cầu:
- Phát động phong trào thi đua tự làm đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học
trong đội ngũ giáo viên nhằm tạo ra nhiều đồ dùng đồ chơi bền đẹp, có giá trị sử
dụng cao để nhân rộng cách làm đồ dùng đồ chơi trong đội ngũ giáo viên làm
phương tiện hỗ trợ việc nâng cao chất lượng vui chơi, học tập cho trẻ trong
trường mầm non.
- Tạo cơ hội cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong nghiên cứu,
cải tiến, tự làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ phục vụ thiết thực việc đổi mới nội
dụng, phương pháp dạy học theo chương trình giáo dục mầm non.
- Bổ sung trang thiết bị, đồ dùng dạy học trong nhà trường.



16

- Tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau giữa các giáo viên
trong việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học.
- Hình thành phong trào thường xuyên nghiên cứu tự làm đồ dùng dạy học,
đồ chơi phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động chăm sóc và giáo dục
trong nhà trường.
- Đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tự làm lựa chọn tham gia dự thi phải
mang tính thẩm mỹ, an tồn và thân thiện với trẻ và phục vụ cho tất cả các hoạt
động.
- Đồ chơi dự thi phải đảm bảo nguyên tắc:
+ Phải đáp ứng được nguyên tắc giáo dục.
+ Phải thỏa mãn được nhu cầu và ý muốn hoạt động tích cực trong khi dạy
học và vui chơi của trẻ.
+ Phải có hình dáng giống như thật.
+ Phải kết hợp hài hịa giữa đường nét, màu sắc, hình khối, có sự sáng tạo.
+ Phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an tồn, bền chắc, có giá trị sử dụng.
* Đối tượng tham gia hội thi:
Tất các các giáo viên trong nhà trường và huy động các bậc cha mẹ trẻ
tham gia
* Nội dung:
Vận dụng kiến thức, kinh nghiệm kỹ thuật để cải tiến các đồ dùng dạy học,
đồ chơi tự tạo, những sản phẩm tạo hình nhằm đạt hiệu quả cao hơn khi sử dụng
vào công việc dạy học của giáo viên và hoạt động học tập vui chơi của trẻ.
Tận dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên, nguyên vật liệu tái sử dụng
sẵn có, dễ tìm, dễ mua, dễ thay thế để làm đồ dùng đồ chơi.
Sáng tạo các loại đồ dùng dạy học, đồ chơi mới thiết thực phục vụ cơng tác
chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
* Hình thức:
Chấm theo nhóm/lớp. Mỗi giáo viên có ít nhất 4 bộ đồ dùng dạy học đồ

chơi tham gia dự thi đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non, phục
vụ cho các hoạt động trong các chủ đề trong năm học.
Để có đồ dùng tham gia dự thi trước hết cần phải có nguồn nguyên vật liệu
để làm đồ dùng đồ chơi. Và nguồn nguyên vật liệu vơ cùng phong phú đó chính
là huy động từ các bậc cha mẹ trẻ. Vì vậy mà ngay từ đầu năm học trong cuộc
họp ban dại diện cha mẹ học sinh tôi đã tham mưu cho trưởng ban đại diện cha
mẹ học sinh về việc phát động phong trào “Các bậc cha mẹ đồng hành cùng các
cô sưu tầm nguyên vật liệu” để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi trong cả
năm học.
Tại các nhóm lớp tơi cũng chỉ đạo giáo viên tuyên truyền phát động sâu
rộng đến các bậc cha mẹ trẻ: Để có nguồn nguyên vật liệu làm đồ dùng dạy học,
đồ chơi cho trẻ thì các bậc phụ huynh hãy giúp các cơ có được các nguyên liệu
mà hàng ngày chúng ta thường gặp như cây cói, sợi đay, sợi rơm đến các hộp
chè, sợi thép, các loại bìa, vải, len, sợi, các loại hột hạt, hạt vừng, hạt đỗ… mà ở


17

địa phương sẵn có đều có thể sử dụng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ và
đề nghị họ mang ủng hộ cho các nhóm lớp.
Bên cạnh đó tơi cịn chỉ đạo giáo viên tun truyền cho các bậc phụ huynh
mọi lúc mọi nơi bằng cách mời các bậc phụ huynh về dự hoạt động tại các
nhóm, lớp do cô tổ chức để họ được chứng kiến con em mình được học và vui
chơi với đồ chơi một cách say sưa và hứng thú. Tôi nhận thấy: Chỉ có trẻ và đồ
chơi, trẻ chơi khơng biết chán, qn cả giờ mẹ đón, đó là những hình ảnh rất
sinh động để vận động, tuyên truyền phụ huynh, từ đó phụ huynh rất phấn khởi
và có ý thức sẵn sàng đóng góp nguyên vật liệu cho nhà trường. Mặt khác Tôi
tiếp tục chỉ đạo giáo viên thông báo về chủ đề sắp tới để khuyến khích cha mẹ
trẻ tham gia đóng góp nguyên vật liệu làm đồ dùng dạy học đồ chơi phục vụ cho
chủ đề đạt hiệu quả cao.

Không chỉ huy động phụ huynh ủng hộ nguyên vật liệu, các nhóm lớp cịn
tun truyền để cha mẹ trẻ cùng tham gia vào q trình làm đồ dùng cho các
nhóm lớp để tham gia dự thi.
Sau một thời gian phát động các nhóm lớp cũng đã có rất nhiều sản phẩm
tham dự hội thi.
Trước khi chấm chúng tôi yêu cầu các lớp tổng hợp số lượng danh mục bộ
đồ dùng đồ chơi dự thi. Các bộ đồ dùng đồ chơi được phân theo từng loại: Đồ
dùng cho các hoạt động học hay hoạt động chơi và có bản thuyết trình: Cách
làm, chất liệu, giá trị sử dụng để mọi người cùng biết và vận dụng.
Để đảm bảo khách quan và công bằng Ban giám hiệu mời ban đại diện cha
mẹ trẻ ở các nhóm lớp tham gia vào q trình chấm thi.
Chấm xong Tôi cho trưng bày sản phẩm tại văn phòng nhà trường mời lãnh
đạo địa phương, hội phụ huynh, các ban ngành về dự, tham quan. Bằng hình
thức này chúng tơi đón nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, những lời động viên,
khen ngợi, ghi nhận cơng sức của chị em giáo viên trong nhà trường. Cũng
thông qua hội thi họ hiểu được tầm quan trọng của đồ dùng dạy học, đồ chơi đối
với sự phát triển của trẻ, đặc biệt là đồ dùng dạy học, đồ chơi này lại được làm
chính ngay từ những nguyên vật liệu có xung quanh mình. Tơi nghĩ đây là một
hình thức tuyên truyền nhanh nhất, dễ hiểu nhất, hiệu quả nhất.
*. Kết quả hội thi: Tính theo đơn vị lớp:
Giải nhất: 1 lớp: Cơ Lã Thị Nguyệt
Giải nhì: 6 lớp: Cơ Hồng Thùy, cơ Hồng Thủy, cơ Lê Dung, cơ Trịnh
Trang, cơ Đồng Giang, cơ Đồn Linh.
Giải ba: 3 lớp: Cơ Bùi Thủy, cơ Khương Quỳnh, cơ Nguyễn Hoan
Giải khuyến khích: 3 lớp: Cô Phạm Cúc, cô Nguyễn Phượng, cô Lã Hiền.
Để có kinh nghiệm làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho những năm tiếp theo,
trên cơ sở bản thuyết minh của các lớp Ban giám hiệu soạn thảo và đóng thành
cuốn sách có tên gọi: “Kinh nghiệm làm dùng dạy học, đồ chơi từ các nguyên
vật liệu thiên nhiên, nguyên vật liệu tái sử dụng sẵn có của địa phương” phát cho
mỗi lớp một cuốn để sử dụng theo nhu cầu.



18

Có thể nói thành cơng của giải pháp này là đã dấy lên được phong trào làm
đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ, tạo được sự gắn bó giữa Gia đình - Nhà
trường. Nhất là tạo được sự thay đổi hành vi của các bậc phụ huynh về làm đồ
dùng dạy học, đồ chơi và cách làm đồ dùng dạy học đồ chơi cho trẻ, kết lại
thành sức mạnh tổng hợp góp tiếng nói chung nâng cao chất lượng Giáo dục
Mầm non, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà trường hồn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao.
(Hình ảnh: Hội thi “Đồ dùng đồ chơi sáng tạo” cấp trường - phụ lục 2.5)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
* Đối với hoạt động giáo dục:
Bằng sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ giáo viên chúng tôi đã đạt được kết quả
như sau:
*. Kết quả nghiên cứu: Bảng khảo sát cuối năm học- phần phụ lục)
- Về phía nhà trường:
+ Nhà trường đã tạo được niềm tin đối với các bậc phụ huynh quan tâm hỗ
trợ nguyên vật liệu để làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ.
+ Phong trào làm đồ dùng đồ chơi của nhà trường ngày càng được mở
rộng.
+ Số lượng đồ dùng đồ chơi ngày càng tăng về số lượng và chất lượng,
phong phú đa dạng về màu sắc và chủng loại, hiệu quả sử dụng cao.
- Về phía giáo viên:
+ 100% giáo viên đã làm tốt công tác tuyên truyền với cha mẹ trẻ sưu tầm
nguyên vật liệu thiên nhiên, nguyên vật liệu tái sử dụng và tham gia làm đồ dùng
đồ chơi để phục vụ cho các hoạt động đạt hiệu quả.
+ 100% giáo viên có ý thức sưu tầm nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy

học, đồ chơi.
+ 100% giáo viên có kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi
+ 14/16 Giáo viên biết cách làm và có sự khéo léo, sáng tạo khi làm đồ
dùng đồ chơi.
+ 15/16 giáo viên sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học, đồ chơi đã làm.
- Về phụ huynh:
+ Nhận thức của phụ huynh về công tác giáo dục trẻ trong trường mầm non
được nâng lên rõ rệt, ban đại diện hội cha mẹ học sinh đã quan tâm hỗ trợ nhà
trường để có nhiều nguyên vật liệu phong phú đa dạng và hỗ trợ đắc lực cho
giáo viên trong quá trình làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ trong quá trình trẻ
tham gia các hoạt động trong trường mầm non.
+ Phụ huynh tin tưởng, yên tâm vào chất lượng của nhà trường và đưa con
đến trường đi học ngày càng đông.
- Về học sinh:
+ Từ việc tham gia làm đồ dùng đồ chơi cùng cô và được sử dụng chúng
trong các hoạt động các kỹ năng như: Kỹ năng cắt, xé dán, kỹ năng xếp hình và
thể hiện sự sáng tạo khi tham gia hoạt động ngày càng được bộc lộ rõ nét.


19

+ Đồ dùng đồ chơi mang lại sự hứng thú tích cực hoạt động của trẻ trong
khi học và chơi.
+ Trẻ biết hợp tác cùng cô và bạn chuẩn bị, làm đồ dùng, đồ chơi, trang trí,
nhóm lớp và tích cực tham gia hoạt động với đồ dùng đồ chơi đã làm được.
+ Trẻ biết đặt tên cho sản phẩm và có ý thức cao trong việc giữ gìn sản
phẩm của trẻ làm ra.
3. KẾT LUẬN, KẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
Đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo từ các nguyên vật liệu thiên nhiên, nguyên

vật liệu sẵn có ở địa phương có ý nghĩa vơ cùng to lớn trong giáo dục phát triển
toàn diện cho trẻ: Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngơn ngữ,
phát triển tình cảm xã hội và phát triển thẩm mỹ… chính vì vậy nâng cao kiến
thức kỹ năng làm đồ dùng dạy học, đồ chơi để có thật nhiều đồ dùng, đồ chơi và
đầy đủ cho trẻ học và chơi là một việc làm cần thiết, bổ ích, là trách nhiệm của
mỗi cán bộ giáo viên vì đồ dùng dạy học, đồ chơi là người bạn thân thiết, là
“sách giáo khoa” giúp trẻ học làm người. Hơn thế nữa đồ dùng dạy học và đồ
chơi cịn có mối quan hệ chặt chẽ và bổ trợ cho nhau: Đồ chơi trong một hoàn
cảnh nhất định nào đó lại được sử dụng làm đồ dùng dạy học cho trẻ và giáo cụ
trực quan cho giáo viên khi có nhu cầu và ngược lại một số đồ dùng dạy học có
thể trở thành đồ chơi cho trẻ nếu thấy phù hợp. Để chủ động đáp ứng được đồ
dùng dạy học đồ chơi cho trẻ ngày càng nhiều, phong phú, hấp dẫn và có chất
lượng. Tơi nghĩ chúng ta cần:
+ Có kế hoạch chỉ đạo chủ động làm đồ dùng dạy học, đồ chơi ngay từ đầu
năm học .
+ Thường xuyên tổ chức được chuyên đề đồ dùng dạy học, đồ chơi và cách
làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo để nâng cao kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm cho đội ngũ cán bộ giáo viên.
+ Xây dựng được ý thức tìm kiếm, nhặt nhạnh nguyên, vật liệu sẵn có từ
đội ngũ giáo viên, các bậc cha mẹ trẻ bằng nhiều hình thức làm phong phú
thêm “kho nguyên, vật liệu” sẵn có để làm đồ dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ vào
bất cứ lúc nào khi có thời gian và nhu cầu.
+ Phát động phong trào làm đồ dùng dạy học, đồ chơi tự tạo và tổ chức
được hội thi các cấp: Lớp - Trường- Huyện. Có phần thưởng xứng đáng cho
những cá nhân, tập thể làm tốt để động viên khích lệ phong trào kịp thời.
+ Làm tốt công tác tuyên truyền, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
bậc phụ huynh trong việc tìm kiếm ngun vật liệu có sẵn và tham gia làm đồ
dùng dạy học, đồ chơi tự tạo cho trẻ.
+ Chỉ đạo giáo viên sử dụng có hiệu quả nguồn đồ dùng dạy học, đồ chơi
đã làm được, đồng thời biết cách hướng dẫn trẻ chơi bằng nhiều cách chơi với

một đồ chơi, hay nói cách khác một đồ chơi mà có nhiều cách chơi sẽ tạo cơ hội
cho trẻ được trải nghiệm, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình sử dụng đồ chơi phù
hợp với mỗi trị chơi, trên cơ sở đó giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng một


20

cách nhẹ nhàng nhất, hiệu quả nhất ngay chính trong quá trình chơi, quá trình
dạy học và các hoạt động khác.
Tóm lại, ngày nay đồ dùng dạy học, đồ chơi rất đa dạng và phong phú,
cùng với sự phát triển của xã hội, của khoa học kỹ thuật, đồ dùng dạy học, đồ
chơi cũng hoàn thiện dần cùng với thời đại. Trong tương lai đồ dùng dạy học, đồ
chơi hiện đại sẽ giúp trẻ tiếp cận với những tri thức tiên tiến nhưng tôi tin tưởng
rằng với những đồ dùng dạy học, đồ chơi tự làm bằng các nguyên vật liệu thiên
nhiên, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương nó vẫn mãi được phát huy tác dụng
và được trẻ tiếp nhận một cách hứng thú đồng thời được phụ huynh đồng tình
ủng hộ - bởi nó mang phong cách riêng, tính sáng tạo riêng, ý tưởng riêng ,tình
cảm riêng, của mỗi phụ huynh, của mỗi cô giáo và của chính bản thân mỗi trẻ
chứa đựng trong những đồ dùng dạy học, đồ chơi đã làm và đã được sử dụng
một cách rộng rãi, hứng thú và có hiệu quả.
3.2. Kiến nghị đề xuất:
Đề nghị cấp trên thường xuyên mở các lớp thực hành làm đồ dùng dạy học
đồ chơi tự tạo bằng các nguyên vật liệu thiên nhiên, nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương để giáo viên có cơ hội học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, nâng cao kiến thức
kỹ năng làm đồ dùng đồ chơi ngày càng sáng tạo, độc đáo và hiệu quả hơn để đồ
dùng dạy học, đồ chơi tự làm mãi là nguồn cảm hứng vô tận, niềm đam mê và
ngày càng phát huy tác dụng của nó nhằm thoả mãn những nhu cầu và ham thích
chính đáng của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện để giúp các
trường mầm non hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong năm học này và
những năm học tiếp theo./.

Nga Sơn, ngày 25 tháng 3 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
ĐƠN VỊ
mình viết ra không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết SKKN:

Nguyễn Thị Hoài

Hoàng Thị Hạnh


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- [1] Chương trình giáo dục mầm non theo thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày
30/12/2016 Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Phần 1 trang 3
- [2], [4], [5] Bài 11 Tìm và làm đồ chơi từ nguyên vật liệu sẵn có. Tài liệu
BDTX cho giáo viên mầm non chu kỳ II- Vụ giáo dục mầm non. Trang 61 đến
trang 76.
- [3] Chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn
2016 - 2020 ngày 15/02/2017 của Bộ GD&ĐT.
- [6] Sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non 12-36
tháng tuổi, mẫu giáo bé 3-4 tuổi, mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi, mẫu giáo lớn 5-6 tuôi
của đồng tác giả: TS Lê Thu Hương,TS Trần Thị Ngọc Trâm, TS Lê Thị Ánh
Tuyết nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
- [7] Chương trình giáo dục mầm non theo thông tư 28/2016/TT-BGDĐT ngày
30/12/2016 Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
- [8] Thông tư số 36/2011/TT- BGDĐT ngày 17/8/2011 ban hành chương trình
bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non: MODULE MN 30: “Làm đồ dùng

dạy học, đồ chơi tự tạo”.
- [9] Thông tư 12/2019/TT-BGDĐT ngày 26/8/2019 ban hành chương trình bồi
dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non: M0DULE GVMN 22: Làm đồ dùng
dạy học, đồ chơi từ nguyên liệu địa phương.
- [10] Tài liệu hướng dẫn trẻ làm ĐDĐC từ nguyên vật liệu thiên nhiên của Thạc
sỹ Nguyễn Thị Bách Chiến chuyên viên vụ giáo dục mầm non.
- [11] Tài liệu Hướng dẫn tạo hình bằng nguyên vật liệu thiên nhiên của tác giả
Phạm Thị Việt Hà- Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.


22

PHỤ LỤC
Kèm tệp sáng kiến:
Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên nâng cao hiệu quả làm đồ dùng dạy học,
đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu thiên nhiên và nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương tại trường mầm non Nga Bạch, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa
1. Phụ lục 1:
- Bảng khảo sát đầu năm học:
+ Đối với giáo viên:

TT

Nội dung

1

Số giáo viên có ý thức sưu tầm
nguyên vật liệu để làm đồ dùng
dạy học, đồ chơi.

Số giáo viên có kiến thức làm
đồ dùng dạy học, đồ chơi
Số giáo viên có kỹ năng làm đồ
dùng dạy học, đồ chơi.
Số giáo viên có sự khéo léo,
sáng tạo khi làm đồ dùng dạy
học đồ chơi.
Số giáo viên sử dụng có hiệu
quả đồ dùng dạy học, đồ chơi đã
làm.

2
3
4
5

Mức độ
Tổng số
Đạt
Chưa đạt
giáo
yêu cầu
yêu cầu
viên
Số
Số
%
%
lượng
lượng

16

9

63

5

37

16

7

43.7

9

56.3

16

6

57

6

43


16

7

43.7

9

56.3

16

8

50

8

50

+ Đối với trẻ trẻ nhà trẻ:

TT

Nội dung

Tổng số
học sinh

Mức độ

Đạt
Chưa đạt
yêu cầu
yêu cầu
Số
Số
%
%
lượng
lượng

1

Kỹ năng xé, dán

61

18

29.5

43

70.5

2

Kỹ năng xếp hình

61


24

39

37

61

+ Đối với trẻ mẫu giáo:


23

Tổng số
học sinh

Mức độ
Đạt
Chưa đạt
yêu cầu
yêu cầu
Số
Số
%
%
lượng
lượng

TT


Nội dung

1

Kỹ năng cắt, xé dán

354

131

37

223

63

2

Trẻ thể hiện sự sáng tạo khi
tham gia hoạt động.

354

115

32.4

239


68.6

Trẻ nói lên được ý tưởng sản
phẩm của trẻ

354

116

32.7

238

67.3

354

117

33

237

67

354

175

49.4


179

50.6

3
4

Trẻ biết đặt tên cho sản phẩm

5

Trẻ biết bảo vệ sản phẩm trẻ
làm ra

- Bảng khảo sát cuối năm học:
+ Đối với giáo viên:
TT

Nội dung

1

Số giáo viên có ý thức sưu tầm
nguyên vật liệu để làm đồ dùng
dạy học, đồ chơi.
Số giáo viên có kiến thức làm
đồ dùng dạy học, đồ chơi
Số giáo viên có kỹ năng làm đồ
dùng dạy học, đồ chơi.

Số giáo viên có sự khéo léo,
sáng tạo khi làm đồ dùng dạy
học đồ chơi.
Số giáo viên sử dụng có hiệu
quả đồ dùng dạy học, đồ chơi đã
làm.

2
3
4
5

Mức độ
Tổng số
Đạt
Chưa đạt
giáo
yêu cầu
yêu cầu
viên
Số
Số
%
%
lượng
lượng
16

16


100

0

0

16

16

100

0

0

16

16

100

0

0

16

14


85.7

2

14.3

16

15

93.7

1

6.3

+ Đối với trẻ trẻ nhà trẻ:
TT

Nội dung

Tổng số

Mức độ


×