Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số giải pháp giúp trẻ 5 6 tuổi lớp mẫu giáo a2 trường mầm non lâm xa – thị trấn cành nàng, học tốt môn làm quen với toán theo hướng giáo dục lấy trẻ làm trung tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.36 KB, 23 trang )

1

1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài.
Chủ tịch Hồ chí Minh mn vàn kính u của chúng ta, lúc sinh thời
người đã nói “Non sơng việt nam có được vẻ vang hay khơng, dân tộc việt nam
có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay khơng, chính là nhờ vào
việc học tập của các cháu”(Chủ Tịch Hồ Chí Minh). Trẻ em những mầm non
tương lai của đất nước, đất nước có giàu mạnh, phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ
tương lai. Chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt ngay từ khi trẻ còn ở
độ tuổi Mầm non, vậy người giáo viên Mầm non ngoài việc hướng dẫn cho trẻ
vui chơi, cho ăn, cho ngủ, giáo dục trẻ trở thành những đứa trẻ lễ phép ngoan
ngỗn thơi chưa đủ, mà nhiệm vụ của người giáo viên Mầm non còn phải trang
bị cho trẻ những kiến thức ban đầu thông qua các hoạt động, trẻ được học mà
chơi chơi mà học. Từ đó dần hình thành nhân cách của trẻ và cũng từ đó trẻ
được tiếp cận với những kiển thức từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó.
Trong các hoạt động của giáo dục mầm non hoạt động làm quen với
toán(LQVT) đóng vai trị quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức biểu
tượng toán ban đầu cho trẻ trước khi vào trường tiểu học, đặc biệt trong việc
chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1, hình thành cho trẻ những kiến thức, kỹ năng về
tập hợp về số lượng, hình dạng, kích thước, định hướng khơng gian.v.v…bồi
dưỡng cho trẻ khả năng tìm tịi, quan sát, so sánh, rèn luyện phương pháp tư duy,
phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nếu ngay từ khi học mẫu giáo, trẻ đã nắm vững các
khái niệm đơn giản về số lượng, kích thước, hình dạng, định hướng khơng gian,
thì sau này trẻ sẽ vững vàng, tự tin khi tiếp nhận những kiến thức mơn tốn học
ở lớp một. Hoạt động LQVT là hoạt động học địi hỏi độ chính xác, lơgích cao.
Để giúp trẻ lĩnh hội các kiến thức một cách đơn giản nhưng hiệu quả nhất. Hoạt
động LQVT phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Môi trường, cách tiếp cận, cơ hội,
phương pháp.v.v..Dạy trẻ LQVT là giúp trẻ hình thành một thế giới khoa học,
hình thành những kỹ năng, thói quen trong hoạt động học tập như kỹ năng sử
dụng đồ dùng học tập, kỹ năng phát biểu, chú ý lắng nghe cô giáo giảng bài. Trẻ


được cùng nhau hoạt động tập thể, cùng nhau kết thúc cơng việc. Góp phần giáo
dục đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ, hình thành những yếu tố đầu tiên về nhân cách
cho trẻ.
Song trên thực tiễn giáo dục mầm non hiện nay cho thấy, việc hình thành
biểu tượng tốn cho trẻ ở trường mầm non theo hướng lồng ghép tích hợp chưa
được giáo viên quan tâm đúng mức, chưa chú trọng xây dựng môi trường học
tập cho trẻ đồng thời ít tạo cơ hội cho trẻ được luyện tập. Vì vậy hiệu quả của
quá trình giáo dục đạt chưa cao. Nội dung lồng ghép, đan xen còn rời rạc chưa
hồ quyện vào nhau do vậy dẫn đến tình trạng trẻ khó tiếp thu kiến thức, khơng
hứng thú trong giờ học. Bên cạnh đấy khả năng truyền đạt kiến thức cũng như
thiết kế một hoạt động theo hướng mở chưa sáng tạo. Sử dụng phương pháp
chưa linh hoạt còn dập khuôn theo hướng thụ động. Các biện pháp dạy học chưa
được giáo viên sử dụng phù hợp. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của hoạt động
làm quen với toán và thực tiễn nêu trên, tôi lựa chọn nghiên cứu: “Một số giải
pháp giúp trẻ 5- 6 tuổi lớp mẫu giáo A2 Trường mầm non Lâm Xa – Thị Trấn


2

Cành Nàng, học tốt mơn làm quen với tốn theo hướng giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm”.
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Tìm ra những biện pháp tốt nhất, giúp trẻ 5-6 tuổi tiếp thu kiến thức cơ
bản chính xác và bền vững về biểu tượng toán sơ đẳng một cách hiệu quả.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Thực trạng dạy trẻ làm quen với toán tại lớp A2 trường Mầm non lâm xa
- Một số giải pháp giúp Trẻ 5- 6 tuổi lớp Mẫu giáo lớn A2 Trường mầm
non Lâm Xa, thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước học tốt môn LQVT.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:Tham khảo nhiều tài

liệu qua sách chăm sóc giáo dục mầm non.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn điều tra khảo sát thực tế: Khảo sát
khả năng nhận thức của trẻ 5-6 tuổi đối với các nội dung liên quan với toán.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát, đàm thoại:Quan sát đánh giá trẻ sau khi áp dụng
biện pháp làm quen với toán.
- Phương pháp Thực hành trải nghiệm các biện pháp tại lớp mẫu giáo A2
Trường Mầm Non Lâm Xa- Thị Trấn Cành Nàng.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Thực hiện chương trình GDMN hiện nay với phương pháp dạy học: “ Lấy
trẻ làm trung tâm” nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của trẻ.Thơng
qua hoạt động làm quen với tốn trẻ được trải nghiệm, được khám phá, tìm tịi
sáng tạo, được tự do giao tiếp, vui chơi, hợp tác, chia sẽ, dễ dàng tiếp thu kiến
thức, nhằm tăng thêm vốn kinh nghiệm, đã được giáo viên vận dụng để tổ chức
các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.
Tốn học đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của trẻ, giúp
trẻ làm quen với thế giới xung quanh, ngay từ đầu các cháu nhỏ đã tiếp xúc với
người lớn và thế giới đồ vật đa dạng, tất cả những thứ đó đều ảnh hưởng rất lớn
đến nhận thức của trẻ, dần dần trẻ có được những khái niệm giản đơn nhất về thế
giới xung quanh có nhu cầu muốn tìm tịi, phám phá về tính chất, đặc điểm của
sự vật hiện tượng, tập hợp các số lượng, hình dạng, màu sắc, kích thước, vị trí,
sắp xếp của chúng trong khơng gian…qua các hoạt động đa dạng dưới sự hướng
dẫn của người lớn. Khi chơi với đồ vật trẻ muốn biết tại sao vật này lăn được
nhưng vật kia lại không lăn được, hình dạng, kích thước và chất liệu của chúng
khác nhau như thế nào? Hoặc trẻ muốn biết từng nhóm đồ vật có bao nhiêu vật
và cách so sánh các nhóm với nhau trẻ muốn biết nhóm này có số lượng nhiều
hay ít hơn nhóm kia bắt đầu trẻ muốn biết làm thế nào để cho hai nhóm được
bằng nhau.v.v.. Từ đó trong tư duy của trẻ đã nảy sinh khái niệm thêm bớt một
cách giản đơn nhất về phép cộng, trừ của bậc tiểu học. Xuất phát từ nhu cầu đó

mà việc cho trẻ làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng là nhu cầu cần thiết. Làm
thế nào để dạy trẻ những khái niệm về toán học mang tính chất trừu tượng
nhưng lại phải phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Đòi hỏi giáo viên phải
biết sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, tạo môi trường cho trẻ hoạt


3

động giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng nhằm hình thành những kiến thức ban
đầu về tốn học cho trẻ.
2.2 Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Trường mầm non Lâm Xa là trường có khn viên rộng rãi thống mát,
sân trường có cây xanh bóng mát, có bồn hoa, vườn rau xanh, tạo điều kiện để tổ
chức cho trẻ hoạt động vui chơi và học tập.
- Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ, các phòng học được xây
dựng kiên cố theo quy định, cơng trình vệ sinh đảm bảo cho cơng tác chăm sóc
giáo dục.
- Phịng giáo dục, lãnh đạo địa phương, phụ huynh quan tâm, tạo mọi điều
kiện, tranh thủ mọi nguồn đầu tư để xây dựng, cải tạo, mua sắm bổ sung cơ sở
vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học đồ chơi cho nhà trường.
- Trường có đội ngũ BGH trẻ có năng lực lãnh đạo tốt, giáo viên nhiệt tình,
năng động có tâm huyết với nghề.
- Nhà trường chỉ đạo thực hiện chương trình theo thông tư 28 với phương
trâm lấy trẻ làm trung tâm.
- 100% giáo viên có trình độ trên chuẩn, đây là một điều kiện thuận lợi để
tơi có thể học hỏi thêm các kinh nghiệm của đồng nghiệp trong quá trình nghiên
cứu đề tài của mình.
2.2.1. Thuận lợi
Lớp học thơng thống có tương đối đầy đủ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
hoạt động làm quen với tốn, ln nhận được sự chỉ đạo sát sao của Ban giám

hiệu nhà trường.
Bản thân tơi đã có trình độ chun mơn vững, yêu nghề mến trẻ, chịu khó
học hỏi và trực tiếp giảng dạy cho trẻ làm quen với toán theo chương trình chăm
sóc giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi.
Trẻ của lớp được phân theo đúng độ tuổi và đã được làm quen với các
biểu tượng tốn: chữ số, hình dạng, kích thước......ở các độ tuổi 3-4 tuổi.
Đa số trẻ có thể đếm được trên đối tượng trong phạm vi 10, nhận biết gọi
tên được 5 chữ số đầu, nhận biết được các hình cơ bản, kích thước to nhỏ, cao
thấp...... Trẻ ngoan, có nề nếp học tập.
Bên cạnh đó một số phụ huynh cũng rất quan tâm đến việc học của trẻ.
2.2.2. Khó khăn tồn tại:
- Đồ dùng đồ chơi cho trẻ thực hành xếp tương ứng, đo lường, tách gộp
đối tượng đang còn thiếu, chưa phong phú đa dạng, chưa hấp dẫn trẻ.
- Một số trẻ khả năng thực hành về định hướng trong khơng gian cịn hạn
chế, chưa tích cực tham gia vào hoạt động.
- Lớp có 1 trẻ bị bệnh chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và ngôn ngữ, nên
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập chung của lớp.
- Đa số phụ huynh chỉ quan tâm đến trẻ nhận biết chữ số và đếm, chưa
quan tâm đến mối quan hệ về số lượng và những phép biến đổi đơn giản trong
phạm vi 10.
- Nhiều trẻ đang gặp khó khăn trong việc thực hành đo lường và định
hướng trong không gian.


4

- Phương pháp giảng dạy của giáo viên đang còn dập khuôn, chưa sáng
tạo, chưa hấp dẫn và chưa tập chung được sự chú ý tích cực của trẻ.
2.2.3. Nguyên nhân:
- Đồ dùng dạy học chưa sáng tạo còn phụ thuộc vào các đồ dùng của nhà

trường. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức hoạt động làm quen với tốn
đang cịn rời rạc, ảnh hưởng tới q trình trẻ thao tác thực hành trên đồ vật, trên
đối tượng, chưa gây hứng thú đối với trẻ, trẻ dễ bị phân tán chú ý, mức độ hứng
thú không cao đẫn đến tiết dạy đạt kết quả chưa cao.
- Giáo viên chưa phân loại được mức độ nhận biết của trẻ đối với từng
biểu tượng toán học (Biểu tượng số lượng và số, biểu tượng về kích thước, biểu
tượng về hình dạng, biểu tượng về không gian)
- Việc tổ chức các hoạt động làm quen với tốn nhìn chung chưa phong
phú, cịn mang tính rập khn. Giáo viên nói nhiều, chủ yếu dùng các phương
pháp truyền thống, chưa phát huy được phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung
tâm, chưa phát huy được tính tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt động.
- Môi trường lớp học được thay đổi thường xuyên theo từng chủ đề nhưng
nội dung và hình thức chưa phong phú, hấp dẫn đối với trẻ.
- Vẫn còn một số phụ huynh chưa nhận thức hết được yêu cầu và tầm
quan trọng của việc cho trẻ làm quen với toán. Chưa coi trọng việc học tập của
trẻ, cho con đi học không đúng giờ, chưa chuyên cần, coi nhẹ việc học tập của
con với suy nghĩ các bé đến trường mầm non chủ yếu là vui chơi và ăn ngủ vì
vậy thường cho con nghỉ học tùy tiện nên ít nhiều làm ảnh hưởng tới kết quả học
tập của lớp.
2.2.4. Khảo sát thực tế (Tháng 10 năm 2020) trước khi áp dụng các
giải pháp.
- 23/23 trẻ của lớp đã được học qua lớp 3 tuổi, 4 tuổi, trẻ đã được hình
thành và làm quen với các biểu tượng tốn. Sau khi nhận lớp, nắm bắt tình hình
của lớp, tôi đã tiến hành khảo sát 23 trẻ 5- 6 tuổi ở lớp A2 do tôi phụ trách kết
quả như sau:
Bảng1

Kết quả khảo sát
Số trẻ đạt
Số trẻ chưa đạt

SL
%
SL
%

TT

Nội dung khảo sát

Số
trẻ

1

Kỹ năng đếm, nhận biết số
lượng, chữ số, tách gộp đối
tượng trong phạm vi yêu cầu

23

15

65,2

8

34,8

Nhận biết về kích thước và
kỹ năng thực hành đo lường


23

10

43,4

13

56,6

23

14

60,8

9

39,2

23

9

39,1

14

60,9


2
3
4

Khả năng nhận biết hình
dạng và nhận biết dấu hiệu
nổi bật của từng hình dạng.
Khả năng định hướng trong
khơng gian của trẻ.


5

Nhìn vào kết quả bảng trên ta thấy, số trẻ có kỹ năng đếm, nhận biết số
lượng, chữ số, tách gộp đối tượng trong phạm vi yêu cầu và khả năng nhận biết
hình dạng và nhận biết dấu hiệu nổi bật của từng hình đạt ở mức khá. Như vậy ở
hai nội dung này đa số trẻ dễ dàng tiếp nhận và ghi nhớ được lâu hơn, số trẻ còn
lại có thể chưa được rèn luyện nhiều hoặc sự tập chung của trẻ chưa cao, hay có
thể phương pháp hướng dẫn của cô chưa hấp dẫn chưa thu hút được trẻ? Bên
cạnh đó việc nhận biết về kích thước và kỹ năng thực hành đo lường và khả
năng định hướng trong không gian số trẻ đạt thấp hơn. Với hai nội dung này số
trẻ chưa đạt rơi nhiều vào những trẻ nhút nhát, thiếu tự tin và những trẻ hiếu
động chưa tập chung chú ý, ở đây có thể đa số trẻ đã bị quên đi kiến thức, hoặc
nội dung này không được thường xuyên sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, hay
người lớn chưa quan tâm đến điều này?
Làm thế nào để đưa trẻ vào hoạt động với toán một cách tự nguyện, hứng
thú, tích cực, nắm vững các kiến thức và kỹ năng thực hành, nâng chất lượng trẻ
đạt tốt khá lên và giảm trẻ yếu chưa đạt xuống mức thấp nhất. Tạo cho trẻ được
sự hứng thú thực sự khi tham gia hoạt động. Với suy nghĩ đó tơi đã mạnh dạn

nghiên cứu và đưa vào áp dụng một số giải pháp giúp trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi học
tốt hoạt động LQVT góp phần vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục
trẻ tại lớp trong năm học 2020-2021.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vần đề..
2.3.1. Giải pháp 1: Tự học, tự bồi dưỡng về phương pháp dạy học lấy
trẻ làm trung tâm. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý, phân loại đối tượng trẻ.
Tự học tự bồi dưỡng là biện pháp nâng cao năng lực, bổ sung kiến cho
bản thân một cách bền vững nhất. Nhận thức được điều này nên bản thân tôi
luôn nêu cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bằng cách
nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở tất các các độ tuổi, đặc biệt
là lĩnh vực phát triển nhận thức trong đó tơi quan tâm đặc biệt đến phần hướng
đẫn trẻ làm quen với các biểu tượng toán. Bên cạnh đó tơi nghiên cứu các mơ
đun chun đề bồi dưỡng thường xuyên, sách tạp chí giáo dục mầm non hay các
sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp, đặc biệt là chuyên đề “Xây dựng môi
trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” và “ Hỗ trợ cha mẹ chuẩn bị cho trẻ sẵn
sàng vào lớp một”. Thường xuyên truy cập Internet để tìm thêm các tài liệu cũng
như các giáo án hay để kham thảo. Để từ đó tìm ra cho mình các hình thức,
phương pháp mới nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ khi tham gia vào q trình học
tập. Thơng qua các buổi sinh hoạt chun môn tôi thường xuyên được trao đổi
với đồng nghiệp, ghi chép lại những ý kiến hay sáng tạo trong quá trình giảng
dạy đặc biệt là mơn tốn. Ví dụ: Cách gây hứng thú bằng hình thức kể chuyện
để dẫn dắt vào bài dạy, cách chuyển tiếp bằng các câu đồng dao, cách tổ chức trị
chơi “Đi tìm kho báu” cách tạo nhóm thêm bớt bằng hình ảnh PowerPoint…
Bên cạnh đó tơi chuẩn bị tích cực cho việc tham gia hội thi giáo viên giỏi cấp
trường theo thông tư 22. Sưu tầm các giáo án hay của đồng nghiệp để tích lũy
chuyên môn nâng cao kinh nghiệm và kiến thức cho bản thân đặc biệt là các
giáo án toán về số lượng, đo lường, hình dạng, định hướng khơng gian ở tất cả
các độ tuổi... Như vậy từ việc hiểu biết chính xác về số lượng, con số, về đo
lường, định hướng khơng gian, thời gian, hình dạng đó là những điều mà mỗi



6

giáo viên cần nắm vững để chủ động, sáng tạo, linh hoạt tìm ra những phương
pháp dạy học sáng tạo nhất, kích thích trẻ tích cực hoạt động mang lại hiệu quả
cao trong dạy trẻ làm quen với toán.
Song song với việc tự học tự bồi dưỡng với phương pháp dạy học lấy trẻ
làm trung tâm, thì tơi ln chú trọng vấn đề nắm vững đặc điểm tâm sinh lý trẻ,
năm bắt mức độ nhận biết, khả năng thực hành và thái độ, hành vi của trẻ trong
học tập, để từ đó phân loại chất lượng trẻ, tìm ra các phương pháp và cách thức
tổ chức một tiết học sao tất cả các trẻ đều tham gia tích cực vào hoạt động. Vì
vậy sau tiến hành khảo sát chất lượng làm quen với toán, căn cứ vào kết quả và
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ tôi đã phân trẻ lớp tơi thành 3 nhóm đối tượng và áp
dụng cách hướng dẫn phù hợp với từng nhóm để phát huy được hết khả năng
của trẻ thu hút được trẻ tham gia vào hoạt động.
Đối với nhóm trẻ tích cực tham gia hoạt động (đây là những cháu mạnh
dạn, nhanh nhẹn ln tị mị, ham học hỏi, có tính sáng tạo và thường xuyên giao
tiếp với mọi người): Tôi luôn tạo mọi tình huống buộc trẻ phải đặt câu hỏi, suy
nghĩ cách điều chỉnh, bổ sung, tìm ra cách xử lý các tình huống, cho trẻ trải
nghiệm theo các cách khác nhau và thường đặt những câu hỏi thế nào? Vì sao
con biết ? Con làm cách nào để có được kết quả đó ? Cho trẻ tự đốn kết quả
trước khi thực hiện hay kể lại những bước trẻ đã làm để được kết quả như vậy,
từ đó trẻ có cơ hội thể hiện khả năng diễn đạt của mình trả lời mạch lạc rõ ràng
câu hỏi của người khác hỏi. Đối với nhóm trẻ này việc tiếp nhận các nội dung về
số đếm, đo lường nhận biết hình dạng.... sẽ nhanh hơn, chỉ tạo cơ hội cho trẻ là
trẻ sẽ bị lơi cuốn vào hoạt động.
Đối với nhóm trẻ ít tham gia hoạt động hoặc có tham gia nhưng chưa
nhiệt tình (những cháu nhóm này chỉ trả lời khi cơ giáo hỏi, tính tự giác chưa
cao): Tơi ln quan tâm lắng nghe ý kiến của trẻ một cách cởi mở, khơng vội
vàng nơn nóng mà nhẹ nhàng động viên sự cố gắng của trẻ và kết hợp với phụ

huynh để tạo cho trẻ sự thoải mái và luôn được trò chuyện, trao đổi với bạn bè
và mọi người, rèn luyện thêm cho trẻ vào những lúc rảnh rỗi, hay mọi lúc mọi
nơi. Tơi ln cố gắng gần gũi trị chuyện với trẻ để biết được đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ, tổ chức khảo sát chất lượng trên trẻ hàng ngày, theo dõi hoạt động của
từng cá nhân trẻ, tổ chức cho trẻ hoạt động thường xuyên, theo hình thức đồng
đội. Trong mỗi đề tài làm quen với toán khi tổ chức hoạt động tơi thường có
phần luyện tập dưới dạng trị chơi, ở phần này tơi thường ưu tiên cho nhóm trẻ
chưa có tính tự giác cao. Trẻ thường xuyên được tham gia sẽ khắc sâu kiến thức
tạo cho trẻ sự mạnh dạn tự tin và thích thú khi làm đúng u cầu của cơ.
Đối với nhóm trẻ lười hoạt động ít giao tiếp với bạn bè (là những trẻ còn
rụt rè e ngại khi trả lời yêu cầu của người khác và những cháu bị bệnh): Tôi luôn
để ý và quan tâm đến trẻ nhiều hơn, gợi ý để trẻ được làm và trả lời, mặt khác
tôi động viên cho trẻ được hoạt động tích cực ở mọi thời điểm trong ngày, biểu
dương khen thưởng trẻ kịp thời trước mặt các bạn để trẻ thích thú. Đối với nhóm
trẻ này cần dùng tình cảm nhiều hơn, đặc biệt những trẻ bị bệnh, sự gần gũi của
cô giáo và các bạn sẽ giúp trẻ hịa đồng, khơng bị tự ti. Để giúp trẻ nhận biết
được các con số, số lượng, tách gộp..... thì giáo viên phải thật kiên trì, thường


7

xuyên liên tục. Việc thực hành đo lường hay nhận biết mối quan hệ hơn kém, số
thứ tự trong dãy số .... bởi vì trẻ sẽ gặp khó khăn hơn những trẻ khác.
Ví dụ: Cho trẻ So sánh chiều dài của 3 đối tượng. Tôi chia cho mỗi trẻ 3
băng giấy rồi yêu cầu trẻ đo theo khả năng của trẻ sau đó tơi hỏi trẻ kết quả đo.
Rồi khen ngợi trẻ, với những trẻ chưa làm được tôi cho trẻ thực hành đo lại và
chỉ vào phần thừa ra rồi cho trẻ trả lời kết quả, những trẻ không biết cách đo thì
tơi hướng dẫn, gợi ý cho trẻ cách đo rồi yêu cầu trẻ thực hiện lại. Với những trẻ
chậm tôi luôn sắp ngồi cạnh những trẻ nhanh nhẹn hoạt bát để cho trẻ học hỏi
bạn.

Từ việc học hỏi đúc rút kinh nghiệm, năm bắt được tâm sinh lý của trẻ,
phân trẻ ra từng nhóm từ đó đã giúp tơi tìm ra cách hướng dẫn trẻ phù hợp với
từng đối tượng. Lấy trẻ làm trung tâm cho từng hoạt động được tổ chức. Trẻ
tham gia vào các hoạt động làm quen với toán một cách hứng thú, đặc biệt số trẻ
nhút nhát, thiếu tự tin đã mạnh dạn trao đổi khi chưa làm được theo yêu cầu, khả
năng tiếp nhận kiến thức của trẻ có sự thay đổi đáng kể.
2.3.2. Giải pháp 2: Xây dựng môi trường học tập theo hướng mở,
Làm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo là điều kiện cần thiết tạo cơ hội cho trẻ tham
gia vào hoạt động nhận thức một cách tích cực.
Mơi trường học tập là yếu tố rất quan trọng trong quá trình hoạt động trải
nghiệm nhằm thoả mãn nhu cầu của trẻ. Đây là nguyên tắc dạy học quan trọng
để hình thành biểu tượng tốn ban đầu cho trẻ mầm non. Với cách bài trí các góc
chơi, sử dụng hình ảnh tạo ấn tượng sẽ giúp trẻ nhận ra một số điều gì đó khác
thường liên quan đến tốn học, buộc trẻ phải đặt câu hỏi, suy nghĩ cách điểu
chỉnh bổ sung hợp lý. Chính vì vậy tơi ln cố gắng trang trí lớp học, mơi
trường xung quanh làm sao vừa đẹp lại có giá trị sử dụng để khi nhìn vào đó trẻ
dễ học, dễ lấy, dễ sử dụng, như đếm, thêm bớt, màu sắc, hình dạng của các đồ
vật. Đến mổi tiết học chính hoặc hoạt động góc trẻ có thể lấy vừa học và chơi
theo chủ đề cô đã dạy, để trẻ được ôn và trải nghiệm lại. Đây cũng là nơi mà trẻ
được giúp đỡ để thu nhận một khối lượng kiến thức và kỹ năng nền tảng cần
thiết cho việc học sau này ở phổ thơng. Vì thế giáo viên ln sẵn sàng đón nhận
tất cả trẻ đến với mình, dành thời gian quan tâm đến từng trẻ, từng nhóm và cả
lớp. Việc bố trí sắp xếp không gian, đồ dùng đồ chơi hợp lý là cách tạo cơ hội
để phát triển tư duy, phát triển các kỹ năng nhận thức xã hội, phát triển ngôn
ngữ, hứng thú trong học tập và khám phá thế giới xung quanh cho trẻ. Bên cạnh
đó tơi đã tận dụng những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học, phục vụ cho
hoạt động. Đổi mới cách trang trí lớp tạo mơi trường tốn theo hướng mở phù
hợp từng chủ đề, tạo cơ hội để trẻ hoạt động trải nghiệm với đồ dùng trang trí để
lĩnh hội kiến thức. Các đồ dùng, đồ chơi, hình ảnh trang trí khơng dán cố định
mà được bố trí trẻ có thể dễ dàng lấy sử dụng theo ý thích, ý tưởng của trẻ.

Ví dụ: Góc tốn được thiết kế có các nội dung chơi được thay đổi theo
từng chủ đề. Có nhiều đồ chơi được làm từ nguyên vật liệu khác nhau, màu sắc
hấp dẫn như: nắp chai, hoa, vòng nhựa nhỏ, hạt nhựa xâu, hình khối, chữ số, các
loại rau, hoa, quả, con vật….để thu hút trẻ tham gia nhằm củng cố, ôn luyện, tạo
cơ hội cho trẻ học tập như: giúp trẻ so sánh chiều cao của 3 đối tượng, phân biệt
nhiều hơn ít hơn, nhận biết phía trên phía dưới, bên trong bên ngồi, phía trước


8

phía sau, ghép đơi, nhận biết các hình, tìm và ghép hình tương ứng, sắp sếp theo
quy tắc, đếm theo khả năng, đếm và nhận biết số, so sánh nhiều hơn ít hơn, tách
gộp.....Tất cả những mảng tường đều mang tính mở, từ đồ dùng cho đến nguyên
vật liệu, hệ thống giá đựng học liệu dễ lấy, dễ tìm, dễ cất để trẻ được thoải mái
hoạt động, trải nghiệm thực hành theo khả năng của trẻ, và được thay đổi phù
hợp theo từng chủ đề. Cô cắt dán các con vật, các loại rau củ quả, các phương
tiện giao thông.....tất cả các loại đồ dùng đồ chơi trẻ có thể sử dụng cho nhiều
hoạt động, có thể chơi ở góc xây dựng, có thể chơi ở góc gọc tập, chơi ở góc bán
hàng, hay sử dụng trong hoạt động học, đếm số lượng, tách gộp, so sánh ....

(Hình ảnh cho trẻ hoạt động trải nghiệm với tốn)
Bên cạnh tạo mơi trường mở thì việc làm đồ dùng, đồ chơi tạo mơi trường
học tốn phong phú đa dạng cho trẻ là việc làm cần thiết đối với mổi giáo viên
trong quá trình giảng dạy, để làm quen với tốn cần rất nhiều đồ dùng, đồ chơi
cho các tiết dạy. Bởi tư duy của trẻ mẫu giáo lớn đang còn mang tư duy trực
quan hành động chuyển dần sang tư duy lo gic. Trẻ nhận biết đối tượng bằng các
dấu hiệu đặc trưng, hình dạng kích thước và các biểu tượng số lượng cụ thể, rõ
ràng. Vì vậy để giúp trẻ có khả năng tư duy, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái
qt thì giáo viên ngồi viêc cần nắm vững phương pháp, hình thức lên lớp và
đặc biệt phải có đồ dùng trực quan để dạy trẻ. Đồ dùng, đồ chơi là chiếc cầu nối

giữa trẻ và hoạt động nhận thức, cho trẻ hoạt động với đồ dùng, đồ chơi là cách
thức giúp trẻ lĩnh hội kinh nghiệm sống sau này. Một hoạt động học không thể
đạt kết quả cao nếu như thiếu đồ dùng giảng dạy. Do đó việc lựa chọn đồ dùng
phù hợp với tiết dạy là vô cùng quan trọng.
Ví dụ 1: Ở hoạt động làm quen với mơn tốn “Tách gộp trong phạm vi 8”
ở chủ đề thế giới thực vật tôi đã làm nhiều loại quả như: Táo, xoài, đu đủ, cam,
dâu tây, các loại củ cà rốt, khoai, cà chua, bí đỏ.., từ những nguyên vật liệu sưu
tầm, dễ kiếm như lõi giấy vệ sinh, lõi chỉ, vỏ hộp sữa chua, hay những quả bóng
hỏng, xốp màu, giấy màu, bút màu, để tạo thành đồ dùng phù hợp với tiết dạy
cho hoạt động làm quen với mơn tốn giúp trẻ tích cực tham gia hoạt động.


9

(Hình ảnh làm đồ dùng đồ chơi bằng những nguyên liệu sưu tầm để phục vụ
cho dạy mơn tốn)
Ví dụ 2: Hoạt động “Dạy trẻ nhận biết phân biệt khối cầu, khối vuông” ở
chủ đề “Tết và mùa xuân” bằng nguyên vật liệu là vỏ hộp bánh, xốp, đề can,
giấy màu tơi làm những chiếc bánh chưng, bánh gối, giị, nem chua..những món
ăn đặc sản của người Việt Nam trong ngày tết Nguyên đán. Thông qua hoạt
động trẻ biết tên gọi, đặc điểm của một số loại bánh như bánh chưng, bánh dày,
bánh quy, nem chua, bánh cốm….có dạng các khối, giúp trẻ nhận biết phân biệt
được khối cầu, khối vng, khối trụ..
Các đồ dùng trên có thể được sử dụng trong các hoạt động khác nhau: Nhận
biết, tạo nhóm, thêm bớt, tách gộp trong phạm vi 10, sắp xếp theo quy tắc, so
sánh chiều dài của 3 đối tượng, so sánh chiều cao của 3 đối tượng, gây hứng thú
đối với trẻ.
Với việc xây dựng mơi trường học tốn một cách phong phú đa dạng, bên
cạnh đó tích cực làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các tiết học tốn. Trẻ của lớp
tơi đã rất thích thú khám phá các đồ dùng đồ chơi và hào hứng khi được chơi với

các đồ dùng đó. Mơi trường xung quanh đã ln tạo ra cho trẻ sự tị mị, những
trẻ nhút nhát ít hoạt động đã khơng cịn ngồi một chỗ mà thường xuyên tương
tác với đồ dùng đồ chơi ở trong các góc, hay trao đổi với bạn bè và cơ giáo
những điều trẻ chưa biết. Từ đó nhận thức của trẻ về các biểu tượng toán đã
nhanh hơn, nhớ lâu hơn, bền vững hơn.


10

2.3.3. Giải pháp 3: Đổi mới hình thức tổ chức. Sử dụng các phương
pháp linh hoạt sáng tạo trong việc dạy trẻ làm quen với toán.
Đổi mới phương pháp hướng dẫn, thay đổi hình thức tổ chức sinh động
hấp dẫn, sáng tạo là cách thức tối ưu, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động sáng tạo của trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận kiến thức một cách nhẹ nhàng, đặc biệt
là cách trẻ có thể tự học. Bên cạnh đó phát huy được tinh thần hợp tác, tương
trợ, tơn trọng lẫn nhau, giúp trẻ học trong sự thoải mái, hứng thú vui vẻ. Cô chỉ
là người gợi mở và khơng làm hộ trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ đo chiều dài của một quyển vở, đối với những trẻ
chậm. Cô giáo cần gợi mở: Con có thể bắt đầu đặt thước từ 1 góc của quyển vở.
Hay với trẻ nhút nhát cơ động viên khuyến khích trẻ: cơ nghĩ con có thể làm tốt
giống như bạn Thanh Nhàn đấy.
Tơi ln vận dụng phương pháp dạy trẻ làm quen với toán một cách linh
hoạt tích cực, tránh nhàm chán cho trẻ cũng như mang lại cho trẻ sự hứng thú
trong học tập, háo hức chờ đợi những gì sắp diễn ra trong giờ học. Để làm tốt
điều này ngoài việc phải nắm vững khả năng nhận thức của trẻ trong lớp mình
về các biểu tượng tốn ở mức độ nào? Từ đó lựa chọn nhóm phương pháp cho
phù hợp. Tơi thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng chủ
đề. Tùy nội dung của bài dạy cũng như từng chủ đề, tơi lựa chọn nội dung tích
hợp các bộ môn khác nhau cùng liên quan đến chủ đề để làm nổi bật và phong
phú thêm hoạt động.

*Lựa chọn nội dung, sắp xếp nội dung vào các chủ đề:
Như chúng ta biết đối với bộ môn làm quen với tốn ln địi hỏi mức độ
chính xác cao và có tính phát triển từ cao đến thấp, từ đơn giản đến phức tạp vậy
nên việc suy nghĩ cân nhắc, lựa chọn làm sao để phù hợp với khả năng của trẻ
lớp mình, cũng như phù hợp với từng giai đoạn, từng chủ đề là rất quan trọng.
Ví dụ: Chủ đề bản thân có 4 chủ đề nhánh tơi lựa chọn 4 đề tài phù hợp với
chủ đề như sau để dạy trẻ: Dạy trẻ xác định phía trên, phía dưới, phía trước, phía
sau của đối tượng có sự định hướng. So sánh chiều cao của 3 đối tượng.
Chủ đề động vật tôi chọn các đề tài sau: So sánh phát hiện quy tắc sắp xếp
và sắp xếp theo quy tắc. Đếm đến 8, đếm theo khả năng
Chủ đề nước và hiện tượng tự nhiên: Đo dung tích của các vật so sánh và
diễn đạt kết quả. Đếm đến 10, đếm theo khả năng…Cứ như vậy tùy từng giai
đoạn, theo chương trình giáo dục và đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ, để tôi
chọn đề tài phù hợp để làm sao không cao cũng không thấp quá so với sự phát
triển và khả năng của trẻ lớp tơi
*Lựa chọn hình thức tổ chức và sử dụng các phương pháp dạy học tích cực:
Khơng những lựa chọn nội dung mà để tiết dạy thành cơng thì lựa chọn
hình thức tổ chức tiết học là một trong những yếu tố quan trọng, cần thiết để
giúp trẻ nắm vững kiến thức và biết được trẻ hiểu bài đến đâu, cũng là cách giúp
trẻ tập chung chú ý có chủ định. Vì vậy cách lựa chọn hình thức tổ chức của giáo
viên phải rất phong phú: Như gây hứng thú cho trẻ, bằng các hình thức kể
chuyện, hoặc trị chơi.Ví dụ đề tài “Đếm đến 8 và đếm theo khả năng” tơi sử
dụng hình thức kể chuyện sáng tạo: Vào một buổi sáng đẹp trời thỏ mẹ nói với
các con, hơm nay là sinh nhật mẹ các con hãy vào rừng nhổ cho mẹ ít cà rốt.


11

Đường xa nên các con phải đi cẩn thận. Vậy tất cả các con cùng đi hái cà rốt
nhé! Các con đã nhổ cho mình được mấy củ cà rốt ? các con xếp tương ứng 1-1

nào? ( Cô cho trẻ xếp và đếm số thỏ và củ cà rốt )
Trong q trình dạy tốn khơng những ln thay đổi hình thức gây hứng
thú vào bài mà tơi tổ chức dạy trẻ học theo nhóm, học theo tổ 2 bạn ngồi dối
diện cùng nhau học, cùng nhau trao đổi kiến thức và sửa sai cho nhau để trẻ
được thực hành, trải nghiệm trên đồ vật, đồ chơi nhiều hơn. Hình thức học nhóm
đối với trẻ là một trong những cách học mang lại hiệu quả cao nhất bởi khi học
nhóm trẻ sẽ khơng cịn nhút nhát và ln biết cách cùng bạn trong nhóm hồn
thành nhiệm vụ mà cơ giáo phó. Vì vậy trong giờ học tốn tơi thường hay tổ
chức cho trẻ học theo nhóm bằng cách chia ra các nhóm nhỏ và giao nhiệm vụ
cụ thể cho từng nhóm và u cầu hồn thành cơng việc sau một khoảng thời gian
nhất định để trẻ tự khám phá, trải nghiệm nhằm xác định sự hiểu biết của mình
sau đó tơi mới hỏi kết quả của từng nhóm và có sự động viên kịp thời để các
nhóm ln có sự thi đua.
Ví dụ 1: Tiết dạỵ: “Tách , gộp các nhóm đối tượng trong phạm vi 8 bằng
nhiều cách khác nhau”. Cơ cho 3 nhóm học riêng và u cầu các nhóm phải chia
8 đối tượng đó thành 2 phần sao cho 2 phần đó vẫn tổng bằng 8. Từng nhóm
chia bằng các cách khác nhau. Sau đó cơ hỏi nhóm đó cách chia và nói kết quả
cách chia của nhóm mình. Cơ tổng hợp lại ý kiến và cho cả lớp xem lại từng
cách chia của mổi nhóm. Tiếp theo cơ cho các nhóm chia lại cách chia khác,
khơng trùng với cách chia lần đầu.
Ví dụ 2: Thao tác đo chiều dài 2 đối tượng: Lấy 2 dây băng xanh, đỏ buộc
vào đầu của bạn đội trưởng cho trẻ nhận xét “Tại sao dây đỏ buộc được vào đầu
bạn con dây xanh thì khơng buộc được?” Trẻ nhận xét kết quả “Dây đỏ buộc
được vào vì dây đỏ dài hơn dây xanh” Tơi thường tạo ra các tình huống để trẻ
nhận xét độ dài của 2 hoặc 3 đối tượng có thể đặt các đối tượng chồng khít lên
nhau sao cho một đầu các đối tượng bằng nhau, đối tượng nào có phần thừa ra là
đối tượng đó dài hơn..
Trong q trình trẻ học nhóm tơi ln quan sát các hoạt động của nhóm để
thấy được khả năng nhận thức của trẻ. Đối với nhóm yếu kém hơn tơi dành thời
gian cho nhóm nhiều hơn và đặt ra các câu hỏi đơn giản, dễ hiểu gần gũi với trẻ,

đối với nhóm có nhận thức khá hơn tơi lại đưa các câu hỏi khó hơn địi hỏi khả
năng tư duy nhiều hơn nên những trẻ khá bớt nhàm chán vì khơng học lại những
gì mà mình đã biết cịn với những trẻ yếu sẽ tiếp thu được các kiến thức vừa với
khả năng của mình. Như vậy với hình thức học nhóm tạo cho trẻ được thoải mái,
tự do khám phá, tự mình nêu lên các ý tưởng để cùng các bạn thảo luận và tìm ra
kết quả tốt nhất cho nhóm của mình. Tuy nhiên trong một tiết tốn thì ngồi việc
lựa chọn hình thức thì câu hỏi của cơ cũng là một việc làm rất quan trọng vì vậy
tôi luôn suy nghĩ làm sao để câu hỏi vừa ngắn gọn lại dễ hiểu và mang tính chất
cơ đọng cũng như rèn khả năng tư duy cho trẻ là một điều khơng đơn giản đối
với mơn tốn vậy nên theo tôi nghĩ chúng ta cần phải chú ý đến câu hỏi để làm
sao trẻ có thể hiểu nhớ lâu hơn khi cô hỏi.
* Sử dụng câu hỏi đàm thoại để kích thích phát triển tư duy:


12

Ví dụ 1: Trong giờ dạy trẻ so sánh, thêm, bớt để tạo sự bằng nhau giữa 2
đối tượng, tôi đặt câu hỏi: Để số hoa và số quả bằng nhau con phải làm như thế
nào? (Trẻ thêm hoặc bớt)
Ví dụ 2: Trong giờ dạy trẻ so sánh chiều dài của 3 đối tượng, tơi đặt câu hỏi:
Vì sao con biết băng giấy màu xanh dài hơn băng giầy màu đỏ? Vậy Băng giấy
nào dài nhất?, băng giấy nào dài hơn? Băng giấy nào ngắn nhất? Vì sao? Trong
quá trình đàm thoại tôi luôn chú ý đến phát triển ngôn ngữ và cung cấp khái
niệm về toán cho trẻ bằng nhiều câu hỏi khác nhau. Với những trẻ nhút nhát, cá
biệt tôi thường sử dụng câu hỏi dễ hơn, yêu cầu đơn giản hơn và có biện pháp
khen ngợi, động viên kịp thời để giúp trẻ tự tin hơn khi thực hiện nhiệm vụ.
Ví dụ: Khi cho trẻ nhận biết khối cầu tơi cho trẻ cùng lăn bóng. Tơi hỏi trẻ:
Con có nhận xét gì về quả bóng? Hay: Quả bóng như thế nào? Trịn hay khơng
trịn? Vì sao nó lăn được? Từ đó tơi mới giới thiệu cho trẻ quả bóng có dạng
khối cầu và cho trẻ chọn khối cầu giơ lên.

Khi trẻ học tôi luôn cho trẻ thời gian để suy nghĩ và khuyến khích cho trẻ
phán đốn, tranh luận cùng bạn bè để tìm ra câu trả lời. Hệ thống câu hỏi tôi
luôn luôn dùng câu hỏi mở để khuyến khích sự tị mị và hiểu biết của trẻ và từ
đó để trẻ phát huy tính tích cực của mình và gây hứng thú cho trẻ hơn.
Để trẻ nhớ lâu và tự suy nghĩ giáo viên cần giúp trẻ kết nối những kinh
nghiệm, kỹ năng khám phá những biểu tượng tốn trong q trình quan sát, suy
nghĩ, giải quyết vấn đề. Với cách làm như vậy trẻ sẽ hứng thú hơn khi tham gia
vào bài học mà không nhàm chán.
* Sáng tạo khi tổ chức cho trẻ chơi với các trị chơi ơn luyện:
Khi tổ chức trị chơi cho trẻ cô giáo cần phải hiểu biết rằng những trò chơi
phải được tổ chức hài hòa đảm bảo nguyên tắc tĩnh - động - tĩnh. Trò chơi trẻ
được chơi phải từ đơn giản đến phức tạp để tránh sự mệt mỏi nhàm chán cho trẻ.
Chính vì thế, tơi đã lựa chọn các trị chơi trong chương trình vào tiết học, tùy
vào từng chủ đề lựa chọn trò chơi cho phù hợp.
Ví dụ 1: Trong giờ học phân biệt các khối ở chủ đề nghề nghiệp, tôi cho
trẻ chơi trò chơi (Chung sức) sau khi đã được tiếp thu kiến thức mới: Cô nêu
cách chơi, luật chơi:
Cách chơi: Cô sẽ chia lớp mình thành 2 đội. Nhiệm vụ của mỗi đội là lấy
rổ chọn đúng khối theo yêu cầu rồi di chuyển về vị trí cẩn thận khơng để rơi
mang về cho đội mình.
Luật chơi: Trong một bản nhạc trò chơi sẽ kết thúc. Nếu đội nào chọn
nhiều khối đúng yêu cầu sẽ giành chiến thắng.
Hoặc trong giờ phân biệt cao hơn - thấp hơn, tôi cho trẻ chơi trị chơi tơ
màu cây cao, cây thấp theo các màu khác nhau (Cây cao hơn màu xanh, cây thấp
hơn màu vàng, thấp nhất màu đỏ).
Khi cho trẻ chơi trò chơi đếm đến 8 thì chia trẻ thành 2 nhóm và chơi
chuyền trứng mỗi nhóm 8 quả, tổ nào chuyền nhanh và đúng số lượng thì tổ đó
thắng cuộc, sau đó cơ cho trẻ về ngồi 3 tổ 3 vịng trịn, cô phát bưu thiếp và 8
bông hoa và cùng dán bưu thiếp 8 bông hoa cho trẻ so sánh bưu thiếp và bơng
hoa. Hoặc cho trẻ chơi trị chơi “Cáo và thỏ” khi có hiệu lệnh Cáo bắt thì Thỏ về

đúng chuồng (mỗi chú thỏ một chuồng) số chuồng bằng số mà trẻ đang học.


13

Ví dụ: “ Ơ tơ về đúng bến”
Giáo viên chuẩn bị nhiều bến trong đó có một bến 7 chấm trịn, u cầu
về đúng bến đó; Sau đó cơ nâng dần u cầu về bến có 7 chấm trịn màu
xanh.v.v.. Hoặc với một mục đích rèn luyện khả năng nhận biết số lượng cơ có
thể thay đổi tình huống, đồ chơi khác nhau như: Thuyền về bến, về đúng nhà...
khi đó tác dụng củng cố càng vững chắc.
Khi tổ chức chơi, khơng những chú ý đến mục đích dạy học như cũng cố
kiến thức, rèn luyện kỹ năng mà còn chú ý đến mục đích giáo dục như rèn luyện
phẩm chất đạo đức, qui tắc ứng xử. Chẳng hạn những trị chơi số lượng trẻ tham
gia chơi đơng hơn, trẻ phải biết kìm chế để đợi đến lượt mình chơi.
Tuy nhiên các trị chơi khơng nên lặp đi lặp lại ở cùng một tiết học, sẽ dẫn
đến trẻ bị nhàm chán, không hứng thú tham gia hoạt động. Yêu cầu của trò chơi
phải được nâng dần lên qua mỗi lần chơi thì mới phát huy tính sáng tạo tính tích
cực của trẻ, chính vì vậy tơi đã nghiên cứu, xác định nội dung bài dạy để chọn
trò chơi cho phù hợp và đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, tuỳ từng trị
chơi mà tơi chọn hình thức chơi phù hợp nhằm tạo hứng thú và huy động tối đa
số trẻ tham gia vào trò chơi.
Đổi mới phương pháp giảng dạy và hình thức tổ chức đã đem lại kết quả
đáng mừng, đa số trẻ đã tích cực tham gia gia hoạt động với thái độ hợp tác,
hứng thú, trẻ tập chung vào việc hoàn thành nhiệm vụ được giao, bên cạnh luôn
hỗ trợ những bạn chậm hơn mình.
2.3.4. Giải pháp 4: Phát huy tính tích cực cho trẻ “làm quen với toán”
mọi lúc, mọi nơi và thông qua môn học khác.
Để nâng cao chất lượng môn tốn, khơng chỉ là tiết học tốn mà giáo viên
ln phải linh hoạt tích hợp lồng ghép hài hịa sinh động vào các hoạt động

khác. Chính việc tích hợp lồng ghép này sẽ giúp trẻ được thường xuyên ôn luyện
kiến thức và việc tiếp nhận kiến thức trở nên nhẹ nhàng thoải mái, khơng cứng
nhắc dập khn. Vì vậy tơi đã tranh thủ mọi cơ hội để giúp trẻ khắc sâu kiến
thức tốn thơng qua các hoạt động khác:
Thơng qua giờ đón trẻ : Để tạo cho trẻ có niềm say mê hứng thú với mơn
học làm quen với tốn tơi tổ chức cho trẻ chơi các trị chơi, lắp ghép, xây dựng
xâu hạt, xâu vịng, xếp hình ...các con vật. các ngơi nhà, hoặc cắt, xé các hình
trên tranh, trên báo, hoặc nghe một số câu truyện, bài thơ, bài hát có liên quan
đến tốn, phù hợp với chủ đề đang học để trẻ được làm quen ngay từ khi đến lớp
Thơng qua hoạt động: Tạo hình, giáo dục âm nhạc, làm quen văn học....tác
động không nhỏ đến sự phát triển nhận thức ở lứa tuổi mẫu giáo. Quá trình phát
triển các hoạt động nhận thức nói chung và hoạt động nhận thức các biểu tượng
toán ban đầu cũng diễn ra trong khi trẻ được nghe kể chuyện đọc thơ hoặc trẻ tự
kể lại chuyện, đọc thơ.
Các câu chuyện cổ tích, truyện thơ dành cho trẻ có những giá trị văn học
nhất định nên thu hút được sự chú ý, cảm xúc nghệ thuật của trẻ giáo viên cần
tận dụng truyện thơ như một phương tiện để giáo dục nhân cách nói chung và
nhận thức các biểu tượng tốn nói riêng. Sau khi nghe kể chuyện, đọc thơ giáo
viên cần đàm thoại với trẻ về các yếu tố toán học có trong mỗi câu truyện bài


14

thơ, tuỳ vào mỗi chủ đề giáo viên lựa chọn truyện thơ theo nội dung giáo dục có
các biểu tượng toán học.
Khi kể chuyện, đọc thơ cần chú ý những đoạn tái hiện các hoạt động tri
giác số lượng, hình dạng kích thước .v.v.. Cần có ngữ điệu giọng đặt biệt để trẻ
ghi nhớ các biểu tượng đó.
Ví dụ: Câu chuyện “Sự tích bánh chưng bánh dày”. Câu hỏi đàm thoại:
- Câu chuyên có bao nhiêu nhân vật? Vua Hùng có mấy người con?...

- Lang Liêu làm mấy thứ bánh và những thứ bánh đó có ý nghĩa gì
khơng? Bài thơ: “Đàn gà con” Có bao nhiêu quả trứng? Nở ra bao nhiêu chú gà
con?
Thơng qua hoạt động tạo hình nhiều kiến thức toán học được trẻ vận dụng
vào hoạt động nhận thức như hình dạng, màu sắc, độ to nhỏ, bố cục, xác định vị
trí..
Ví dụ: Qua việc mơ phỏng lại cách vẽ giúp trẻ tri giác tái tạo lại một số
hình dạng, kích thước tương ứng: Vẽ con gà: đầu hình trịn nhỏ, thân mình hình
trịn to, cánh hình tam giác.v.v.. Mặt khác các hoạt động tạo hình là các hoạt
động phản ánh sự vật hiện tượng theo các yếu tố toán học, sự phát triển các hoạt
động tạo hình có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển năng lực vận dụng
kiến thức của trẻ vào thực tiễn.
Hoặc: Trẻ vẽ lại các phương tiện giao thông từ các hình đó trẻ tri giác lại
các hình học trẻ đã học. Vẽ người thân trong gia đình: Trẻ vận dụng các hình
hình học để vẽ được hình người như đầu là hình trịn; tay, chân, mình là những
hình chữ nhật, bàn tay, bàn chân là những hình tam giác.v.v..
Thơng qua hoạt động góc. Trẻ sử dụng hột hạt, que tính xếp thành các
hình học, sử dụng dây chun để tạo hình học theo ý thích hoặc sử dụng các hình
học để tạo ra các hình khác nhau: 2 hình tam giác tạo thành 1 hình chữ nhật hoặc
1 hình vng, 2 hình vng ghép lại thành 1 hình chữ nhật. khối vuông, khối
chữ nhật, khối tam giác khối trụ v.v...Sử dụng các hình học xếp tạo thành các đồ
chơi đồ dùng theo ý tưởng sáng tạo của trẻ.
Thông qua hoạt động ngoài trời: Hoạt động ngoài trời là hoạt động mà trẻ
rất thích vì thay đổi mơi trường học tập, tôi tận dụng sự hưng phấn của trẻ để
khai thác bổ sung thêm kiến thức, kỹ năng, về đồ vật có liên quan đến mơn tốn
cho trẻ. Ví dụ: Cho trẻ quan sát ngôi nhà xanh, hỏi về các dạng khối
Các con có nhận xét gì về ngơi nhà? (Có mái nhà, thân nhà )
Mái nhà có dạng thế nào ? Mái nhà dạng khối tam giác, màu đỏ
Thân nhà dạng ra sao? Thân nhà dạng khối chữ nhật, màu xanh
Thông qua hoạt động chiều: Để cũng cố lại kiến thức đã học giáo viên nên

tổ chức bằng nhiều trò chơi như cho trẻ chơi trò chơi vận động, chơi trị chơi
dân gian,..hoặc có thể lồng ghép các nội dung tiết học toán vào các bài thơ, câu
chuyện bài hát để dạy, giúp trẻ ghi nhớ sâu, nhớ lâu bài đã học.
Như vậy để nâng cao được kiến thức về bộ mơn tốn cho trẻ thơng qua các
hoạt động, bản thân là giáo viên cần phải dạy trẻ kiến thức cơ bản, ngắn gọn,
đơn giản dễ hiểu, quan tâm sát sao, khích lệ trẻ, động viên kịp thời những gì trẻ
làm được, gợi ý hướng dẫn cho trẻ chưa làm được, giúp trẻ ôn luyện kiến thức


15

toán dể dàng, trẻ ghi nhớ sâu hơn, lâu hơn về các biểu tượng toán, thúc đẩy
nâng cao hiệu quả tiết dạy.
2.3.5. Giải pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng:
Có thể nói cơng nghệ thơng tin là một trong những phương tiện, điều kiện
có tính khoa học, hiện đại hỗ trợ tích cực trong việc thực hiện chương trình giáo
dục mầm non hiện nay, đặc biệt là đổi mới phương pháp và hình thức dạy học.
Sự phối hợp giữa những hình ảnh, âm thanh sống động, hiệu ứng trình chiếu gây
cho trẻ sự hứng thú, kích thích trẻ trong q trình quan sát và tri giác về một sự
vật hiện tượng nào đó. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện phương pháp dạy học “Lấy trẻ
làm trung tâm” một cách dễ dàng.
Đối với hoạt động “LQVT” tất cả trẻ cần được luyện tập thao tác với đồ
vật nhiều hơn nhằm củng cố kiến thức nếu quá lạm dụng CNTT thì làm hạn chế
hoạt động của trẻ. Vì vậy tùy vào từng bài dạy tôi nghiên cứu vận dụng đưa
CNTT vào bài giảng một cách linh hoạt thơng qua các trị chơi nhằm đảm bảo
nội dung kiến thức cung cấp và huy động tối đa trẻ tham gia vào hoạt động lĩnh
hội kiến thức.

(Bài giảng ứng dụng công nghệ thông tin)

Ứng dụng các phần mềm để thiết lập các trò chơi sáng tạo: nén âm thanh
vào biểu tượng như bài hát, nhạc, lời khen, tiếng động, câu hỏi….về một yêu
cầu nào đó trong trị chơi nhằm thu hút trẻ vào hoạt động. Sự xuất hiện của các
biểu tượng tùy chọn không mang tính áp đặt trẻ làm thỏa mãn nhu cầu khám phá
của trẻ kích thích trẻ hoạt động tích cực, hứng thú.
VD: Trong tiết tạo nhóm số lượng trong chủ đề động vật tôi tạo các hiệu
ứng, âm thanh, tiếng kêu các con vật, hình ảnh sinh động gây hứng thú với trẻ từ
đó gây được sự chú ý với trẻ hơn.


16

Ví dụ: Trị chơi “ Ơ số bí mật” Cơ có các ơ số và đằng sau mỗi ơ số có
những chữ số hoặc những đồ dùng có số lượng trẻ cần học trẻ sẽ chọn chữ số
tương ứng với số lượng hoặc số lượng tương ứng với chữ số
Trò chơi chữ số đáng yêu: Trẻ chọn các nét rời ghép tạo thành các chữ số
theo yêu cầu hoặc theo ý thích của trẻ
Trị chơi: Ai đốn giỏi: Qua hình ảnh, tiếng kêu, câu đố và đốn nhanh chữ
số, hình, số lượng.. theo yêu cầu
Trò chơi: Ai chọn đúng: Qua hình ảnh trẻ quan sát xem con vật đó nằm ở
phía nào so với cây ( Tuỳ theo chủ đề cô thiết lập cho phù hợp)
Việc ứng dụng CNTT vào hoạt động nhằm tạo cơ hội cho trẻ hoạt động
trong quá trình nhận thức như quan sát, so sánh, luyện tập… thơng qua các trị
chơi nhằm giúp trẻ vui học và lĩnh hội kiến thức tốt hơn.
2.3.6. Giải pháp 6: Phối hợp kết hợp phụ huynh trong việc nâng cao
chất lượng hình thành biểu tượng tốn tập hợp đếm và phép đo.
Ngoài các biện pháp các cách thức khác nhau nhằm giúp trẻ nâng cao
biểu tượng toán, trong tiết học và mọi lúc mọi nơi. Tơi cịn phối kết hợp cùng
các phụ huynh của lớp về nhà rèn luyện thêm kỹ năng so sánh, thêm bớt, tập
đếm, thao tác đo cho trẻ. Cụ thể: Mời phụ huynh dự một giờ dạy so sánh thêm

bớt tạo sự bằng nhau giữa hai nhóm đối tượng và một giờ dạy trẻ đo các đối
tượng có độ dài khác nhau bằng một đơn vị đo.
Hàng ngày trao đổi cụ thể về khả năng nhận biết so sánh, đếm số đồ vật,
con vật, các thao tác đo của từng trẻ. Trao đổi với phụ huynh về kỹ năng sử dụng
đồ dùng học tập, đồ chơi cần thiết để luyện tập cho phù hợp vơi từng trẻ ở nhà.
Tuyên truyền cho phụ huynh hãy quan tâm đến trẻ như quan sát, giải quyết các
thắc mắc của trẻ, cho trẻ được thoải mái sáng tạo, xây dựng môi trường mở cho
trẻ hoạt động một cách tốt nhất, không những thế tôi gợi ý giúp phụ huynh phải
tham khảo các tài liệu như sách toán đố, sách bé vui học toán…Huy động phụ
huynh sưu tầm thêm nguyên vật liệu, phế liệu cho lớp để làm đồ chơi đồ dùng
học tập phục vụ cho việc cho trẻ làm quen với biểu tượng tốn thêm phong phú.
Từ đó giúp phụ huynh hiểu con hơn và giúp phụ huynh hiểu tầm quan trọng của
hoạt động “Cho trẻ làm quen với Toán” là rất cần thiết và góp phần giúp trẻ có
tâm thế tốt khi bước vào lớp một.
Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh đã giúp tôi mang lại hiệu quả
cao trong việc dạy trẻ làm quen vói tốn. Phu huynh đã hiểu hơn về việc cho trẻ
làm quen với các biểu tượng toán là bước chuẩn bị cần thiết trước khi trẻ vào lớp
1. Từ đó phụ huynh đã quan tâm đến trẻ tạo cơ hội cho trẻ được làm quen với
toán trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó phụ huynh đã hỗ trợ cơ giáo trong
việc tìm kiếm nguyên vật liệu để làm thêm đồ dùng đồ chơi cho trẻ. Đặc biệt
phụ huynh đã đưa đón trẻ đi học thường xuyên hơn, tích cực trao đổi với giáo
viên về các vấn đề của trẻ. Giúp giáo viên nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý,
đặc điểm nhận thức của trẻ một cách đầy đủ nhất, để cơ giáo có những thay đổi
về phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động làm quen với toán đạt hiệu quả
cao hơn.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.


17


Với đề tài “Một số giải pháp giúp trẻ 5- 6 tuổi lớp A2 trường mầm non
Lâm Xa – Thị trấn Cành Nàng, học tốt mơn làm quen với tốn theo hướng
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” Qua một thời gian áp dụng những giải pháp
trên vào trong quá trình giảng dạy trẻ, tơi thấy có những kết quả như sau:
- Đối với trẻ: Trẻ lĩnh hội được các kiến thức, kỹ năng tư duy như: So
sánh, phân loại, thêm bớt, tạo nhóm, định hướng trong khơng gian và thời gian.
Tỷ lệ trẻ có kỹ năng xếp tương ứng và so sánh, phát hiện các quy tắc sắp xếp
theo quy tắc đơn giản và hiểu các khái niệm đơn giản về toán được nâng lên, đa
số trẻ đã biết so sánh phân biệt các hình học, hình khối. Biết đếm, nhận biết
quan hệ số lượng trong phạm vi 10, nhận biết các chữ số từ 0 - 10. Đa số trẻ
thực hiện mootj cách nhanh nhẹn một số phép biến đổi đơn giản như thêm bớt,
tạo nhóm, chia nhóm đồ vật có số lượng trong phạm vi yêu cầu. Biết được vị trí
trong khơng gian của bản thân và của người khác. Biết đo dung tích bằng 1 đơn
vị đo; Nhận biết về thời gian một cách chính xác hơn...Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn,
biết đưa ra các câu hỏi thích hợp, tiếp thu bài chủ động và tích cực hơn.
- Khảo sát thực tế (Tháng 4 năm 2021) sau khi áp dụng các giải pháp.
Bảng 2

Kết quả khảo sát
Số trẻ đạt
Số trẻ chưa đạt
SL
%
SL
%

TT

Nội dung khảo sát


Số
trẻ

1

Kỹ năng đếm, nhận biết số
lượng, chữ số, tách gộp đối
tượng trong phạm vi yêu
cầu

23

22

95,6

1

4,4

Nhận biết về kích thước và
kỹ năng thực hành đo lường

23

20

86,9


3

13,1

2
3

Khả năng nhận biết hình
dạng và nhận biết dấu hiệu
23
21
91,3
2
8,7
nổi bật của từng hình dạng.
4 Khả năng định hướng trong
23
22
95,6
1
4,4
không gian của trẻ.
Kết quả khảo sát cho thấy số chưa đạt ở các nội dung vẫn còn, một số trẻ
chưa đạt rơi các trường hợp trẻ bị bệnh, hay ốm đau chậm phát triển, bản thân đã
cố gắng, phụ huynh đã phối hợp chặt chẽ nhưng do bệnh tật trẻ không đủ sức
khỏe để tham gia đầy đủ các hoạt động. khả năng tiếp thu bị giảm sút. Tuy nhiên
số trẻ đạt đã tăng cao. Có thể nói các giải pháp tơi đã áp dụng có hiệu quả rõ rệt,
trẻ năm được kiến thức, đủ tâm thế sẵn sàng vào lớp một.
- Đối với bản thân: Sau khi đầu tư nghiên cứu tài liệu, tích lũy kinh
nghiệm bản thân tôi đã nắm vững phương pháp. Thiết kế và đổi mới hình thức tổ

chức làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn luôn tạo ra cái mới trong tiết dạy. Với
những kinh nghiệm trên tôi đã nắm chắc được các phương pháp khi hướng dẫn
cho trẻ làm quen với toán tùy với từng đề tài, từng chủ đề cũng như các nội dung
và yêu cầu của môn học đề ra. Sáng tạo trong việc xây dựng góc mở, làm đồ
dùng, học liệu cho trẻ học Toán.


18

- Đối với đồng nghiệp: Những kinh nghiệm của tôi được đồng nghệp ủng
hộ, áp dụng vào các giờ làm quen với toán đạt hiệu quả.
- Đối với phụ huynh: Phụ huynh nhìn nhận và ln tin tưởng và ủng hộ,
đa số họ đã nhận thức được rõ tầm quan trọng của mơn Tốn đối với trẻ 5 tuổi
nên đã giúp đỡ cô giáo cả về vật chất lẫn tinh thần, cùng cô thu gom nguyên vật
liệu phế thải để làm đồ chơi, đồ dùng học tập cho trẻ.
3. Kết luận và kiến nghị:
3.1. Kết luận:
Như vậy ta có thể khẳng định rằng: Hoạt động cho trẻ làm quen với biểu
tượng toán là một trong những nội dung quan trong giáo dục trẻ mầm non.
LQVT đã góp phần quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ, tư duy ngơn ngữ,
giáo dục đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Muốn thực hiện tốt hoạt động LQVT, cơ
giáo cần có kiến thức kỹ năng vững vàng, có tinh thần học hỏi, nhiệt tình. Biết
sử dụng phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt, sáng tạo, khôn khéo và
phải hiểu rằng không phải lúc nào trẻ cũng làm được như mình mong muốn.
Giáo viên hãy xem đó là điều bình thường. Hãy coi các lỗi của trẻ là cơ hội để
trẻ tìm hiểu cái mới. Cho trẻ thời gian suy nghĩ là điều rất cần thiết. Khả năng
tiếp nhận của mỗi trẻ là rất khác nhau, giáo viên khơng nên nơn nóng khi thấy
trẻ chưa làm được, giáo viên cần quan tâm, lắng nghe, cần kiên nhẫn sử dụng
câu hỏi gợi ý từng bước một, vui vẻ khuyến khích trẻ làm đi, làm lại. Thái độ
thân thiện và lời khen ngợi đầy cảm xúc của giáo viên là động lực khích lệ, động

viên ấm áp đối với trẻ. Cần khéo léo đưa các kiến thức toán học trong cuộc sống
một cách thật nhẹ nhàng, từng ít một. Giáo viên nên vận dụng linh hoạt các biện
pháp sáng tạo vận dụng các trò chơi học tập, trị chơi dân gian tốn học, bài hát,
câu chuyện để biến tiết học tốn khơ khan thành đề tài đầy lý thú đối với trẻ. Có
như vậy vấn đề làm quen với toán mới trở thành đề tài hấp dẫn trẻ. Trẻ tiếp nhận
với niềm vui sướng, tò mò, khám phá, niềm vui và khởi nguồn của sự say mê,
hứng thú cần tạo môi trường nuôi dưỡng cho trẻ niềm vui khi học tốn.
Có như vậy và chỉ có như vậy thì trẻ mới học tốt hơn mơn học làm quen
với tốn 5 tuổi đạt kết quả như ta mong đợi. Những biện pháp trên qua quá trình
tổ chức thực hiện phương pháp dạy học tích cực, đã giúp giáo viên thích ứng với
những nhiệm vụ đa dạng, phức tạp trong quá trình giáo dục trẻ. Nhằm hệ thống
hóa kiến thức về phương pháp dạy học tích cực và nâng cao chất lượng toàn
diện cho trẻ, từ đó có những kỹ năng ứng xử linh hoạt với các tình huống sư
phạm. Giáo viên linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động và phối hợp các
phương pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục. Trẻ được trải nghiệm nhiều, trẻ chủ
động, tự giác, tích cực tìm tịi, khám phá góp phần giúp trẻ phát triển tồn diện
về các mặt “ Đức - trí - thể - mỹ - lao động ” tạo điều kiện tốt cho trẻ phát triển
toàn diện nhân cách.
3.2. Các đề xuất và kiến nghị
* Đối với nhà trường:
Cần tổ chức cho giáo viên tham gia giao lưu, học tập, trao đổi kinh
nghiệm với các đồng nghiệp ở các trường trong cụm , khuyến khích giáo viên
đăng ký thi đua dạy tốt mơn làm quen với tốn.
* Đối với Phịng GD&ĐT:


19

Tổ chức các hoạt động học mẫu cũng như tiếp tục phát động các cuộc thi
làm các đồ dùng, đồ chơi học tốn tự tạo để giáo viên có điều kiện tham gia học

tập, đúc rút kinh nghiệm.
Trên đây là “Một số giải pháp giúp trẻ 5- 6 tuổi lớp mẫu giáo A2
Trường mầm non Lâm Xa – Thị Trấn Cành Nàng, học tốt mơn làm quen với
tốn theo hướng giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Tôi rất mong nhận được sự
quan tâm, bổ sung, góp ý kiến của Hội đồng khoa học nghành, để các giải pháp
của tôi được hồn thiện hơn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN
Cành nàng , ngày 15 tháng 04 năm 2021
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
khơng sao chép nội dung của người khác
Người viết SKKN

Lê Thị Mai

Nguyễn Thị Hằng

TÀI LIỆU THAM KHẢO


20

STT

TÊN TÀI LIỆU

NHÀ XUẤT BẢN

NĂM XUẤT BẢN


1

Hướng dẫn thực hiện chương
trình GDMN 5-6 tuổi

NXB Giáo Dục
Việt Nam

2018

2

Đề cương bài giảng lý luận và
phương pháp hướng dẫn trẻ
làm quen với Toán

NXB- ĐHSP Thái
Nguyên

2013

3

Tuyển tập trò chơi, bài hát,
thơ ca, truyện, câu đố theo
chủ đề cho trẻ 5-6 tuổi.

Viện chiến lược và
chương trình giáo
dục.


2018

4

Giáo trình phương pháp cho
trẻ làm quen với tốn

NXB –ĐHSP Huế

5

Tạp chí Giáo dục mầm non

6
7

Tâm lý học trẻ em lứa tuổi
mầm non
Tập san, intenet

NXB-Đại học sư
phạm
NXB-ĐHSP Hà
Nội

2007
2017
2008



21

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Mầm non Lâm Xa-Thị Trấn
Cành Nàng

TT
1.

2.

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh giá đánh giá
xếp loại (Phòng, xếp loại
Sở, Tỉnh...)
(A, B,
hoặc C)

Một số biện pháp tổ chức hoạt
động góc cho trẻ mẫu giáo nhỡ Phòng GD&ĐT
4-5 tuổi trường mầm non Lâm Huyện Bá thước
Xa.
Một số biện pháp nâng cao hiệu

quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mấu giáo 4-5 tuổi thơng qua Phịng GD&ĐT
hoạt động dạy trẻ kể chuyện Huyện Bá thước
sang tạo trong trường mầm non
Lâm Xa.

Năm học
đánh giá
xếp loại

C

2013-2014

C

2018-2019


22

MỤC LỤC`
Nội dung
1.Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích đề tài
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận

2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng skkn
2.2.1.Thuận lợi.
2.2.2.Khó khăn
2.2.3. Khảo sát thực tế (Tháng 9 năm 2021) trước khi áp dụng các
giải pháp.
2.3. các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giaỉ pháp 1:Tự học, tự bồi dưỡng về phương pháp dạy học
lấy trẻ làm trung tâm. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý, phân loại
đối tượng trể
2.3.2. Giaỉ pháp 2:Xây dựng môi trường học tập theo hướng mở,
làm đồ dùng, đồ chơi sang tạo là điều kiện cần thiết tạo cơ hội cho
trẻ tham gia vào hoạt động nhận thức một cách tích cực.
2.3.3. Giải pháp 3:Đổi mới hình thức tổ chức . Sử dụng các
phương pháp linh hoạt sáng tạo trong việc dạy trẻ làm quen với
tốn
2.3.4. Giải pháp 4: Phát huy tính tích cực cho trẻ “ làm quen với
toán”, mọi lúc , mọi nơi và thong qua môn học khác.
2.3.5. Giải pháp 5:Ứng dụng công nghệ thong tin vào bài giảng
2.3.6. Giải pháp 6:Phối kết hợp với phụ huynh trong việc năng cao
chất lượng hình thành biểu tượng tốn tập hợp đếm và phép đo.
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận,kiến nghị
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến Nghị

Trang
1
1
2

2
2
2
3
3
3
4
4
4
6
8
12
13
15
15
16
16
17


23



×