Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn mỹ thuật theo phương pháp mới của đan mạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.91 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG

TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG HẢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỨNG THÚ HỌC MÔN
MỸ THUẬT THEO PHƯƠNG PHÁP MỚI ĐAN MẠCH

Người thực hiện: Lê Thị Thảo
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Hải
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Mỹ thuật

QUẢNG XƯƠNG NĂM 2021
1


MỤC LỤC

Mục lục. ……………………………………………………….……

Trang 1

1. Mở đầu ………………………………………………………..............

2

1.1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………..


2

1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………...…..

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu ……... …………………………………….....

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………... ..

3

1.5. Những điểm mới của SKKN …………………………………………

3

2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm ……………………………….…

4

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm …………………………......

4

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN………………..……

5


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề ……………………. .

7

2.3.1. Các quy trình dạy học theo phương pháp Đan Mạch ………….…..

7

2.3.2. Cách vận dụng các quy trình dạy học theo phương pháp Đan Mạch .. 9
2.3.3. Đồ dùng dạy - học …………………………………………..……

16

2.3.4. Yêu cầu đối với giáo viên ………………………………..……….

16

2.3.5.Yêu cầu đối với học sinh: ……………………………………..…..

17

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm………………………….…..…

17

3. Kết luận, kiến nghị ..………………………………………………..…..

18

3.1. Kết luận


18

…………………………………………………………….

3.2. Kiến nghị. ………………………………………………………….… 18
Tài liệu tham khảo. …………………………………………….…….…...

20

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Nhắc đến Mĩ thuật, trước hết chúng ta sẽ nghĩ ngay đến vẻ đẹp và sự sáng
tạo bởi đơn giản Mĩ thuật vốn là một môn học đặc trưng của nghệ thuật sáng tạo.
Học Mĩ thuật là mang lại cho các em niềm vui, trí tuệ ngày càng sâu rộng cách
nhìn nhận cuộc sống của nền văn minh nhân loại toàn cầu. Giúp các em nhận
thức hiện thực khách quan trong tự nhiên, trong xã hội biến cái đẹp ấy thành cái
chủ quan qua các giác quan thẩm mĩ, để học sinh chúng ta theo kịp sự phát triển
của những nước mạnh có nền Mĩ thuật lâu đời, làm cho các em say mê hứng thú
đón nhận cái đẹp từ bên ngồi lẫn bên trong.
Thực hiện nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa
XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNHHĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghĩa và hội nhập
quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo được sự hổ trợ của chính phủ Đan Mạch, đã
triển khai dự án “Hỗ trợ giáo dục Mĩ thuật cấp Tiểu học”.
Đây là dự án nhằm truyền cảm hứng cho các giáo viên Mĩ thuật để khuyến
khích họ kết hợp các kĩ năng Mĩ thuật với các phương pháp dạy học mới: là
phương pháp mang tính chuyển đổi từ cách dạy truyền thống sang cách dạy: Coi

quá trình tự học của học sinh là trung tâm của hoạt động giáo dục, giáo viên là
người hướng dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội
kiến thức. Học tập theo mơ hình này giúp các em phát huy tính tự học, sáng tạo,
tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Giúp các em phát huy tốt
các kĩ năng như: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự đánh giá lẫn
nhau. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như: Làm
việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học
theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện,
thoải mái, khơng bị gị bó, ln được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự
giúp đỡ của các bạn trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý
lứa tuổi của các em. Học sinh khá, giỏi được phát huy, học sinh cịn hạn chế,
yếu, kém được các bạn trong nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp.
Sau thời gian thử nghiệm tại các trường tiểu học ở một số tỉnh, thành phố,
dự án đã chứng tỏ được tính ưu việt và sự phù hợp với nhu cầu đổi mới về
phương pháp dạy- học Mĩ thuật cấp tiểu học ở Việt Nam. Năm học 2015-2016
Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai phương pháp dạy học Mĩ thuật của
SAEPS dự án hỗ trợ giáo dục Mĩ thuật của Đan Mạch ở tất cả trường tiểu học
trên toàn quốc với phương pháp mới áp dụng vào chương trình hiện hành. Học
sinh như được giải phóng khỏi khn mẫu, học sinh được học bằng chơi, chơi
3


mà học các em thỏa sức sáng tạo không bị gị bó khơng sợ mình khơng biết vẽ.
Mà được tự do thể hiện sự sáng tạo với 7 qui trình mới, học sinh có thể vẽ, xé
dán, nặn thành 2D, 3D làm con rối, Vận dụng các vật liệu kiếm được để sáng
tạo, nghệ thuật sắp đặt, vẽ theo nhạc, hoạt cảnh, kể chuyện, sắm vai, biểu diễn
hóa thân thành nhân vật….
Vậy để làm được điều đó, bản thân những người làm thầy giáo, cơ giáo
đóng vai trị hết sức quan trọng. Là một giáo viên mĩ thuật được tham gia giảng
dạy tại trường tôi nhận thấy, để truyền thụ được kiến thức tới học sinh ngoài sự

tận tâm vời nghề cịn cần có phương pháp dạy học tốt, phù hợp với từng lứa
tuổi. Để giúp các em định hình cụ thể, bằng hình ảnh, màu sắc thì giáo viên phải
có phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt. Và phương pháp dạy học của Đan
Mạch một trong những phương pháp mà tôi đã sử dụng trong năm học 20202021 mang lại hiệu quả khá khả quan. Chính vì lí do đó, tơi mạnh dạn đưa ra
Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn Mĩ thuật theo phương
pháp mới của Đan Mạch, nhằm góp phần nhỏ bé cùng với nhà trường hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ năm học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trong q trình dạy tơi rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích. Vì
vậy tôi muốn viết sáng kiến kinh nghiệm này với mục đích đưa ra những kinh
nghiệm của mình để Giúp học sinh học tốt môn mĩ thuật, thông qua phương
pháp học mới của Đan Mạch.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn Mĩ thuật theo phương
pháp mới của Đan Mạch
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu tơi đã vận dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp đàm thoại - gợi mở
- Phương pháp thực hành luyện tập
1.5. Những điểm mới của SKKN
Phương pháp dạy học Đan Mạch là phương pháp mới, giáo viên và học sinh
cơ hội tiếp cận với PPDH của nước ngoài, Học sinh như được giải phóng khỏi
khn mẫu, học sinh được học bằng chơi, chơi mà học các em thỏa sức sáng tạo
khơng bị gị bó khơng sợ mình khơng biết vẽ. Mà được tự do thể hiện sự sáng
tạo với 7 qui trình mới, học sinh có thể vẽ, xé dán, nặn thành 2D, 3D làm con

4



rối, Vận dụng các vật liệu kiếm được để sáng tạo, nghệ thuật sắp đặt, vẽ theo
nhạc, hoạt cảnh, kể chuyện, sắm vai, biểu diễn hóa thân thành nhân vật….
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và đào tạo thực hiện đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà nước với phương châm giáo dục toàn diện cho học
sinh, học sinh được học đủ các môn ở cấp Tiểu học. Từ năm 2002 - 2003 các địa
phương trên toàn quốc tổ chức dạy học với chương trình và sách giáo khoa mới,
mơn Mĩ thuật được giảng dạy chính thức trong cả nước với quy định là môn học
bắt buộc. Được sự quan tâm quản lý, chỉ đạo của các cấp, công tác giảng dạy Mĩ
thuật ở trường Tiểu học đang từng bước ổn định và phát triển, chất lượng giáo
viên cũng dần được nâng cao. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều người quan tâm
hơn đến vấn đề giáo dục Mĩ thuật cho học sinh.
Là một giáo viên dạy Mĩ thuật Tiểu học tôi luôn cố gắng truyền cho học
sinh sự nhiệt tình, lịng say mê sáng tạo, u thích mơn học Mĩ thuật. Qua thực
tế giảng dạy môn Mĩ thuật theo chương trình giáo dục phổ thơng của Bộ
GD&ĐT tơi nhận thấy môn Mĩ thuật hiện hành được giảng dạy trong trường
Tiểu học, về nội dung từ lớp 1 đến lớp 3, mơn Mĩ thuật khơng có sách giáo
khoa. Việc triển khai nội dung chương trình được thể hiện bằng các hoạt động
theo hướng dẫn trong sách giáo viên Nghệ thuật gồm 3 môn: Mĩ thuật, Âm nhạc
và Thủ công (Mơn Mĩ thuật có vở tập vẽ). Đến lớp 4 và 5 có sách giáo khoa,
sách giáo viên và vở tập vẽ. Về chương trình của một lớp gồm 35 bài học tương
ứng với 35 tuần học, mỗi bài có các mục đích và mục tiêu riêng. Các bài học đều
là các bài tập riêng lẻ, không liên kết với nhau. Trong một năm học, giáo viên
phải đề cập hết các chủ đề và bài tập thuộc các nội dung nêu trong chương trình
cụ thể đến từng bài học theo 5 phân môn: Vẽ tranh, vẽ theo mẫu, vẽ trang trí,
thường thức mĩ thuật và tập nặn tạo dáng. Hoạt động mĩ thuật của học sinh chủ
yếu là hoạt động thực hành trên khn khổ giấy nhỏ, gị bó, hạn hẹp nên hạn chế
nhiều tới sự tương tác, khả năng sáng tạo của học sinh. Các bài tập ở phân môn

vẽ theo mẫu tuy rèn cho học sinh biết cách quan sát, biết cách vẽ hình, bài vẽ
gần giống mẫu… nhưng đa phần các bài vẽ theo mẫu còn nặng về lý thuyết và kĩ
thuật khơng khuyến khích khả năng sáng tạo và nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ
cho học sinh. Các bài tập ở phân môn vẽ tranh, vẽ trang trí… thường có nội
dung độc lập, riêng lẻ, thiếu tính liên kết và phát triển. Chương trình được lặp đi
lặp lại ở từng khối lớp, sự tập trung rèn luyện cho học sinh đã mang lại hiệu quả
5


nhất định. Tuy nhiên phương pháp hiện hành còn nhiều bất cập các giờ học
thường không mang lại được hứng thú cho học sinh, học theo phương pháp cũ
dễ gây cho các em cảm giác nhàm chán. Các em thường phải làm việc đơn lẻ
khơng có sự sẻ chia các em ít thể hiện được mình. Hầu hết các bài học thường
chú trọng việc thực hành vẽ không phát huy được tính sáng tạo. Diễn đạt cịn
hạn chế khó thích hợp đối với các môn học khác. Đối với giáo viên, các bài học
lặp đi lặp lại giáo viên không có sự đổi mới, cách dạy bị cứng nhắc vì phải căn
thời gian dạy cho đúng giờ cho từng hoạt động, thời lượng một tiết dạy ngắn 3540 phút chưa khơi dạy tiềm năng sáng tạo cũng như trí tưởng tượng của trẻ.
Năm học 2015-2016 Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai phương
pháp dạy học Mĩ thuật của SAEPS dự án hỗ trợ giáo dục mĩ thuật của Đan Mạch
ở tất cả trường tiểu học trên toàn quốc. Những quy trình dạy- học Mĩ thuật theo
phương pháp mới của SAEPS đều hướng tới mục tiêu:
- Lấy học sinh làm trung tâm.
- Kích thích sự tương tác, tư duy sáng tạo và hát triển nhận thức giúp học
sinh có được khả năng:
+ Biểu đạt và giao tiếp thơng qua hình ảnh
+ Khám phá và hiểu được văn hóa thơng qua thị giác.
+ Hình thành các kĩ năng sống thơng qua lĩnh vực Mĩ thuật
+u thích cái đẹp và biết vận dụng vào cuộc sống sinh hoạt, học tập hằng
ngày.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN.

Bản thân môn Mỹ thuật trong trường phổ thông là mơn học sáng tạo,
chính nội dung mơn học đã tạo ra cách dạy - học sáng tạo, mang tính tích cực
cao. Bản chất nội dung môn Mĩ thuật thường xuyên đổi mới vì vậy người thầy
ln phải đổi mới cách dạy thì mới phù hợp. Khơng thể mang cách dạy- học với
người này lại áp dụng cho người kia - Cách dạy bài học trước không thể giống
cách dạy bài học sau. Do vậy việc đổi mới dạy- học Mĩ thuật là thường xuyên
liên tục. Tiếp thu phương pháp dạy học Đan Mạch cơ hội tiếp cận với PPDH của
nước ngoài. Đặc biệt dự án hỗ trợ giáo dục mĩ thuật cấp tiểu học đã mở mang
cho giáo viên Mĩ thuật của trường rất nhiều điều mới, cụ thể:
Qua thực tế một năm giảng dạy, qua việc thăm lớp dự giờ giáo viên các
trường kết hợp với việc trao đổi với đồng nghiệp bản thân tôi nhận thấy rằng:
a. Thuận lợi :
- Các phân mơn trong chương trình gắn liền với đối tượng học sinh phổ
thơng và tích hợp giữa các phân môn với nhau không để biệt lập, rạch rịi như
chương trình Mĩ thuật Việt Nam đang thực hiên.
6


- Coi giờ học Mĩ thuật ở phổ thông là hoạt động vui chơi, qua đó nhằm
giáo dục thẩm mĩ là chính chứ khơng đặt vấn đề lớn về rèn luyện kĩ năng, kĩ
thuật. Sử dụng tất cả những gì vốn có ở địa phương để dạy, khơng máy móc là
phải có giấy vẽ mới học được Mĩ thuật, phải có màu mới học vẽ tranh...
- Bài học Mĩ thuật khơng bắt buộc phải hồn tất trong một tiết, mà được
kết hợp từ 2,3, hoặc 4 tiết trong một buổi. Học sinh hoàn toàn được chủ động
độc lập sáng tạo. Học sinh được hoạt động tích cực hơn và rất thích thú khi
được học như vậy. Giờ học trở nên phong phú, và cuốn hút người học. Kết quả
cuối cùng là học sinh tích cực, thích học. Cách dạy như vậy đã khơi gợi nhiều
cảm hứng sáng tạo, không áp đặt với học sinh.
Qua đây thấy được đây là các phương pháp học tập khoa học, tạo tính tị
mị, kích thích ham muốn và say mê khoa học của học sinh, giúp các em trải

nghiệm và tiếp thu kiến thức dễ dàng và tự nhiên. .
b. Khó khăn
+ Đối với giáo viên:
- Hiện nay đội ngũ giáo viên dạy Mĩ thuật ở Tiểu học còn thiếu về số
lượng, một số giáo viên yếu về chuyên môn nghiệp vụ sư phạm. Dạy học một
cách máy móc chưa có sự sáng tạo trong phương pháp dạy học. Một số trường,
giáo viên văn hố kiêm ln dạy Mĩ thuật. Dù đã được học trong các trường
chuyên nghiệp nhưng việc tổ chức dạy Mĩ thuật của họ cũng chỉ theo khả năng
“biết” chứ chưa thật sự “hiểu”. Có nhiều giờ dạy cịn tổ chức một cách qua loa
cho xong nhiệm vụ hoặc tổ chức dạy một cách đơn điệu, nhàm chán làm cho HS
chán học, lười học làm mất dần hứng thú khi học Mĩ thuật .
- Đối với giáo viên đang dạy theo mơ hình đại trà, trước một sự thay đổi
bao giờ cũng đặt ra nhiều khó khăn và trở ngại vì kinh nghiệm dạy học của giáo
viên chưa nhiều. Việc thay đổi phương pháp dạy học từ chương trình hiện hành
sang dạy học theo mơ hình mới địi hỏi giáo viên phải có vốn kiến thức khá chắc
chắn, bên cạnh đó dạy học theo phương pháp mới tài liệu giảng dạy cho giáo
viên khơng có nên giáo viên gặp những khó khăn nhất định.
- Giáo viên vất vả trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp với từng
chủ đề quy trình bài dạy.
- Đồ dùng dạy học phục vụ cho chương trình mới chưa có, thiếu kinh phí
và việc làm đồ dùng học tập mất nhiều thời gian.
- Thời lượng của bài học theo phương pháp mới có thể kéo dài từ 2,3 hoặc
4 tiết học. Việc bố trí lịch học cho môn Mĩ thuật sẽ ảnh hưởng đến lịch học các
mơn khác, do đó vấn đề sắp xếp lịch dạy cho giáo viên mĩ thuật cũng gặp nhiều
khó khăn.
7


+ Đối với học sinh:
- Học sinh mới làm quen với mơ hình học mới này nên nhóm trưởng chưa

mạnh dạn trong việc điều hành nhóm cũng như tương tác với các bạn trong
nhóm, ý thức tự quản, tự giác chưa cao, do vậy việc hình thành và xây dựng các
hoạt động dạy học giáo viên phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức.
- Một số học sinh trong nhóm cịn nhút nhát, khi tham gia vào hoạt động
nhóm, đặc biệt là học sinh có lực học : trung bình, yếu, gặp nhiều khó khăn và
rất dễ bị bỏ qn, địi hỏi phải có sự hỗ trợ từ giáo viên rất nhiều.
- Số lượng học sinh trong lớp học đơng, phịng học bé vất vả cho việc sắp
xếp chia nhóm hợp lí so với diện tích lớp học.
- Gia đình các em có những điều kiện kinh tế khác nhau, một số gia đình
khó khăn chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em. Một số em bố mẹ đi
làm ăn xa ở với ông bà nên mọi cơng việc học tập của con em phó mặc cho nhà
trường, sách vở đồ dùng chưa đầy đủ.
+ Cơ sở vật chất
- Hiện tại trường chưa có phịng chức năng để phục vụ cho việc học Mĩ
thuật. Nên việc sắp xếp lớp học theo mơ hình của phương pháp mới rất vất vả
cho giáo viên.
+ Diện tích phịng học nhỏ việc vận động giao lưu của các em bị hạn chế
nhiều.
- Đồ dùng dạy học theo nhóm cịn ít, chủ yếu do giáo viên tự làm.
- Tài liệu hướng dẫn dạy học theo mơ hình khơng có nên giáo viên phải tự
tìm tịi, sách dạy theo mơ hình mới chưa đồng bộ.
Trước thực trạng đó, tơi ln suy nghĩ và trăn trở làm thế nào để giúp các
em học tốt môn Mĩ thuât và tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: ‘‘Một số biện
pháp giúp học sinh hứng thú học môn Mĩ thuật theo phương pháp mới của
Đan Mạch’’ nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy phân môn Hoạt động giáo dục
Mĩ thuật trong nhà trường.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Sử dụng các quy trình dạy học theo phương pháp Đan Mạch
Dạy học Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch bao gồm các quy trình:
- Quy trình vẽ cùng nhau và xây dựng cốt chuyện.

- Quy trình vẽ biểu cảm
- Quy trình vẽ theo âm nhạc.
- Quy trình xây dựng cốt truyện.
- Quy trình 3D - tiếp cận theo chủ đề.
- Nghệ thuật sắp đặt hoạt cảnh biểu diễn và sắm vai
8


- Tạo hình con rối và nghệ thuật biểu diễn
Qui trình 1: Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu chuyện
Học sinh được vẽ cùng nhau được kí họa được người hoặc vật tạo ra ngân
hàng hình ảnh để xây dựng câu chuyện tạo dáng gây hứng thú học tập. Học sinh
tự tạo lại các dáng hoạt động như làm việc hoặc học tập để bạn bè vẽ, tạo ra
ngân hàng hình ảnh từ những hình ảnh có sẵn tư duy cùng nhau suy nghĩ cùng
thảo luận thành một câu chuyện vui hay buồn hoặc giả tưởng để vẽ, sử dụng câu
chuyện tạo nên cho các em phát triển tư duy hình ảnh, liên hệ thực tế, tự tin diễn
thuyết tăng khả năng ngôn ngữ biểu cảm vốn sống thực tế.
Qui trình 2: Vẽ biểu cảm
Có thể vẽ chân dung người và vật : Khi vẽ học sinh quan sát tập trung chủ
yếu kết hợp mắt và tay. Học sinh cố gắng khơng nhìn vào giấy vẽ. Đối với vẽ
chân dung những bức vẽ sẽ rất ấn tượng và đôi khi rất hài hước thậm chí có
những chân dung chỉ nhận ra bộ phận cơ thể như: mắt, tóc, tai, miệng,…Hay đối
với đồ vật chỉ nhận biết qua dáng dấp, đặc điểm của đồ vật mình vẽ. Vẽ biểu
cảm giúp cho các em tăng khả năng quan sát, buộc các em phải tập trung dùng ý
chí, bàn tay để vẽ hình ảnh sẽ được khắc sâu và nhớ lâu hơn,
Qui trình 3: Vẽ theo nhạc
Âm nhạc và tạo hình ln có mối quan hệ vơ hình. Vẽ theo nhạc khơng
những học sinh được làm quen với một kĩ thuật vẽ mà còn giúp học sinh cảm
nhận được tác phẩm Âm nhạc. Âm nhạc có một giai điệu gây hứng khởi cho học
sinh làm cho học sinh năng động hơn. Có khi học sinh có thể vừa vẽ vừa nhẩy

theo nhạc. Âm nhạc và Mĩ thuật kết hợp với nhau làm cho học sinh cảm nhận sự
thích thú trí tưởng tượng. Vẽ tranh con vật hay đồ vật học sinh vừa cảm thụ tiết
tấu âm nhạc vừa đi màu theo giai điệu lúc nhanh, lúc chậm, lúc đậm lúc nhạt. Từ
bài vẽ các em tiếp tục tư duy có thể trang trí một đồ dùng bất kì hay vẽ thêm vào
theo một chủ điểm nào đó mà các em u thích.
Quy trình 4: Xây dựng cốt chuyện
Học sinh nắm được chủ đề bài tập biết xây dựng cốt chuyện dựa trên mối
quan hệ giữa các yếu tố: sự kiện và nhân vật, địa điểm kết hợp các hình đơn lẻ
thành câu chuyện có chủ đề, thơng qua hình ảnh nhân vật hay một bức tranh
hiểu được vai trị của hình tượng nghệ thuật tạo hình được trên chất liệu đã chọn
như vẽ, xé dán, nặn…là những nhân vật làm bằng các nguyên liệu tìm được
trong cuộc sống, thổi hồn cho các nhân vật, Biến các nhân vật trong hình thành
các nhân vật có tính cách, nhân cách. Yếu tố cơ bản của phương pháp cốt
chuyện là việc tạo nên các nhân vật sự kiện và xây dựng nên lối kể chuyện mở

9


tạo cấu trúc logic để kết hợp với tiết học và kiến thức kĩ năng trong đới sống xã
hội
Qui trình 5: Tạo hình 3D tiếp cận chủ đề.
Tạo hình từ vật tìm được. Các hình khối được tạo ra từ vật tìm được như
dây thép, đất nặn, giấy bìa và để kết nối với nhau trong một không gian nhất
định có rất nhiều chủ điểm như ngơi nhà, Ơ tơ, xe đạp, ước mơ, nghề nghiệp.
Tùy mỗi chủ điểm mà GV mĩ thuật có thể thực hiện giúp các em học tập khám
phá đời sống bằng nghệ thuật.
Quy trình 6: Nghệ thuật sắp đặt hoạt cảnh biểu diễn và sắm vai.
Các nhân vật tạo hình bằng các vật dụng tìm được với các phế liệu bỏ đi
qua sự sáng tạo của học sinh như cát sỏi, đất đá, bìa các tông, dây thép, gỗ, chai
lọ, rơm, cành lá và các vật dụng tái chế khác các em làm thành đồ chơi hay các

câu chuyện mang tính biểu đạt cao. Từ những hình ảnh các em sáng tạo ra tạo
hình sắp đặt dựng thành hoạt cảnh trình bày biểu diễn cho các bạn xem. Các em
có thể sắm vai hóa thành nhân vật, một hình ảnh là một câu chuyện có hình ảnh
nhân vật có hình dáng khác nhau hoặc xung quanh khác nhau, Dựa trên đó các
hình khối tương tác với nhau và tạo nên ý nghĩa cho câu chuyện..
Quy trình 7: Tạo hình con rối và nghệ thuật biểu diễn
Trong văn hóa Việt Nam con rối đóng một vai trị vơ cùng quan trọng và
có mặt ở nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, Điển hình là múa rối nước, múa
lân. Thơng qua 2 loại hình nghệ thuật này những câu chuyện dân gian, chuyện
cổ tích, truyền thuyết đã được truyền tải một cách sâu rộng và gần gũi hơn đối
với con người. thơng qua hình ảnh các con rối giáo viên và học sinh có thể nói
chuyện rễ ràng hơn gần gũi đối với các em hơn. Qua hình ảnh con rối đơn gián
học sinh càng tự tin hơn khi luyện tập thuyết trình . Đơi khi các em khơng tự tin
vì mắc lỗi khi nói thẳng. nếu dùng con rối thì lúc này con rối nói chứ khơng phải
mình nói vì vậy các em cảm thấy thoải mái tự tin hơn khi thuyết trình trước đám
đơng .
2.3.2 Cách vận dụng các quy trình dạy học theo phương pháp Đan
Mạch.
Việc thực hiện 7 qui trình trên trong quá trình dạy học cịn gặp nhiều khó
khăn về cơ sở vật chất, phân bố tiết học và số lượng học sinh, vì vậy mỗi trường,
mỗi giáo viên cần phải linh hoạt trong cach dạy cách phân bố thời lượng chương
trình, số tiết học cùng một chủ đề cần phải linh hoạt có thể 2,3,4,5 tiết mới kết
thúc một chủ đề. Tùy thuộc vào nội dung và qui trình Mĩ thuật lựa chọn cho một
chủ đề của giáo viên, Qui trình dạy học theo phương pháp mới của Đan mạch là
khoa học mềm dẻo, khơng cứng nhắc. Giáo viên có hứng thú trong giảng dạy,
10


phát huy khả năng nội lực sáng tạo của từng ngươì. Giáo viên được trải nghiệm
với học sinh, có điều kiện đầu tư sâu hơn vào bài học. Hợp tác vơi đồng nghiệp,

hiểu học sinh hơn hỗ trợ học sinh kịp thời và đánh giá học sinh trong quá trình
tiến bộ.
Vận dụng những quy trình phải linh hoạt, học sinh được học tập bằng
nhiều cách, giúp học sinh phát triển toàn diện, sáng tạo trên mọi phương diện.
Đồng thời, phối hợp có hiệu quả phương pháp dạy học hiện hành với phương
pháp dạy học mới đang triển khai ở tiểu học như: Bàn tay nặn bột, VNEN,..trong
dạy học Mĩ thuật.
- Cả 7 quy trình này đều được xây dựng chung một cấu trúc:
- Thảo luận và làm quen với chủ đề.
- Quy trình được chi tiết từ đầu tới cuối thông qua mô tả thực tế các bước
khác nhau của một quy trình, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn các quy trình nói
trên để đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục mĩ thuật.
Có thể có những thay đổi linh hoạt hoặc cân nhắc khác cho quy trình cụ
thể ở thực tế. Những quy trình dạy - học Mĩ thuật này không phải là công thức
cố định mà chúng ta phải làm theo. Những quy trình này tạo cảm hứng cho giáo
viên và nó cịn có thể điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều
kiện thực tế tại địa phương. Giáo viên có thể phát triển khả năng của học sinh ở
các mức độ khác nhau trong các quy trình này như khả năng trải nghiệm, sáng
tạo, biểu đạt, giao tiếp và đánh giá.
Lựa chọn các bài học theo nhóm bài và phân theo chủ đề.
VD1: Chủ đề: Màu sắc trong trang trí - Lớp 4
Gồm các bài: Bài 1: Màu sắc và cách pha màu.
Bài 13: Trang trí đường diềm
Bài 17: Vẽ trang trí hình vng.
Bài 27: Vẽ trang trí hình trịn.
Quy trình dạy học: Vẽ theo âm nhạc. Vẽ cùng nhau.
Các hoạt động dạy học: Gồm có 5 hoạt động
+ Từ vẽ tranh đến thưởng thức.
+ Cảm nhận về màu sắc.
+ Lựa chọn hình ảnh trong thế giới tưởng tượng.

+ Tạo sản phẩm trang trí như bưu thiếp, thiệp mời bìa sách.,.
+ Trình bày thảo luận đánh giá.
Ứng dụng Quy trình vẽ theo âm nhạc vào chủ đề Màu sắc trong trang trí Lớp 4 cho kết quả khá tốt. Trước kia ở phương pháp truyền thống vẽ Màu sắc
thuộc phân môn vẽ trang trí, đây là phân mơn khơng nhận được sự yêu thích
11


nhiều của học sinh vì học phân mơn này các em cảm thấy tỉ mỉ, cẩn thận. Nhưng
khi áp dụng vào phương pháp vẽ theo nhạc học sinh vô cùng thích thú, hào hứng
với bài học.
Học sinh được hịa mình vào những giai điệu âm nhạc từ nhẹ nhàng đến
nhanh sôi nổi, mạnh mẽ, cụ thể ở bài học này tôi đã sử dụng những giai điệu
nhạc của thiếu nhi vừa gần gũi, vừa dễ nghe, dễ cảm nhận, những giai điệu nhạc
bắt đầu từ nhẹ nhàng nhanh dần đến sôi nổi và kết thúc ở cao trào. Khi học sinh
nghe nhạc cũng là lúc học sinh bắt đầu vẽ những nét màu từ sáng đến đậm. Các
em chuyển động cơ thể và vẽ theo giai điệu của âm nhạc. Sản phẩm được tạo ra
từ giai điệu âm nhạc phong phú lạ mắt những bức tranh với sự tưởng tượng đầy
màu sắc
Vũ điệu của sắc màu
Từ đó các em được cùng nhau lựa chọn hình ảnh trong thế giới tưởng
tượng. Một số học sinh trong nhóm cịn nhút nhát, khi tham gia vào hoạt động
nhóm, đặc biệt là học sinh có lực học : trung bình, yếu, gặp nhiều khó khăn và
rất dễ bị bỏ quên, lúc này giáo viên phải quan sát gần gũi hỗ trợ lôi kéo các em
tham gia.
Âm nhạc và sắc màu
Ứng dụng vào viêc trang trí các bìa sách, lọ hoa, bưu thiếp… rất sinh động,
sản phẩm đẹp, phong phú. Học sinh hứng thú tham gia hoạt động có sự tương
tác trong q trình hoạt động.

Âm nhạc và sắc màu


Bưu Thiếp

Trang trí đồ vật

Vẽ con vật thân thuộc
VD2: Chủ đề: Em với những người thân yêu – Lớp 2
Gồm các bài : Bài 10: Vẽ chân dung.
Bài 23: Vẽ mẹ hoặc cô giáo.
Bài 21: Nặn hoặc vẽ dáng người.
12


Bài 8: Xem tranh.
Quy trình dạy học: Vẽ biểu cảm.
Các hoạt động dạy học: Gồm 4 hoạt động.
+ Vẽ quan sát và vẽ khơng nhìn giấy
+ Thảo luận về các đường nét biểu cảm,
+ Thể hiện tranh biểu đạt bằng màu sắc.
+ Thảo luận về nội dung, trưng bày kết quả.
Trong quá trình ứng dụng quy trình vẽ biểu cảm (Vẽ nhóm đơi hoặc tự vẽ
qua gương khi khơng nhìn giấy, sau đó trình bày và chia sẻ sản phẩm). Lúc đầu
học sinh có hơi bỡ ngỡ nhưng hoạt động thực hành diễn ra rất vui và thoải mái.
Đây là một hoạt động rất thú vị. Với quy trình này học sinh không phải tuân theo
cách vẽ hay bước vẽ như trước, các em được bộc lộ cảm xúc suy nghĩ riêng của
bản thân với đối tượng vẽ.
Ở quy trình này tôi đã làm như sau.- Cho học sinh chơi trò chơi vận động
"Vẽ mù" bịt mắt vẽ tranh để khơng khí học thoải mái, gây hứng thú trong giờ
học. Sau đấy giáo viên hướng dẫn học sinh ngồi quay mặt lại với nhau để quan
sát được dễ nhất. Mỗi em nên chuẩn bị 4 tờ giấy A4 viết tên mình và tên bạn mà

mình định vẽ - Gợi ý tạo cảm giác cho học sinh tưởng tượng mình đang ngồi
trên một quả bóng, tư thế tĩnh lặng tập trung tinh thần quan sát bạn thật kỹ vẽ lại
chân dung bạn vào tờ giấy (nhìn vào khn mặt bạn, khơng nhìn vào giấy)
- Khi học sinh vẽ giáo viên yêu cầu học sinh hãy để tay của mình chuyển
động trên giấy vẽ theo đúng tốc độ quan sát của mắt lưu ý : Mắt tập trung quan
sát các đường nét khuôn mặt của mẫu vẽ.
- Lưu ý học sinh : Khơng được phép nhìn vào giấy, cũng như nhấc bút
khỏi giấy vẽ. Phải biết kiên nhẫn và từ tốn. Giáo viên cần duy trì khơng khí tập
trung thực sự trong lớp học. vì vậy khi nói giáo viên nên dùng giọng nhỏ, và
chậm để nhấn mạnh sự yên tĩnh ( nhắc nhở những học sinh có dấu hiệu gian dối
trong khi vẽ).

Vẽ chân dung tự họa
Với cách làm như vậy tôi thấy học sinh dễ dàng nắm được cách vẽ và
mang lại hiệu quả giờ học cao.
Kết quả của giờ học thực nghiệm|:

13


Vẽ chân dung biểu cảm
VD 3: Ở lớp 1 có chủ đề Ngơi nhà thân u.
Có các bài:
Bài 2: Vẽ nét thẳng
Bài 4: Vẽ hình tam giác
Bài 8: Vẽ hình vng và hình chữ nhật
Bài 17: Vẽ tranh Ngơi nhà của em
Vận dụng quy trình: Vật tìm được 2D – 3D
Để kết hợp các bài học riêng lẻ này lại với nhau một cách hợp lí. Mục tiêu
đặt ra về mặt nhận thức mĩ thuật của học sinh đi từ thấp tới cao:

Hoạt động 1. Học sinh tự quan sát, nhận xét các hình khối đơn giản xung
quanh mình, sau đó tự thực hiện vẽ, nặn các hình đó.
Hoạt động 2. Từ các hình khối quan sát được, học sinh vẽ, nặn, sắp xếp
tạo thành các hình đơn giản như ngôi nhà, khung cảnh xung quanh.
Hoạt động 3. Thể hiện bằng lời nói, mơ tả cảm xúc, ý tưởng của mình qua
tác phẩm. Như vậy các đường nét, hình khối cơ bản các học sinh học được ở bài
2 (vẽ nét thẳng) sẽ giúp thực hiện bài 4 (vẽ tam giác) và bài 8 (vẽ hình vng,
hình chữ nhật). Từ kết quả hoạt động ở bài 2, 4, 8, các học sinh sẽ quan sát, phân
tích và thực hiện hoạt động tiếp theo ở bài 17 (Vẽ tranh Ngôi nhà của em).
Hoạt động tiếp nhận thẩm mĩ trên có thể thực hiện bằng cách xây dựng
hoạt động cho từng cá nhân học sinh hay từng nhóm học sinh, tùy vào điều kiện
học tập, kiểu học tập và năng lực của từng học sinh. Khi thực hiện quy trình,
mức độ nhận thức, phân tích và biểu hiện cảm xúc, suy nghĩ của học sinh đi từ
thấp tới cao, dần phát triển hơn. Ban đầu học sinh chỉ nhận thức được những
hình cơ bản nhưng sau đó, đã có thể sử dụng những hình cơ bản để tự mình xây
dựng ngơi nhà của riêng mình, theo suy nghĩ của mình. Đặc biệt là học sinh thể
hiện được cảm xúc, suy nghĩ của mình qua tác phẩm. Sự giao tiếp trong quá
trình học theo các phương pháp mới với bạn bè, thầy cô cũng giúp các em nâng
cao sự tự tin, khả năng giao tiếp của mình.
Trên đây chỉ là một ví dụ của việc kết hợp xây dựng một quy trình mĩ
thuật. Chúng ta có thể linh hoạt điều chỉnh, xây dựng kết hợp các bài học theo
quy trình sao cho phù hợp nhất với mục tiêu kiến thức mà ta đặt ra. Trong tất cả
các quy trình này, vai trị của người giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức, tạo
môi trường học tập an toàn, tự tin, đầy hứng khởi để học sinh tự mình tham gia
khám phá.
Nói cách khác, giáo viên là người điều khiển, lập kế hoạch từng hoạt động
trong quy trình để dẫn dắt các em vào bài học bằng các phương pháp và hình
14



thức khác nhau như: vấn đáp, kể chuyện, hoạt động tích hợp nhiều mơn học, đi
thực tế… Khi đó, học sinh nghe theo sự hướng dẫn chung và sau đó tự mình
tham gia vào các hoạt động trong một quy trình để dần dần thực hiện sản phẩm
mĩ thuật, từ đó học tập và rèn luyện kĩ năng, tri thức, thể hiện suy nghĩ, phát huy
sự sáng tạo cho riêng mình
2.3.3. Đồ dùng dạy - học.
Việc chuẩn bị đồ dung dạy học cũng vô cùng quan trọng bởi đồ dung có
đầy đủ, có phong phú thì giờ học mới đạt kết quả cao. Vì vậy khi tham gia giảng
dạy đồ dung bao giờ cũng được chuẩn bị chu đáo.
* Giáo viên:
- GV có thể tận dụng tối đa các phương tiện, đồ dùng học tập sẵn có.
- Sử dụng linh hoạt các chất liệu sẵn có ở địa phương, những vật dụng bỏ
đi để tạo ra nhiều chất liệu phong phú trong các hoạt động dạy học Mĩ thuật.
- GV phối hợp với phụ huynh tạo quỹ mua đồ dùng học tập cho các em
với những đồ dùng cần thiết như giấy vẽ, đất nặn, giấy màu, màu vẽ...
* Học sinh:
- HS tự chuẩn bị những đồ dùng học tập có sẵn, sưu tầm tiềm kiếm những
đồ dùng, vật dụng có trong gia đình để làm chất liệu.
2.3.4. u cầu đối với giáo viên:
- Giáo viên phải có kế hoạch cho từng hoạt động hoặc cho tồn bộ quy
trình có thể ngắn, dài và kết nối, liên kết, xâu chuỗi các hoạt động quy trình với
nhau
- Theo đó, về thời lượng dạy một chủ đề giáo viên cần linh hoạt, có thể là
2, 3 hoặc 4 tiết học tùy thuộc vào nội dung, quy trình Mĩ thuật, khả năng tiếp thu
kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh và năng lực của giáo viên.
- Có thể bố trí thời khóa biểu ngắt hoạt động quy trình từng tiết học/tuần,
hoặc học liền nhau 2 - 3 - 4 tiết để kết thúc 1 quy trình/tuần theo điều kiện thực
tế của nhà trường.
- Có thể cho học sinh hoạt động ngồi không gian lớp học như sân trường,
hội trường, nhà đa năng, ngồi thiên nhiên... Hoạt động theo nhóm khơng nhất

thiết phải kê lại bàn ghế (nếu chưa có phịng giáo dục nghệ thuật và phòng
học ,Mĩ thuật, khi học sinh đơng, thời gian ít);
- Giáo viên giao nhiệm vụ theo nhóm bàn, học sinh ở bàn trên quay xuống
bàn dưới, nếu vẽ theo nhạc, học sinh đứng tại chỗ vận động khơng phải di
chuyển vịng trịn.

15


- Bên cạch đó giáo viên phải biết phối hợp có hiệu quả phương pháp dạy
học hiện hành với phương pháp dạy học mới đang triển khai ở tiểu học như Bàn
tay nặn bột, VNEN,..., trong dạy học Mĩ thuật.
- Giáo viên cũng cần phối hợp tích cực với phụ huynh, đồng nghiệp, Ban
giám hiệu để phối hợp huy động nguồn lực dạy học Mĩ thuật hiệu quả.
- Giáo viên nên cho học sinh mang sản phẩm về nhà để trưng bày thành
góc Mĩ thuật ở gia đình; nhà trường có thể tổ chức triển lãm, trưng bày sản phẩm
của học sinh vào các ngày sinh hoạt tập thể.
2.3.5. Yêu cầu đối với học sinh:
- Học sinh luôn chủ động tích cực tham gia hoạt động học.
- Học sinh phải có ý thức tự quản, tự giác cao.
- Học sinh phải thể hiện được sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, trong
giải quyết các vấn đề.
- Biết tìm tịi, sáng tạo, linh hoạt khi tham gia các hoạt động.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Với những giải pháp thiết thực, sau thời gian áp dụng tôi đã thu được kết
quả rất đáng mừng, cụ thể như sau:
- Tỉ lệ học sinh thiếu đồ dùng đã giảm rõ rệt, phụ huynh quan tâm hơn đến
môn học tạo thuận lợi cho các em tiếp cận với phương pháp Đan Mạch.
- Học sinh bước đầu phát huy được “5 tự”: tự học, tự đánh giá, tự tin, tự

giác, tự chủ.
- Đảm bảo mục tiêu: chuyển giáo dục sang tự giáo dục; Hoạt động dạy của
GV sang hoạt động học của học sinh; Dạy học theo lớp chuyển thành học theo
nhóm.
- Học sinh phát huy được các kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác,
kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
+ Kĩ năng giao tiếp: học sinh mạnh dạn hơn, nhanh nhẹn, ứng biến linh
hoạt các tình huống của bài học như sắm vai, khả năng diễn đạt câu từ rõ ràng
(khi kể chuyện).
+Kĩ năng làm việc nhóm: Các em biết phối hợp làm việc chung, sẵn sàng
chia sẽ với bạn những gì mình có, biết phân chia cơng việc cho nhau.
+ Kĩ năng thực hành: Khơng cịn sự ngơ ngác vụng về của lứa tuổi lớp một,
kĩ năng thực hành của các em đã khéo léo, thành thục, biết vận dụng sự hiểu biết
của mình để tạo ra sản phẩm cho bài học.

16


+Kĩ năng đánh giá và đánh giá lẫn nhau: Các em biết nhận xét đánh giá sản
phẩm bài học của mình một cách rõ ràng chính xác, khách quan và trung thực.
Biết tìm ra cách làm hay, sáng tạo.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Trong quá trình đưa phương pháp Đan Mạch vào giảng dạy trong môn Mĩ
thuật tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc giảng dạy sau:
- Để có một giờ dạy tốt giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung, chủ đề bài
dạy và các tài liệu có liên quan. Xem xét đối tượng học sinh cụ thể, tình hình
thực tế cho phép để đề ra mức độ yêu cầu kiến thức phù hợp.
- Lựa chọn và vận dụng linh hoạt các quy trình dạy học theo phương pháp
Đan Mạch, ln có ý thức tự học tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức.

- Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách chu đáo: Họa phẩm và vật liệu phục
vụ cho phương pháp dạy Mĩ thuật Đan Mạch, tận dụng tối đa các phương tiện,
đồ dùng học tập sẵn có, sử dụng linh hoạt các chất liệu đã có, hướng dẫn học
sinh sưu tầm các chất liệu sẵn có ở địa phương, những vật dụng bỏ đi để tạo ra
nhiều chất liệu phong phú trong các hoạt động dạy học Mĩ thuật.
3.2. Kiến nghị:
Để nâng cao hiệu quả cho việc dạy môn mĩ thuật tơi xin có một số kiến
nghị sau:
- Nhà trường cần có phịng học chức năng dành riêng cho bộ mơn Mĩ thuật.
- Phòng giáo dục và đào tạo cần tổ chức các lớp học nâng cao việc giảng dạy
môn Mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch.
- Phụ huynh cần quan tâm đến các con nhiều hơn, sát thực hơn đối với việc
học Mĩ thuật của các em.
- Giáo viên phải có nhiệt tình tâm huyết với chun mơn, phải thường xuyên
sưu tầm học hỏi kinh nghiệm mạnh dạn áp dụng phương pháp mới vào bài dạy.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng nhằm giúp học sinh hứng
thú học môn Mĩ thuật theo phương pháp mới của Đan Mạch. Tơi rất mong
được sự đóng góp ý kiến chân tình, thuyết phục, thẳng thắn của bạn bè đồng
nghiệp để bài viết của tơi được hồn thiện hơn góp phần dạy học sinh đạt kết
quả như mong đợi.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

17


Thanh Hóa, ngày 12 tháng 4 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
ĐƠN VỊ
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
Người viết

Lê Thị Thảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách MT giáo viên từ khối 1 đến khối 5.
- Sách MT học sinh từ khối 1 đến khối 5.
- Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học.
- Tài liệu dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới của Đan Mạch ,
18


-Tranh của học sinh năm trước

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Hải

TT
1.

2.


Tên đề tài SKKN
Tăng cường dạy học ngoài
trời nhằm nâng cao chất
lượng dạy - học phân môn vẽ
tranh ở trường THCS
Một số kỹ năng dạy phân
mơn trang trí ở trường THCS

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Cấp huyện

Loại C

2014 2015

Cấp huyện


Loại B

2015 –
2016

3.
4.
5.
...

20



×