Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tran Viet ThangTruong THCS Tran Kiet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.71 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

QUANG TRUNG (NGUYỄN HUỆ) 1789-1792


Nguyễn Huệ là con trai của ông bà Hồ Phi Phúc, Nguyễn Thị Đồng, quê ở thôn Kiên Mỹ,
ấp Kiên Thạnh, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, thường gọi là ấp Tây Sơn (nay là huyện
Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Hồ Phi Phúc đi theo nhóm chúa Nguyễn vào vùng miền Nam
Trung Bộ, lập cơ nghiệp mới ở ấp Tây Sơn, huyện An Khê, đổi sang họ Nguyễn. Gia
đình này có ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, trong đó Nguyễn Huệ
là em út. Lúc nhỏ ơng có tên là Hồ Thơm, tức chú Ba Thơm. Cái tên Huệ là do thầy giáo
Hiến đặt cho. Thầy giáo vốn là người Huế, vào dạy học ở đất An Thái, phát hiện ra tài
nǎng của mấy cậu bé này, thường khuyến khích lớp trẻ bằng một câu sấm - không rõ ông
lấy từ đâu: "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" (nổi lên ở Tây Sơn sẽ lập công lớn ở miền
Bắc).


Các tài liệu xưa đều cho biết Nguyễn Nhạc xuất thân chỉ là một viên biện lại, thường gọi
là biện Nhạc, có nghề bn trầu. Bất bình với sự chuyên quyền của Trương Phúc Loan và
chúa Nguyễn đàng trong, ông đã cùng các em nổi dậy, cướp được Quy Nhơn, rồi dựng
nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn. Nǎm 1776, Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, cho
Nguyễn Huệ làm phụ chính, lúc này Nguyễn Huệ mới 24 tuổi. Hai nǎm sau (1778)
Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thái Đức, Nguyễn Huệ nhận chức vị là Long
Nhương tướng quân.


Nguyễn Huệ là nhà quân sự thiên tài. Trong suốt hơn 20 nǎm đời chinh chiến, Nguyễn
Huệ chưa hề chùn bước. Ông tin tưởng vào quần chúng biết trọng dụng nhân tài, có niềm
tin tuyệt vời vào khả nǎng của mình. Ơng cịn là vị danh tướng chỉ đánh thắng, khơng có
bại.


Giúp anh là Nguyễn Nhạc, ơng đã 4 lần vào đánh Gia Định, bắt Nguyễn Ánh (sau này là
vua Gia Long) phải mấy phen chạy trốn ra biển. Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện quân
Xiêm. Nguyễn Huệ dùng kế phục binh đã đánh thắng một trận rất vẻ vang tại Xoài Mút,
tiêu diệt hai vạn quân Xiêm và 300 chiến thuyền. Nǎm 1786, ông dùng Nguyễn Hữu
Chỉnh đưa đường ra Bắc, liên tiếp thắng lợi ở Thuận Hóa rồi Quảng Trị, Quảng Bình.


Tiếp đó kéo quân ra Bắc giương cao ngọn cờ "Phù Lê diệt Trịnh", chiếm Nghệ An,
Thanh Hóa, Sơn Nam, tiến thẳng ra Thǎng Long... Các tướng tá Lê Trịnh hoàn toàn đại
bại. Chúa Trịnh Khải chết.


Ngày 21-7-1786 Nguyễn Huệ và đại quân tiến vào Thǎng Long. Cuộc tiến công Bắc Hà
đã kết thúc thắng lợi rất vẻ vang. Ngày 31-7-1786 Nguyễn Huệ cùng các tướng sĩ Tây
Sơn và các quan vǎn võ Bắc Hà vào triều chúc mừng vua Lê Hiển Tơng. Sau đó vua Lê
Hiển Tông đã sắc phong Nguyễn Huệ làm "Nguyên sối phù dực chính dực vũ Uy quốc
cơng và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Binh quyền Bắc Hà hoàn toàn trong
tay Nguyễn Huệ người lãnh tụ kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. Nguyễn Huệ nhà chiến
lược và là nhà quân sự thiên tài vǎn võ kiêm tồn đã có cơng lao lớn trong việc đặt cơ sở
lập lại nền thống nhất nước nhà ở cuối thế kỷ 18. Nước nhà được thống nhất trên một
phạm vi rộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

làm Bắc Bình Vương. Nguyễn Huệ rút đi, miền Bắc lại trở nên loạn. Vua Lê Chiêu
Thống nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp tay chân của họ Trịnh, thì đến lượt Nguyễn Hữu
Chỉnh lại có ý chuyên quyền. Từ Huế, Nguyễn Huệ sai Vũ Vǎn Nhậm ra diệt được
Chỉnh, rồi thấy Nhậm có ý khác, ơng lại giết Vũ Vǎn Nhậm, giao cho Ngô Vǎn Sở quản
lĩnh Thǎng Long. Trước tình hình đó bọn vua quan nhà Lê, chạy sang Tàu cầu cứu rước
mấy chục vạn quân Thanh, do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, vào chiếm Thǎng Long, lấy danh
nghĩa là giúp nhà Lê, nhưng sự thực là mưu toan thơn tính nước ta. Lập tức, Nguyễn Huệ
chọn ngày, lập đàn tế trời đất, thần sông, thần nước tại núi Bân Sơn ( Huế) , rồi lên ngơi
hồng đế, đặt hiệu là Quang Trung, đem quân ra Bắc. Ông tuyên bố: Chỉ trong 10 ngày sẽ
quét sạch quân xâm lược và hẹn trước sẽ cùng quân sĩ ǎn tết với nhân dân Thǎng Long
vào ngày 7 tháng giêng.


Nhưng mới đến ngày 5, ông đã thu được hoàn toàn thắng lợi, đánh trận Ngọc Hồi, giết
Hứa Thể Hanh, đánh thắng Đống Đa, bắt Sầm Nghi Đống phải tự tử, đuổi Tôn Sĩ Nghị
phải vứt bỏ cả ấn tín chạy về nước. Bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống cũng phải
chạy theo lũ tàn binh, sang đất Trung Hoa nương náu làm khách ngụ cư vong quốc. Sau


chiến thắng, Quang Trung Nguyễn Huệ thực hiện những biện pháp ngoại giao tích cực,
để giữ gìn hịa bình, được vua Càn Long nhà Thanh chấp nhận. Vua Thanh phải phong
vương cho ông và mời ông sang thǎm Yên Kinh, và hoàn toàn chấm dứt ý đồ xâm lược.
Việc giao hảo với nhà Thanh trong giai đoạn này cũng là những trang sử đẹp, làm vẻ
vang cho triều đại Quang Trung và cho nước ta.


Dẹp yên Bắc hà, Quang Trung lo lắng việc nội trị. Đất nước do ông cai quản lần này trải
rộng từ Thuận Hóa trở ra, chấm dứt nạn phân tranh từ thời kỳ Lê-Mạc và Trịnh-Nguyễn.
Vùng miền Nam Trung Bộ do Nguyễn Nhạc thống lĩnh, vùng Nam Bộ ở dưới quyền của
Nguyễn Lữ. Song những vị cầm đầu ở đây đều không có khả nǎng giữ vững chính quyền.
Nhất là ở miền Nam, Nguyễn Lữ khơng chống nổi Nguyễn Ánh. Do đó, Quang Trung đã
sắp đặt một kế hoạch tiến quân vào Nam để giúp việc bình định vùng này, diệt hẳn thế
lực của họ Nguyễn. ở phía Bắc ơng cũng có ý phải khơi phục lại những vùng đất mà
trước đây bị các triều đình Minh, Thanh chiếm cứ. Ơng đã soạn sửa việc cầu hơn (xin lấy
cơng chúa nhà Thanh) và địi lại vùng Lưỡng Quảng. Nhưng các dự định ấy chưa thực
hiện được, thì ông bị bệnh qua đời vào đêm 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tí (1792). Cuộc đời
hoạt động của ơng đều gắn liền với tuổi trẻ. Quang Trung mất vào nǎm 40 tuổi, cơ đồ nhà
Tây Sơn cũng suy thoái ln từ đó. Con trai nối ngơi ơng là Nguyễn Quang Toản cịn q
bé (mới có 9 tuổi). Tướng tá khơng có người cầm đầu.


Khơng đầy mười nǎm sau, nhà Tây Sơn chấm dứt vai trị lịch sử của mình để Nguyễn
Ánh, lập nên đế nghiệp nhà Nguyễn. Có lẽ, có một bình diện lâu nay thường ít được chú
ý, nên cũng không giúp cho ta thấy được đầy đủ nét đẹp của Quang Trung. Đó là ở chỗ,
ông thực sự là một nhà vua trẻ, đã phát huy cao độ bản lĩnh trẻ trung của mình. Làm
tướng - chủ yếu là tướng chỉ huy, trong khoảng tuổi hai mươi. Làm vương rồi làm vua
trong khoảng tuổi ba mươi. Ông đã hiến dâng trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho đất
nước, cho dân tộc. Đây là sự tình cờ của qui luật sống nơi ơng, hay đó chính là cái đẹp
dành riêng để ông phục vụ đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

là có sức hàng phục thú dữ; hàng phục con người. Trẻ là phải tung hồnh đây đó, ra Bắc


vào Nam, lai vơ ảnh khứ vơ hình. Nguyễn Huệ là một ông vua trẻ hội tụ được đầy đủ
những ưu điểm ấy. Và trẻ là ở chỗ biết yêu, khi yêu là yêu hết mình? Trẻ cũng đồng
nghĩa với ham thích vǎn nghệ, mê say học hỏi. Quang Trung hình như khơng thua ai về
điểm này. Và thông thường những chàng trai của chúng ta, những con người anh hùng,
ln ln có sẵn mà cũng sẵn sàng bộc lộ một niềm kiêu hãnh.


Tự phụ kiêu cǎng của tuổi trẻ là khơng hay, song kiêu hãnh thì rất đáng q, và đẹp vơ
cùng. Ơng kiêu hãnh nhắc nhở Ngọc Hân khắc sâu sự vinh hạnh của nàng do ơng đem
lại. Ơng kiêu hãnh coi khinh tất cả những đối phương của mình, sẵn sàng dẹp chúng như
bẻ gãy cành khô, củi mục. Và ông nói được thì ơng sẽ làm được, để chứng tỏ sự kiêu
hãnh là có cơ sở, chứ khơng phải là khốc lác, là nói cho sướng miệng mà thơi. Sức trẻ
của vua Quang Trung còn được biểu hiện ở chỗ ơng có tầm nhìn xa, khơng chịu bằng
lòng với những thắng lợi đã đạt được. Cái khác của tuổi già và tuổi trẻ là ở đó. Ơng anh
già là Nguyễn Nhạc thì bằng lịng với mấy phủ quanh đất Qui Nhơn, nhưng ơng em trẻ
thì muốn trông Bắc trông Nam, trông suốt cõi nước nhà. Nói rằng Nguyễn Huệ có ý thức
và đã đặt được cơ sở cho việc thống nhất, là hiểu vấn đề theo khía, cạnh đó.


</div>

<!--links-->

×