1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Kế toán quản trị được ra đời trên thế giới từ những năm 70 của thế kỷ 20 xuất
phát từ đòi hỏi của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, cơng tác kế tốn quản trị chỉ bắt đầu được quan tâm trong khoảng
hơn 10 năm trở lại đây trước tình hình nền kinh tế thị trường ngày càng có nhiều cạnh
tranh gay gắt, xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu đặt ra cho các doanh nghiệp bài tốn
khó về hiệu quả. Việc nâng cao nội lực, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp trên thương trường thực sự là một vấn đề sống còn. Có thể ví tồn bộ hoạt động
của doanh nghiệp như một cỗ máy khổng lồ, trong đó mỗi bộ phận là một chi tiết máy
của nó, chỉ cần một bộ phận khơng hoạt động hồn hảo thì sẽ ảnh hưởng đến kết quả
chung của tồn doanh nghiệp.
Do đó để nâng cao được hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì đòi hỏi các bộ
phận trong doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả và phối hợp với nhau nhịp nhàng
theo mục tiêu chung. Muốn vậy, kế toán quản trị cần xây dựng được các phương pháp
giúp nhà quản trị thấy được kết quả hoạt động của từng bộ phận qua đó phát huy
những yếu tố tích cực và ngăn ngừa những mặt yếu kém trong việc thực hiện mục tiêu
chung của tổ chức. Kế toán trách nhiệm ra đời nhằm mục tiêu đánh giá trách nhiệm,
đưa ra các chỉ tiêu theo dõi và đánh giá thường kỳ kết quả công việc của mỗi con
người, mỗi bộ phận trong tổ chức. Kế toán trách nhiệm đánh giá trách nhiệm nhiều cấp
bậc khác nhau như: các cá nhân trong bộ phận, trưởng các bộ phận, người điều hành
kinh doanh, người sở hữu vốn. Nó giúp doanh nghiệp đảm bảo mọi sự việc, nghiệp vụ
phát sinh đều phải có người gánh vác trách nhiệm, có được chế độ thưởng phạt phân
minh để doanh nghiệp phát triển hơn.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan như vậy, vận dụng những lý luận của kế
toán trách nhiệm vào thực tiễn để thực hiện đề tài “Xây dựng hệ thống kế tốn trách
nhiệm tại cơng ty CP Sơn Đồng Nai” nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của doanh
nghiệp, hồn thiện hệ thống kế tốn.
2
2. Tổng quan về đề tài:
Kế toán trách nhiệm được nghiên cứu vào những năm 90 của thế kỷ 20 nhằm
đánh giá trách giá trách nhiệm, đưa ra các chỉ tiêu theo dõi và đánh giá thường kỳ kết
quả công việc của mỗi con người, mỗi bộ phận trong tổ chức. Mức độ vận dụng kế
toán trách nhiệm vào trong thực tiễn của tổ chức và điều hành các doanh nghiệp cịn
hạn chế, chưa được hệ thống hóa; cần tìm cách khắc phục và hoàn thiện hơn. Tất cả
đều cùng một mục đích là phục vụ q trình phát triển doanh nghiệp một cách tồn
diện nhất.
Cơng ty CP Sơn Đồng Nai là một cơng ty năng động, có tiềm lực phát triển, Sơn
Đồng Nai đang dần khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Giống như mọi doanh
nghiệp khác, mục tiêu của cơng ty là tối đa hóa lợi nhuận với mong muốn trở thành
một công ty hàng đầu. Với sự đầu tư mạnh mẽ, nhà quản lý mong muốn đạt được hiệu
quả tối ưu cho doanh nghiệp. Nhưng thực trạng q trình sản xuất cịn nhiều điểm
chưa tốt, cơng tác quản lý cịn bng lỏng. Thực trạng hệ thống kế tốn trách nhiệm
cịn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý. Báo cáo này sẽ phân tích thêm
những vấn đề nêu trên, đưa ra thực trạng của hệ thống kế toán trách nhiệm và đưa ra
một số giải pháp nhằm xây dựng hệ thống kế toán trách nhiệm.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Luận văn dựa trên nền tảng kiến thức về kế toán quản trị đã được giảng dạy
nhằm để đi vào tìm hiểu thực trạng của cơng tác kế tốn quản trị tại cơng ty CP Sơn
Đồng Nai, nhằm:
- Phân tích thực trạng hệ thống kế tốn trách nhiệm tại cơng ty CP Sơn Đồng Nai
- Tìm ra những ưu điểm và những điểm cịn hạn chế trong cơng tác đánh giá
trách nhiệm tại công ty
- Đưa ra một số giải pháp để xây dựng hệ thống kế toán trách nhiệm theo đặc thù
của công ty, giúp bộ máy quản trị tại công ty đánh giá được một cách đúng đắn thành
quả của các bộ phận trong việc hướng tới các mục tiêu chung của tổ chức.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp được vận dụng chủ yếu là phương pháp so sánh, tổng hợp số liệu
thực tế thu thập được trong q trình thực tập tại cơng ty.
3
Phương pháp khảo sát, phỏng vấn nhân viên kế toán về các chỉ tiêu từ đó đưa ra
nhận xét.
Ngồi ra, cịn có phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá… để hệ thống hóa lý
luận, tìm hiểu thực tiễn và đề ra các giải pháp hoàn thiện trong tương lai.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: hệ thống kế tốn quản trị tại cơng ty CP Sơn Đồng Nai.
Báo cáo sẽ xây dựng hệ thống kế tốn trách nhiệm tại cơng ty dựa trên những nền tảng
sẵn có này.
- Phạm vi nghiên cứu:
- Khơng gian nghiên cứu: Công ty CP Sơn Đồng Nai – TP. Biên Hịa.
6. Những đóng góp mới của đề tài:
Cơng ty CP Sơn Đồng Nai là một Công ty bao gồm nhiều phịng ban, nhiều thành
phần lao động khác nhau vì thế cơng ty gặp khó khăn trong cơng tác quản lý cũng như
đánh giá trách nhiệm. Báo cáo này nêu ra phần nào những hạn chế dưới góc độ của
một nhân viên mới để thấy được thực trạng diễn ra hàng ngày. Đồng thời đưa ra nhận
xét, giải pháp nhằm xây dựng công ty phát triển hơn, đặc biệt là “Xây dựng hệ thống
kế toán trách nhiệm”
7. Kết cấu của đề bài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Báo cáo nghiên cứu khoa học gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KẾ TỐN TRÁCH NHIỆM
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠNG TÁC KẾ TỐN TRÁCH NHIỆM TẠI
CƠNG TY CP SƠN ĐỒNG NAI.
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG HỆ THỐNG KẾ TỐN TRÁCH NHIỆM TẠI
CƠNG TY CP SƠN ĐỒNG NAI
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN TRÁCH NHIỆM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRỊ KẾ TỐN QUẢN TRỊ
1.1.1, Khái niệm về kế toán và kế toán quản trị:
a. Khái niệm kế toán:
Kế toán được định nghĩa rất đa dạng. Theo tiến trình lịch sử của mơn học kế
tốn, khi tham khảo lại những tác phẩm viết về kế toán của nhiều nước trên thế giới,
chúng ta nhận thấy có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Có thể nói định nghĩa kế toán
thay đổi theo thời gian để phù hợp với thời đại.
Liên đồn kế tốn Quốc tế (IFAC) đã có định nghĩa cơ bản về kế toán: “Kế toán
là một nghệ thuật của việc ghi chép, phân loại và tổng hợp bằng phương pháp riêng
dưới hình thức tiền tệ về các nghiệp vụ, các sự kiện liên quan đến tài chính và giải
trình kết quả của việc ghi chép này” (Nguồn: Kế toán quản trị áp dụng cho các doanh
nghiệp Việt Nam, năm 2003) [5]
Năm 1941, Viện kế tốn cơng chứng Hoa Kỳ (AICPA) đã định nghĩa: “Kế toán là
một nghệ thuật dùng để ghi chép, phân loại và tổng hợp theo phương pháp riêng dưới
hình thức tiền tệ về các nghiệp vụ, các sự kiện liên quan đến tài chính và giải trình kết
quả của việc ghi chép này” [3]
Đến năm 1966, Hội kế tốn Hoa Kỳ (AAA) lại có khái niệm khác như sau: “Kế
tốn là một q trình nhận diện, tổng hợp, đo lường và truyền đạt thông tin kinh tế để
giúp cho những người sử dụng các thơng tin đó đánh giá và ra quyết định” (Nguồn:
Hướng dẫn tổ chức kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam, năm 1998) [2]
Tại Việt Nam, năm 2003 Nhà nước ban hành Luật Kế toán số 03/2003/QH11 ở
khoản 1 điều 4 ghi: “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp
thơng tin kinh tế tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”
Phân tích về định nghĩa kế tốn trước kia và hiện nay có ba điểm khác biệt sau.
Thứ nhất, cơng việc của kế tốn của kế tốn được hiểu rộng hơn là khơng chỉ ghi chép,
phân loại mà cịn xử lý thơng tin và phân tích. Thứ hai là hình thức biểu hiện khơng
5
chỉ là giá trị tiền tệ mà còn coi là thông tin kinh tế cụ thể là bằng hiện vật, thời gian lao
động, giá trị. Cuối cùng là công việc kế tốn khơng chỉ giải trình kết quả ghi chép mà
cịn cung cấp thơng tin cho người sử dụng ra quyết định.
Tóm lại, kế tốn là mơn khoa học, là q trình thu thập, xử lý và cung cấp các
thơng tin kinh tế hữu ích cho người sử dụng nó. Tùy theo đối tượng và các yêu cầu về
thông tin kinh tế, kế toán sẽ thực hiện đáp ứng cho các mục đích tương ứng.
b. Khái niệm kế tốn quản trị:
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa Kỳ ghi rằng: “Kế tốn quản
trị là q trình nhận diện, đo lường, tổng hợp, phân tích, soạn thảo, diễn giải và truyền
đạt thông tin được quản trị sử dụng để lập kế hoạch, đánh giá và kiểm tra trong nội bộ
tổ chức, và đảm bảo việc sử dụng hợp lý và có trách nhiệm với các nguồn lực của tổ
chức.” (Nguồn: Kế toán quản trị, năm 2006) [4]
Trong Luật kế toán, khoản 3 điều 4, kế toán quản trị được xác định: “là việc thu
thập, xử lý, phân tích và cung cấp thơng tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và
quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kinh tế.”
Thơng tin hoạt động nội bộ mà kế tốn cung cấp có thể là: Chi phí của từng bộ
phận, từng cơng việc, sản phẩm; phân tích đánh giá tình hình thực hiện với kế hoạch
về doanh thu, chi phí, lợi nhuận; phân tích mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng và
lợi nhuận, lựa chọn thơng tin thích hợp cho ra các quyết định đầu tư ngắn hạn dài hạn,
lập dự toán ngân sách nhằm phục vụ việc điều hành, kiểm tra và ra quyết định kinh tế.
(Theo Thông tư 53/2006/TT-BTC năm 2006). [7]
Tóm lại, kế tốn quản trị chính là một phần của kế tốn phục vụ cho q trình
quản lý nội bộ của đơn vị. Nó tổng hợp, xử lý các thông tin ghi chép ban đầu thành
những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định của các cấp quản lý. Kế toán quản trị
giúp nhà quản lý sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện các
mục đích chung một cách hiệu quả.
1.1.2, So sánh giữa kế tốn quản trị và kế tốn tài chính: [6]
Giống nhau: Kế tốn tài chính và kế tốn quản trị cùng nghiên cứu quá trình
sản xuất kinh doanh, cùng sử dụng hệ thống ghi chép ban đầu và cùng thể hiện trách
nhiệm của nhà quản trị
6
Khác nhau:
KẾ TỐN QUẢN TRỊ
KẾ TỐN TÀI CHÍNH
Đối tượng sử dụng
Các nhà quản trị bên trong Những đối tượng bên ngồi
thơng tin
doanh nghiệp là chủ yếu
là chủ yếu
Hướng về tương lai
Phản ánh quá khứ
Linh hoạt, theo yêu cầu của Cố định, tuân thủ theo
Đặc điểm thông tin
nhà quản trị
nguyên tắc kế tốn
Biểu hiện thơng qua ba Biểu hiện dưới thước đo
thước đo
u cầu thơng tin
giá trị
Địi hỏi tính kịp thời cao Địi hỏi tính chính xác cao
hơn tính chính xác
Phạm vi cung cấp
Từng bộ phân, tồn doanh Tồn doanh nghiệp
thơng tin
nghiệp
Báo cáo theo yêu cầu và Báo cáo tài chính do Nhà
Các loại báo cáo
mục đích sử dụng của nhà nước quy định
quản trị
Kỳ hạn lập báo cáo
Thường xuyên
Định kỳ
Quan hệ với các ngành
Quan hệ nhiều
Quan hệ ít
Khơng có tính bắt buộc
Có tính bắt buộc
học khác
Tính bắt buộc
1.1.3, Vai trị của kế toán quản trị:[6]
Kế toán phục vụ chức năng hoạch định là cung cấp thơng tin về tình hình tài
chính, tình hình hoạt động của đơn vị, của đối thủ cạnh tranh, điều kiện thị trường, thị
hiếu khách hàng và sáng kiến kỹ thuật… Thơng tin do kế tốn quản trị cung cấp rất
7
quan trọng trong việc truyền đạt và hướng dẫn nhà quản trị xây dựng kế hoạch ngắn
hạn và dài hạn.
Kế toán quản trị phục vụ chức năng tổ chức – điều hành là cung cấp thông tin
cho việc xây dựng và phát triển một cơ cấu nguồn lực hợp lý trong doanh nghiệp và
những thông tin phát sinh hàng ngày trong doanh nghiệp. Thơng tin do kế tốn quản trị
cung cấp phải có tác dụng phản hồi về hiệu quả và chất luợng của các hoạt động đã và
đang thực hiện để giúp nhà quản trị có thể kịp thời điều chỉnh và tổ chức lại hoạt động
của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị phục vụ chức năng kiểm soát là cung cấp thơng tin về tình hình
thực tế, thơng tin chênh lệch giữa thực tế với dự toán của từng bộ phận trong doanh
nghiệp, giúp cho nhà quản trị kiểm soát được việc thực hiện các chỉ tiêu dự toán và
đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong tương lai.
Cuối cùng, vai trò quan trọng nhất của kế tốn quản trị là cơng cụ cho ban quản
trị ra quyết định. Việc ra quyết định xuyên suốt quá trình quản lý từ khâu kế hoạch, tổ
chức và phân tích đánh giá. Các thơng tin kế tốn cung cấp nhất thiết phải chính xác,
đầy đủ và thích hợp để tránh việc ra quyết định sai. Đối với các quyết định có tính
chiến lược, thơng tin do kế toán quản trị cung cấp phải hỗ trợ cho nhà quản trị xác định
các muc tiêu của tổ chức và đánh giá các mục tiêu đó có thể thực hiện được trên thực
tế hay không. Đối với các quyết định tác nghiệp, kế tốn quản trị cung cấp những
thơng tin để giúp nhà quản trị ra quyết định về việc sử dụng các nguồn lực của tổ chức
và giám sát các nguồn lực đó đã và đang được sử dụng như thế nào. Nhìn chung, việc
ra quyết định có thể bao gồm ba cấp độ: cấp cơ sở là cấp ra quyết định tác nghiệp, cấp
trung gian để ra các quyết định chiến thuật, và cấp cao là ra quyết định chiến lược.
1.1.4, Nội dung của kế toán quản trị:[9]
Nội dung cơ bản của kế toán quản trị bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
• Hạch tốn chi phí và quản trị chi phí
• Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và so sánh các hoạt động của doanh nghiệp
• Hoạch định các hoạt động sản xuất, tài chính, đầu tư (bao gồm cả dự tốn
ngân sách)
• Các báo cáo quản trị
8
Ngồi ra, trong hệ thống kế tốn quản trị cịn bao gồm cả dự báo về các nhân tố
bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp
Hệ thống hạch tốn chi phí và quản lý chi phí: Hệ thống hạch tốn chi phí cho
biết doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay khơng? Hệ thống này phải phù hợp với
các yêu cầu của môi trường bên ngồi doanh nghiệp, trong đó có luật thuế, phù hợp
với các chế độ kế toán và các nguyên tắc quy định của doanh nghiệp, cũng như phải
dựa vào định mức tiêu hao các nguồn lực. Điều này đặc biệt có ý nghĩa, nhất là với các
doanh nghiệp sản xuất, bởi vì tính giá thành sản phẩm có liên quan mật thiết đến đặc
trưng của quy trình cơng nghệ sản xuất.
Hệ thống các chỉ tiêu hoạt động: Các chỉ tiêu hoạt động là cơ sở hoạch định công
việc cho các bộ phận và phân chia trách nhiệm trong doanh nghiệp. Để các nhà quản
trị trên mọi cấp có thể thực hiện được các chức năng quản trị tương ứng, cần phải có
nguyên tắc phân quyền, nguyên tắc phân chia trách nhiệm trong cơ cấu tổ chức quản lý
của doanh nghiệp. Khi đó mức độ quan trọng của hệ thống cịn khảo sát khơng cịn
phụ thuộc vào quan điểm xây dựng hệ thống các chỉ tiêu hoạt động càng có ý nghĩa,
cho phép xác định kịp thời các chỉ tiêu và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
phản ánh nhiệm vụ đặt ra trước mỗi bộ phận trong doanh nghiệp.
Hệ thống dự tốn ngân sách: Tiến hành đánh giá tình hình thu chi dựa theo kế
hoạch và thực tế đạt được trong phạm vi ngân sách đã được dự toán.
Dự toán ngân sách chủ đạo: Thường đuợc lập cho kỳ kế hoạch một năm hoặc
dưới một năm. Đặc điểm của loại dự tốn này là có tính khả thi, được lập cho từng
hoạt động như tiêu thụ, sản xuất, tài chính…và đặc điểm cuối cùng là kết hợp các dự
toán riêng lẻ thành một bản dự toán tổng thể.
Dự toán linh hoạt: Được lập trước hoặc sau kỳ kế hoạch, là dự toán được lập
tương ứng với nhiều mức độ hoạt động nhất định. Như vậy, dự toán linh hoạt được
thiết lập theo mối quan hệ với quá trình hoạt động sẽ giúp ta xác định được các chi phí
tương ứng với các mức độ, phạm vi hoạt động khác nhau.
Hệ thống báo cáo quản trị: Hệ thống các báo cáo quản trị thông thường được
phản ánh thực tế quản trị doanh nghiệp. Những báo cáo ít chi tiết hơn thường được
cung cấp cho lãnh đạo cấp cao. Cấp bậc của báo cáo quản trị được thể hiện ở hình 1.1.
Trong hình này cho thấy bộ máy tổ chức của doanh nghiệp được chia ra làm 3 cấp:
9
Cấp cao, cấp trung gian và cấp thấp. Những báo cáo quản trị mang tính chất tổng hợp,
khái quát (báo cáo phân tích, báo cáo tổng kết) thường cung cấp cho lãnh đạo cấp cao
để ra quyết định quản lý mang tinh chất chiến lược, các báo cáo ít chi tiết hơn (báo cáo
tổng hợp, báo cáo thực hiện kế hoạch) cung cấp cho lãnh đạo cấp trung gian để ra các
quyết định mang tính chất chiến thuật. Các báo chi tiết nhất, cụ thể nhất (tổng hợp dữ
liệu, dữ liệu về các hợp đồng) cung cấp cho lãnh đạo cấp thấp để ra các quyết định
mang tính chất tác nghiệp. Theo hướng dịch chuyển từ trên xuống dưới trong bộ máy
tổ chức quản lý, các báo cáo thường được chuẩn bị chi tiết hơn, những lĩnh vực mà có
thơng tin phải hẹp lại. Khối lượng thông tin cung cấp cho lãnh đạo các bộ phận để thực
hiện phân tích thường phải giống nhau.
Trong doanh nghiệp người ta thường sử dụng khái niệm trung tâm chi phí để
phân chia trách nhiệm theo cấp độ. Lãnh đạo trung tâm này chịu trách nhiệm thực hiện
các nhiệm vụ đặt ra trong khuôn khổ ngân sách đã cấp. Có hai loại trung tâm chi phí là
trung tâm định mức chi phí và trung tâm quản lý chi phí.
Trách nhiệm
ra quyết định
Cấp
cao
Cấp
quản
lý
Báo cáo phân tích
Báo cáo tổng kết
Báo cáo tổng hợp
Báo cáo thực hiện
kế hoạch
Cấp trung
Tính linh hoạt
của thơng tin
Cấp thấp
Tổng hợp dữ liệu
Dữ liệu về báo cáo
hợp đồng
Hình 1.1 – Cấp độ của báo cáo quản trị
Trong từng doanh nghiệp có thể tách ra các quá trình sản xuất kinh doanh khác
nhau. Đối với mỗi lĩnh vực hoạt động thường chỉ lập các mẫu báo cáo quản trị hoặc
mơ hình quản trị mang tính đặc thù. Như vậy, mẫu báo cáo của kế tốn quản trị trong
mỗi doanh nghiệp có tính đặc thù riêng.
10
1.2. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRỊ CỦA KẾ TỐN TRÁCH NHIỆM
1.2.1, Khái niệm kế toán trách nhiệm và các trung tâm trách nhiệm:
Chúng ta biết rằng, hầu hết các tổ chức nói chung và các tổ chức kinh doanh nói
riêng đều được phân chia thành các bộ phận nhỏ hơn, mỗi bộ phận đảm nhiệm một
chức năng cụ thể, chịu trách nhiệm về những công việc cụ thể. Trong mỗi bộ phận như
vậy sẽ có những cá nhân chịu trách nhiệm về một cơng việc hoặc chức năng nào đó.
Như vậy, để đạt được mục tiêu chung của tổ chức mỗi cá nhân, mỗi bộ phận trong tổ
chức phải nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, các mục tiêu riêng lẻ do quản lý cấp cao đã
vạch ra cho bộ phận mình. Để kiểm sốt hoạt động của cấp dưới, các nhà quản lý cấp
cao đã dựa vào hệ thống kế toán trách nhiệm (Responsibility Accounting).
Kế toán trách nhiệm là hệ thống kế tốn cung cấp thơng tin về kết quả, hiệu quả
hoạt động của các bộ phận, các đơn vị trong một doanh nghiệp. Đó là cơng cụ đo
lường đánh giá hoạt động của những bộ phận liên quan đến đầu tư, lợi nhuận, doanh
thu, chi phí mà bộ phận đó có quyền kiểm sốt và trách nhiệm tương ứng.
Kế toán trách nhiệm liên quan đến các khái niệm và cơng cụ mà các kế tốn viên
sử dụng để đo lường sự thực hiện của các cá nhân và các bộ phận nhằm thúc đẩy
những nổ lực hướng về mục tiêu chung của tổ chức.
Trung tâm trách nhiệm là một đơn vị phân cấp quản lý của một tổ chức mà nhà
quản trị đơn vị được quyền điều hành, chịu trách nhiệm về thành quả trong việc hướng
vào mục tiêu chung của tổ chức. Theo thông tư 53 ngày 12/06/2006, trung tâm trách
nhiệm là một bộ phận (phân xưởng, dây chuyền sản xuất; một phịng, ban; một cơng ty
hoặc tồn bộ cơng ty) trong một tổ chức mà người quản lý của bộ phận đó có quyền
điều hành và có trách nhiệm đối với số chi phí, thu nhập phát sinh hoặc số vốn đầu tư
sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
11
Hình 1.2 – Mối quan hệ giữa kế tốn trách nhiệm với cơ cấu tổ chức. [1]
CƠ CẤU TỔ CHỨC
QUẢN LÝ
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
HỆ THỐNG KẾ TOÁN
TRÁCH NHIỆM
CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
TRUNG TÂM ĐẦU TƯ
ROI
RI
CÔNG TY, ĐƠN VỊ
THÀNH VIÊN
TRUNG TÂM KINH
DOANH
BỘ PHẬN BÁN HÀNG
TRUNG TÂM DOANH
THU
BỘ PHẬN SẢN XUẤT
TRUNG TÂM CHI PHÍ
● Tỷ lệ lợi nhuận trên
vốn.
● Tỷ lệ lợi nhuận trên
doanh thu.
● Tỷ lệ doanh thu trên chi
phí.
● Chênh lệch doanh thu.
● Chênh lệch chi phí.
● Tỷ lệ lợi nhuận trên
doanh thu.
● Chênh lệch doanh thu.
● Tỷ lệ doanh thu trên chi
phí.
● Chênh lệch chi phí.
Thành quả của một trung tâm trách nhiệm, xét về mặt kinh tế, thể hiện qua thực
trạng tài chính của trung tâm trên hệ thống báo cáo về chi phí, doanh thu, lợi nhuận,
vốn đầu tư gắn liền với trách nhiệm và quyền điều hành, quản lý của nhà quản trị trung
tâm.
Trung tâm trách nhiệm là mọi điểm trong tổ chức quyết định và kiểm sốt về chi
phí, lợi nhuận và vốn đầu tư.
Trung tâm chi phí (Cost center) : Là một đơn vị/bộ phận của tổ chức trong đó
nhà quản lý chỉ có quyền điều khiển, kiểm sốt sự phát sinh của chi phí. (ví dụ: một
phân xưởng sản xuất trong một cơng ty là một trung tâm chi phí)
12
Trung tâm doanh thu (Revenue center) : Là một đơn vị/bộ phận của tổ chức
trong đó nhà quản lý chỉ có chịu trách nhiệm về doanh thu phát sinh (ví dụ: bộ phận
bán hàng của một công ty là một trung tâm doanh thu)
Trung tâm lợi nhuận (Profit center) : Là trung tâm trách nhiệm mà ở đó nhà
quản lý phải chịu trách nhiệm về lợi nhuận đạt được tại đơn vị do mình chịu trách
nhiệm quản lý. Do lợi nhuận là kết quả của doanh thu trừ chi phí, do đó nhà quản lý có
trách nhiệm kiểm sốt cả doanh thu và chi phí trong phạm vi quản lý của mình.
Trung tâm đầu tư (Investment center) : Là một đơn vị/bộ phận của tổ chức
trong đó nhà quản lý chỉ có chịu trách nhiệm về lợi nhuận và vốn đầu tư sử dụng bởi
đơn vị/bộ phận đó. (ví dụ: khu vực kinh doanh của một tổng cơng ty/tập đồn)
Vậy hệ thống kế toán trách nhiệm được xây dựng dựa trên cơ cấu tổ chức các bộ
phận trong doanh nghiệp có liên quan đến việc sử dụng chi phí, thực hiện doanh thu và
lợi nhuận, đầu tư. Kế toán trách nhiệm nhằm mục đích thơng tin về hiệu quả hoạt động
của các bộ phận đó.
1.2.2, Vai trị của kế tốn trách nhiệm:
Qua khái niệm trên, kế toán trách nhiệm là một bộ phận kế tốn quản trị, nó cung
cấp thơng tin liên quan đến các chức năng của quản lý. Kế tốn trách nhiệm thể hiện
các vai trị sau:
1.2.2.1 Kế tốn trách nhiệm cung cấp thơng tin cho việc thực hiện các chức
năng tổ chức và điều hành của doanh nghiệp. Kế toán trách nhiệm xác định các trung
tâm trách nhiệm, qua đó nhà quản lý có thể hệ thống hóa các cơng việc của từng trung
tâm mà thiết lập các chỉ tiêu đánh giá. Kế toán trách nhiệm giúp nhà quản trị đánh giá
và điều chỉnh các bộ phận cho phù hợp.
1.2.2.2 Kế tốn trách nhiệm cung cấp thơng tin cho việc thực hiện các chức
năng kiểm soát tài chính và kiểm sốt quản lý. Thơng qua kế tốn trách nhiệm, mà nhà
quản lý có thể đánh giá chi phí đã chi, doanh thu và lợi nhuận thực hiện của bộ phận.
Báo cáo trách nhiệm phản hồi cho người quản lý biết kế hoạch thực hiện ra sao, nhận
diện các vấn đề hạn chế để có sự điều chỉnh các chiến lược mục tiêu sao cho kết quả
kinh doanh là tốt nhất. Đây là nguồn thông tin để nhà quản lý nâng cao hiệu suất sử
dụng vốn, tăng doanh thu, giảm chi phí một cách hợp lý, tối đa hóa lợi nhuận.
13
1.2.2.3 Kế tốn trách nhiệm khuyến khích nhà quản lý hướng đến mục tiêu
chung của tổ chức. Mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp được gắn liền với các trung
tâm trách nhiệm. Khi kế tốn có thể kiểm sốt được tài chính và quản lý thì nhà quản
lý sẽ điều chỉnh hoạt động hướng đến các mục tiêu chung. Đồng thời, bản thân các
giám đốc trung tâm trách nhiệm được khích lệ hoạt động sao cho phù hợp với các mục
tiêu cơ bản của tồn cơng ty.
1.2.3, Nội dung của kế toán trách nhiệm:
1.2.3.1, Phân cấp quản lý và xác định các trung tâm trách nhiệm
Các nhà quản lý nhận thấy rằng hệ thống kế toán trách nhiệm chỉ phát huy tác
dụng và hoạt động có hiệu quả nhất trong những tổ chức thực hiện sự phân cấp trong
quản lý. Hầu hết các tổ chức có qui mơ lớn đều thực hiện phân cấp quản lý. Sự phân
cấp quản lý xảy ra khi các nhà quản lý của các đơn vị và các bộ phận trong tổ chức
được trao quyền tự do trong việc ra quyết định.
a. Phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý là việc người quản lý giao quyền quyết định cho cấp quản lý
thấp hơn trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Và cấp dưới đó chỉ ra quyết định
trong phạm vi trách nhiệm của mình. Tùy theo từng doanh nghiệp, mức độ phân chia
có thể khác nhau, gồm nhiều cấp độ hay chỉ một cấp và việc giao quyền quyết định có
thể nhiều hay ít.
Mỗi cấp sẽ có người quản lý riêng và có thể một trong các trung tâm từ thấp lên
cao như sau: trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm
đầu tư. Người quản lý sẽ điều phối các nguồn lực và hoạt động trong trung tâm mình
để thực hiện các chỉ tiêu do cấp trên đã giao.
Khi phân cấp quản lý, nếu doanh nghiệp chia ra q nhiều cấp thì sẽ có thể dẫn
đến bộ máy tổ chức cồng kềnh, hoặc nếu tập trung quá nhiều quyền quyết định một nơi
sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động. Vì thế, nhà quản lý cần phải cân nhắc giữa ưu điểm
và khuyết điểm khi thực hiện việc phân cấp đó.
14
Lợi ích của việc phân cấp quản lý:
Ra quyết định tốt nhất là ở ngay cấp phát sinh vấn đề. Nhà quản lý các bộ phận
và các bộ phận trong tổ chức là những chuyên gia trong lĩnh vực họ quản lý. Do vậy,
họ sẽ quản lý bộ phận của họ hiệu quả hơn.
Việc cho phép các nhà quản lý các bộ phận được ra các quyết định giúp họ được
tập luyện khi họ được nâng cấp trong tổ chức. Do vậy, họ sẽ có sự chuẩn bị về khả
năng ra quyết định khi họ được giao trách nhiệm lớn.
Bằng việc trao một số quyền ra quyết định cho nhiều cấp quản lý, các nhà quản
lý cấp cao đỡ phải giải quyết rất nhiều vần đề xảy ra hàng ngày và do đó có thời gian
tập trung lập các kế hoạch chiến lược.
Giao trách nhiệm và quyền được ra quyết định thường làm tăng sự hài lịng với
cơng việc và khuyến khích người quản lý nỗ lực hết mình với công việc được giao.
Sự phân cấp quản lý cung cấp một căn cứ tốt hơn để đánh giá sự thực hiện của
người quản lý.
Qua các lợi ích được nêu ở trên cho thấy phân cấp có thể giúp cho việc ra quyết
định đúng đắn và hữu hiệu hơn. Các cấp dưới có điều kiện tiếp cận thơng tin, tự rèn
luyện trong q trình ra các quyết định. Cấp trên có thể tập trung vào quyết định cho
các mục tiêu chiến lược chung của công ty.
Khuyết điểm của phân cấp quản lý:
Việc phân cấp quản lý càng nhiều thì càng khó kiểm soát được. Điều hiển nhiên
là việc ủy quyền đi chung với việc ít kiểm sốt hơn đối với các quyết định của các bộ
phận. Quyết định của các trung tâm có ảnh hưởng lẫn nhau cũng như là có ảnh hưởng
đến cả cơng ty nói chung. Nhà quản lý có thể khó điều hành và phối hợp giữa các
trung tâm.
Nếu kiểm sốt khơng tốt, phân cấp trách nhiệm có thể dẫn đến tuân thủ sai lệch
các mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp. Do các giám đốc trung tâm trách nhiệm chỉ
tập trung vào lợi ích của đơn vị, khơng xem xét quyết định đó có ảnh hưởng đến doanh
nghiệp như thế nào, làm lệch mục tiêu chung của doanh nghiệp.
15
Ngồi ra, phân cấp quản lý cịn dẫn đến sự trùng lắp không cần thiết đối với các
trung tâm trách nhiệm. Nếu bộ máy tổ chức cồng kềnh mà ít công việc sẽ tạo nên sự
mâu thuẫn và gây lãng phí nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
b. Xác định các trung tâm trách nhiệm, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các
trung tâm trách nhiệm
Kế toán trách nhiệm đo lường, qua đó đánh giá trách nhiệm quản lý và kết quả
hoạt động của từng bộ phận trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn bộ doanh
nghiệp dựa trên hai tiêu chí là chỉ tiêu hiệu quả và chỉ tiêu kết quả. Theo đó:
Kết quả: có được khi đạt được mục tiêu đặt ra mà chưa kể đến việc sử dụng tài
ngun như thế nào, nó được tính tốn bằng việc so sánh giữa kết quả đạt được với
mục tiêu đề ra cho trung tâm trách nhiệm đó. Nói cách khác, đó chính là mức độ trung
tâm trách nhiệm hồn thành mục tiêu của mình.
Hiệu quả: là tỷ lệ giữa đầu ra so với đầu vào của trung tâm trách nhiệm, hay có
thể nói đó là tỷ lệ giữa kết quả thực tế đạt được so với nguồn tài nguyên thực tế mà
trung tâm trách nhiệm đã sử dụng để tạo ra kết quả đó.
Như vậy, để có thể xác định được hiệu quả và kết quả của các trung tâm trách
nhiệm vấn đề đặt ra là phải lượng hóa được đầu vào và đầu ra của các trung tâm trách
nhiệm. Trên cơ sở đó sẽ xác định được các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá kết quả hoạt
động của từng trung tâm cụ thể. Việc đo lường thành quả hoạt động của các trung tâm
trách nhiệm sẽ tạo điều kiện cho việc đánh giá chất lượng hoạt động của giám đốc các
trung tâm, đồng thời khích lệ họ điều khiển hoạt động trung tâm của mình phù hợp với
mục tiêu cơ bản của tồn cơng ty.
Trong kế toán quản trị, trung tâm trách nhiệm được phân loại theo chức năng tài
chính. Đó là trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận và trung tâm
đầu tư. Như đã đề cập ở trên, khi phân cấp quản lý, kế toán sẽ xác định các cấp thuộc
về một trong các trung tâm trách nhiệm để theo dõi báo cáo. Mỗi trung tâm có thể là
một phần hay tồn bộ trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận, hay
trung tâm đầu tư.
16
b1. Trung tâm chi phí:
Trung tâm chi phí là trung tâm mà người quản lý chỉ có quyền kiểm sốt và chịu
trách nhiệm đối với chi phí phát sinh ở trung tâm đó. Thường đây là trung tâm trực tiếp
tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc gián tiếp phục vụ kinh doanh. Trung tâm này khơng có
quyền hạn đối với các thu nhập, lợi nhuận kinh doanh và đầu tư vốn. Tùy theo tính
chất của chi phí và kết quả làm ra mà người ta chia trung tâm chi phí thành trung tâm
chi phí định mức và trung tâm chi phí tùy ý.
Trung tâm chi phí định mức: là trung tâm chi phí mà đầu ra có thể xác định và
lượng hóa bằng tiền trên cơ sở đã biết phí tổn cần thiết để tạo ra một đơn vị đầu ra. Ví
dụ, một phân xưởng sản xuất là một trung tâm chi phí định mức vì giá thành mỗi đơn
vị sản phẩm tạo ra có thể xác định thơng qua định mức chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, đinh mức chi phí nhân cơng trực tiếp và định mức chi phí sản xuất chung. Đối với
trung tâm chi phí này thì:
• Về mặt kết quả: được đánh giá thơng qua việc hoàn thành kế hoạch sản
lượng sản xuất đúng thời hạn và tiêu chuẩn kỹ thuật quy định
• Về mặt hiệu quả: được đo lường thông qua việc so sánh giữa chi phí thực
tế với chi phí định mức, phân tích biến động và xác định các nguyên nhân
chủ quan, khách quan tác động đến tình hình thực hiện định mức chi phí.
Trung tâm chi phí tùy ý: là trung tâm chi phí mà đầu ra khơng thể luợng hóa bằng
tiền một cách chính xác và mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào ở trung tâm này không
chặt chẽ. Điển hình về trung tâm chi phí này là các phòng ban thuộc bộ phận gián tiếp
như phòng nhân sự, tổng hợp, kế tốn,... Các khoản chi phí thường được đặt ra cố định
cho mỗi phòng ban, sự thay đổi nếu có của các khoản chi phí này cũng không làm ảnh
hưởng đến năng suất của các phân xưởng sản xuất. Các trung tâm chi phí này được
đánh giá như sau:
• Về mặt kết quả: được đánh giá thơng qua so sánh giữa đầu ra và mục tiêu
phải đạt được của trung tâm.
• Về mặt hiệu quả: được đánh giá chủ yếu dựa vào việc đối chiếu giữa chi
phí thực tế phát sinh và dự toán ngân sách đã được duyệt. Thành quả của
17
các nhà quản lý bộ phận này được đánh giá dựa vào khả năng kiểm sốt
chi phí của họ trong bộ phận.
Chỉ tiêu đánh giá:
Chênh lệch chi phí = chi phí thực tế - chi phí dự tốn
Chỉ tiêu đánh giá:
Tỷ suất lợi nhuận
trên chi phí
Lợi nhuận trước thuế thu nhập của trung tâm
=
Tổng chi phí của trung tâm
b2. Trung tâm doanh thu:
Là trung tâm mà người quản lý chỉ có trách nhiệm với doanh thu cần tạo ra,
khơng chịu trách nhiệm với chi phí, lợi nhuận và vốn đầu tư. Trung tâm doanh thu có
quyền quyết định cơng việc bán hàng trong khung giá cả cho phép để tạo ra doanh số
tức nguồn thu nhập cho công ty. Cần chú ý khi xác định các chỉ tiêu đánh giá trung
tâm doanh thu:
• Về mặt kết quả: sẽ đối chiếu giữa doanh thu thực tế đạt được với doanh
thu dự tốn của bộ phận. Xem xét tình hình thực hiện dự tốn tiêu thụ, qua
đó phân tích sai biệt doanh thu do ảnh hưởng của các nhân tố có liên quan
đơn giá bán, khối lượng sản phẩm tiêu thụ và cơ cấu sản phẩm tiêu thụ.
• Về mặt hiệu quả: do đầu ra của trung tâm doanh thu được lượng hóa bằng
tiền nhưng đầu vào thì khơng vì trung tâm doanh thu không chịu trách
nhiệm về giá thành hay giá vốn hàng hóa. Trong khi đó chi phí phát sinh
tại trung tâm doanh thu không thể so sánh được với doanh thu của trung
tâm. Vì vậy cần so sánh giữa chi phí thực tế và chi phí dự tốn của trung
tâm khi đo lường hiệu quả của trung tâm doanh thu.
Chỉ tiêu đánh giá:
Chênh lệch doanh thu = Doanh thu thực tế - Doanh thu dự toán
Chỉ tiêu đánh giá:
Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
Lợi nhuận trước thuế thu nhập của trung tâm
=
Tổng doanh thu của trung tâm
18
b3. Trung tâm lợi nhuận:
Trung tâm lợi nhuận là trung tâm trách nhiệm mà nhà quản trị chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh sản xuất của trung tâm đó, nhưng khơng có quyền quyết định
đến vốn đầu tư của cơng ty. Trong đó, trung tâm lợi nhuận có thể quyết định về chi phí,
và doanh thu như: sản xuất sản phẩm nào, sản xuất ra sao, chất lượng, giá cả và phân
phối bán hàng ra sao… Tùy theo cơ cấu tổ chức, trung tâm lợi nhuận là một đơn vị độc
lập riêng biệt hay nó diều hành cả trung tâm chi phí và doanh thu. Việc đánh giá trung
tâm lợi nhuận cần:
• Về mặt kết quả: so sánh lợi nhuận đạt được giữa thực tế với lợi nhuận ước
tính theo dự tốn. Phân tích khoản sai biệt lợi nhuận do ảnh hưởng của các
nhân tố liên quan như doanh thu, giá vốn, chi phí bán hàng, chi phí quản
lý. Qua đó xác định các nguyên nhân chủ quan, khách quan làm biến động
lợi nhuận so với dự tốn.
• Về mặt hiệu quả: được đo lường bằng các chỉ tiêu như số dư đảm phí bộ
phận, số dư bộ phận kiểm soát được, số dư bộ phận, lợi nhuận trước thuế.
Ngồi ra, cịn có thể sử dụng các số tương đối như tỷ lệ lợi nhuận trên
doanh thu, tỷ suất doanh thu trên chi phí,…để đánh giá hiệu quả hoạt động
của trung tâm lợi nhuận.
Chỉ tiêu đánh giá:
Chênh lệch chi phí = chi phí thực tế - chi phí dự toán
Chênh lệch doanh thu = Doanh thu thực tế - Doanh thu dự toán
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
Lợi nhuận trước thuế thu nhập của trung tâm
Tỷ suất lợi nhuận
=
trên doanh thu
Tổng doanh thu của trung tâm
b4. Trung tâm đầu tư:
Trung tâm đầu tư là trung tâm có quyền lực cao nhất, khơng chỉ có quyền và
trách nhiệm đối với trung tâm lợi nhuận, doanh thu, chi phí, mà cịn có quyền và trách
nhiệm đối với vốn hoạt động và tài sản kinh doanh. Việc đánh giá trung tâm đầu tư
cần:
19
• Về mặt kết quả: có thể đo lường giống như trung tâm lợi nhuận
• Về mặt hiệu quả: cần có sự so sánh giữa lợi nhuận đạt được với tài sản
hay giá trị đã đầu tư vào trung tâm thơng qua các chỉ tiêu ROI, RI,…sẽ
được trình bày ở phần sau.
Tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (Return on Investment – ROI)
Là tỷ số giữa lợi nhuận thuần trên vốn đầu tư bỏ ra. Ngồi ra ROI cịn được phân
tích là tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu với vòng quay của doanh thu trên vốn đã sử dụng.
ROI
=
Lợi nhuận hoạt động
Tài sản được đầu tư
ROI được sử dụng để đánh giá hiệu quả đầu tư của các trung tâm đầu tư và các
doanh nghiệp có quy mơ vốn khác nhau để xem nơi nào đạt hiệu quả cao nhất, làm cơ
sở đánh giá thành quả quản lý. Ngoài ra, ROI cịn được sử dụng để tìm ra các nhân tố
tác động đến hiệu quả quản lý nhằm tìm ra giải pháp để kết quả hoạt động tốt hơn. Đó
là các biện pháp cải thiện doanh thu, kiểm soát chi phí hay tính lại cơ cấu vốn đầu tư.
Các biện pháp làm tăng ROI:
Phân tích các yếu tố cấu thành nên chỉ tiêu ROI, ta thấy có thể tăng chỉ tiêu ROI
bằng các biện pháp sau đây:
- Tăng doanh thu (chi phí có thể khơng đổi hoặc giảm xuống): doanh thu tăng
trong khi chi phí khơng đổi hoặc giảm xuống sẽ làm cho mức lợi nhuận tăng lên, việc
tăng lợi nhuận sẽ làm ROI tăng.
- Tiết kiệm chi phí (doanh thu không đổi hoặc tăng): trong biện pháp này các nhà
quản trị cố gắng giảm các khoản chi phí hoạt động mà mục tiêu chủ yếu là giảm biến
phí, đặc biệt là tăng năng suất lao động để giảm chi phí lao động trong một đơn vị sản
phẩm. Chi phí hoạt động giảm trong khi doanh thu không đổi hoặc tăng lên sẽ làm lợi
nhuận tăng và làm tăng ROI.
- Doanh thu giảm với tốc độ giảm chậm hơn tốc độ giảm chi phí: giải pháp này
được thực hiện khi phải cắt giảm các hoạt động không hiệu quả hay giảm bớt sản xuất
các mặt hàng không đem lại hiệu quả cao. Mức lợi nhuận trong trường hợp này giảm
đi do doanh thu giảm nhưng đồng thời cũng cắt giảm được các chi phí tạo gánh nặng
20
cho công ty nên cuối cùng chỉ số ROI vẫn tăng lên so với lúc chưa cắt giảm bớt các
hoạt động.
- Tiết kiệm vốn sử dụng
+ Đối với vốn lưu động: để tiết kiệm phải dự trữ một lượng tiền hợp lý, đẩy
nhanh tốc độ thanh toán để giảm khoản phải thu và thực hiện tốt các định mức về dự
trữ nguyên vật liệu, hàng hóa, thành phẩm,…
+ Đối với vốn cố định: để tiết kiệm phải tận dung hết năng lực của tài sản cố
định, của máy móc thiết bị mà cụ thể là phải tận dụng hết công suất, thời gian và số
lượng của máy móc thiết bị.
Một số điểm hạn chế của ROI:
Mặc dù chỉ tiêu ROI là một chỉ tiêu quan trọng được nhiều nhà quản trị sử dụng
rộng rãi để đánh giá kết quả thực hiện của quản lý, nó vẫn cịn có những điểm hạn chế
sau đây:
- ROI có khuynh hướng chú trọng đến quá trình sinh lời ngắn hạn hơn là quá
trình sinh lời dài hạn, do vậy nhà quản trị nếu chỉ quan tâm đến ROI có thể bỏ qua
nhiều cơ hội đầu tư mới mà kết quả của chúng chỉ có thể thể hiện trong tương lai dài
thay vì một hai kỳ sắp đến, làm cản trở việc hướng đến mục tiêu chung của tổ chức.
- ROI không phù hợp với mơ hình vận động của các dịng tiền nên bị hạn chế khi
sử dụng để đánh giá thành quả quản lý của trung tâm đầu tư.
- ROI có thể khơng hoàn toàn chịu sự điều hành của nhà quản trị trung tâm đầu
tư, vì tài sản của nó có thể được quyết định bởi các nhà quản trị cấp trên.
- Nếu các nhà quản trị được đánh giá bằng ROI, họ sẽ tìm mọi cách để tăng ROI.
Điều này có thể sẽ khơng phù hợp với chiến lược của tồn cơng ty, chẳng hạn việc cắt
giảm các chi phí nghiên cứu phát triển.
Để khắc phụ nhược điểm trên, chúng ta sử dụng thước đo thành quả khác là lợi
nhuận giữ lại (RI).
Lợi nhuận còn lại (Residual Income – RI).
Lợi nhuận còn lại là phần còn lại của lợi nhuận hoạt động sau khi trừ đi lợi nhuận
mong muốn tối thiểu từ tài sản được đầu tư của trung tâm đầu tư.
21
Lợi nhn
Cịn lại
=
Lợi nhuận
hoạt động
_
{
Tài sản
đầu tư
×
Tỷ lệ hồn vốn
mong muốn tối thiểu
}
Lợi nhuận cịn lại càng lớn thì lợi nhuận hoạt động tạo ra càng nhiều hơn lợi
nhuận mong muốn tối thiểu, khi đó thành quả quản lý của các nhà quản trị ở trung tâm
đầu tư càng được đánh giá cao.
Hạn chế của chỉ tiêu RI.
Chỉ tiêu RI là một số tuyệt đối nên thường được dùng để khắc phục hạn chế của
chỉ tiêu ROI trong việc đánh giá thành quả của trung tâm đầu tư, nhưng bên cạnh đó vì
là số tuyệt đối nên chỉ tiêu này không thể được sử dụng để đánh giá thành quả của các
trung tâm có quy mơ khác nhau.
Nói tóm lại, cả ROI và RI đều có những hạn chế nhất định trong việc đánh giá
hiệu quả hoạt động của trung tâm đầu tư. ROI có thể khơng đảm tính thống nhất mục
tiêu hoạt động của tổ chức. Sử dụng RI thì khơng đảm bảo tính hợp lý trong việc so
sánh hiệu quả của các trung tâm đầu tư có quy mơ khác nhau. Vì vậy, các doanh
nghiệp sẽ sử dụng phối hợp hai phương pháp đánh giá này. Ngoài ra, những tiêu chuẩn
đánh giá khác, bao gồm cả những chỉ tiêu tài chính và phi tài chính (như mức tăng
trưởng doanh thu, thị phần,…) có thể kết hợp sử dụng để đánh giá.
1.2.3.2, Xác định các báo cáo kết quả và hiệu quả hoạt động của các
trung tâm trách nhiệm.
Thành quả của mỗi trung tâm trách nhiệm được tổng hợp định kỳ trên một báo
cáo thành quả. Báo cáo thành quả sẽ phản ánh kết quả tài chính chủ yếu theo thực tế và
theo dự toán, đồng thời chỉ ra các chênh lệch giữa kết quả thực tế so với dự toán theo
từng chỉ tiêu được chuyển tải trong báo cáo phù hợp với từng loại trung tâm trách
nhiệm. Ví dụ, báo cáo thành quả của trung tâm chi phí gồm các khoản mục chi phí
thực tế, chi phí dự tốn và các khoản chêch lệch giữa chi phí thực tế so với dự toán;
báo cáo thành quả của trung tâm doanh thu bao gồm doanh thu thực tế, doanh thu dự
toán cùng với khoản chêch lệch giữa doanh thu thực tế so với dự toán, hay báo cáo
thành quả của trung tâm lợi nhuận là báo cáo tình hình thực hiện dự tốn lợi nhuận
theo hình thức số dư đảm phí, báo cáo thu nhập bộ phận. Như vậy báo cáo thành quả
chú trọng vào việc thực hiện các dự tốn và phân tích các chênh lệch, vì thế để so sánh
22
đánh giá các khoản chênh lệch này một cách phù hợp và đúng đắn, kế toán quản trị sẽ
sử dụng dự toán linh hoạt nhằm cung cấp một mức chuẩn cho việc so sánh, đánh giá
tình hình thực hiện dự tốn doanh thu, chi phí và lợi nhuận.
Mục đích của việc phân tích báo cáo thành quả bộ phận là xem xét chi tiết các
đối tượng hay từng bộ phận đóng góp bao nhiêu trong thành quả chung, bên cạnh đó sẽ
đánh giá được thành quả của từng bộ phận thông qua việc xem xét số dư bộ phận.
Trong báo cáo thành quả bộ phận, báo cáo thu nhập sẽ được chuyển sang theo
dạng số dư đảm phí. Các khoản chi phí được chi tiết theo tính chất có thể kiểm soát
riêng biệt từ bộ phận nhỏ đến bộ phận lớn. Trong đó định phí chung được tách ra thành
các định phí có thể kiểm sốt được đối với các bộ phận phân chia để làm rõ được
thành quả quản lý của bộ phận và thành quả bộ phận. Định phí bộ phận liên quan trực
tiếp đến bộ phận đó, nếu bộ phận khơng cịn thì định phí đó cũng không tồn tại. Việc
đánh giá thành quả quản lý bộ phận và thành quả bộ phận chủ yếu dựa vào xem xét số
dư của bộ phận, tức phần còn lại của số dư đảm phí sau khi trang trải tồn bộ định phí
bộ phận.
1.2.3.3, Một số nội dung liên quan đến kế toán trách nhiệm:
Nội dung của kế toán trách nhiệm là xác định các trung tâm trách nhiệm, xác
định các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của các trung tâm và lập nên báo cáo kết
quả. Không chỉ vậy, việc đánh giá các trung tâm cần phải kết hợp với một số công việc
khác. Các công việc có liên quan là cơ sở phân tích, đánh giá các trung tâm chính xác
hơn. Đó là những nội dung sau đây:
- Hệ thống dự toán cho các trung tâm trách nhiệm: Dự toán tổng hợp phản ánh
mục tiêu, nhiệm vụ mà doanh nghiệp cần phải đạt được trong kỳ hoạt động, đồng thời
phản ánh những biện pháp để thực hiện mục tiêu nhiệm vụ đó. Dự tốn tổng hợp cần
được phân nhỏ thành các dự toán trách nhiệm để đảm bảo cho các nhà quản lý bộ phận
tập trung trách nhiệm vào việc thực hiện dự toán. Sự phân chia này giúp cho nhà quản
lý từng bộ phận biết rõ các chỉ tiêu và phần việc của mình cần hồn thành, từ đó có thể
đánh giá khả năng quản lý, mức độ hồn thành cơng việc của các bộ phận. Khơng
những thế, thơng tin dự tốn cịn có thể thông báo trước những vấn đề phát sinh, từ đó
ban quản trị tổ chức đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo tính khả thi của dự tốn.
23
- Định giá sản phẩm, dịch vụ chuyển giao: Khi các bộ phận trong cùng đơn vị
cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ qua lại lẫn nhau sẽ phát sinh việc tính giá chuyển đổi
nội bộ. Giá chuyển đổi có thể xác định theo chi phí sử dụng, giá thị trường và giá
thương lượng. Việc xác định giá này sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các trung
tâm tham gia chuyển đổi nên cần thiết định giá một cách phù hợp, có thể chấp nhận
được.
- Phân bổ chi phí cho các trung tâm trách nhiệm: Chi phí trực tiếp phát sinh tại
trung tâm được trực tiếp vào tính kết quả, nhưng chi phí gián tiếp có liên quan đến
nhiều trung tâm thì kế tốn cần lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp để đánh giá đúng
kết quả và hiệu quả của các trung tâm trách nhiệm.
- Phân tích biến động chi phí, doanh thu, lợi nhuận: Việc phân tích biến động của
các chỉ tiêu được dựa trên dự toán kế hoạch là chủ yếu. Kế toán trách nhiệm phân tích
sai biệt giữa chỉ tiêu kế hoạch với thực tế của các trung tâm, rút ra các yếu tố làm ảnh
hưởng đến kết quả, hiệu quả của bộ phận đó. Đây là nội dung cần thiết để đánh giá
trách nhiệm quản lý của các trung tâm, kết quả, hiệu quả hoạt động của nó.
- Mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận: Đây là việc tính ra số dư đảm
phí, tỷ lệ số dư đảm phí, địn bẩy hoạt động, và ý nghĩa của nó đối với các trung tâm
lới nhuận cùng cấp. Thông qua việc tính tốn các chỉ tiêu về số dư đảm phí, kế tốn
trách nhiệm phân tích số dư của các trung tâm lợi nhuận để lại, từ đó phản ánh kết quả
và hiệu quả hoạt động của trung tâm lợi nhuận.
24
Kết luận chương 1
Kế toán trách nhiệm là một bộ phận quan trọng của kế tốn quản trị, đó là một
công cụ dùng để đánh giá thành quả quản lý của các cấp quản trị một cách đúng đắn và
đầy đủ. Qua đó giúp doanh nghiệp kiểm sốt chi phí, doanh thu, lợi nhuận, vốn đầu tư
một cách hiệu quả hơn.
Chương 1 giới thiệu tổng quát những kiến thức cần thiết về kế toán trách nhiệm
làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu các chương sau. Trong đó mỗi doanh nghiệp có
thể bao gồm 4 trung tâm trách nhiệm là: trung tâm chi phí, trung tâm doanh thu, trung
tâm lợi nhuận và trung tâm đầu tư. Mỗi một trung tâm sẽ ứng với một cấp quản trị
thích hợp, phụ thuộc vào quyền kiểm soát của nhà quản trị đối với trung tâm đó. Tùy
theo từng trung tâm, kế tốn trách nhiệm có những cơng cụ đánh giá thành quả khác
nhau.
Việc đánh giá đầy đủ và chính xác thành quả quản lý của các cấp quản trị sẽ giúp
doanh nghiệp có được những thơng tin quan trọng trong việc đưa ra những phương
thức hiệu quả nhất hướng đến mục tiêu chung của tổ chức.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG KẾ TỐN TRÁCH NHIỆM
TẠI CƠNG TY CỔ PHẦN SƠN ĐỒNG NAI
2.1. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ KINH DOANH VÀ CƠNG TÁC
KẾ TỐN.
2.1.1, Tình hình tổ chức quản lý kinh doanh.
2.1.1.1, Lịch sử hình thành và phát triển. [8]
- Tên gọi Cơng ty:
Tên tiếng Anh:
CƠNG TY CỔ PHẦN SƠN ĐỒNG NAI
DONG NAI PAINT CORPORATION
Tên viết tắt: DONAPACO
- Trụ sở chính và Văn phịng giao dịch:
Cơng ty đặt trụ sở chính tại Đường 7, Khu Cơng nghiệp Biên Hòa 1, Tp.Biên
Hòa, Tỉnh Đồng Nai
Điện thoại: (84.613) 836 451
Fax: (84.613) 836 091
Email:
Website :
Mã số thuế: 3600451024
Nơi mở tài khoản:
+ Ngân hàng Công thương Khu Công nghiệp Biên Hòa
Số hiệu tài khoản tiền đồng:
102010000268044
Số hiệu tài khoản ngoại tệ:
102020000029567
- Ngành nghề kinh doanh chính của Cơng ty:
+
Sản xuất, kinh doanh sản phấm sơn các loại, keo.