Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SKKN: Sáng tạo một số biện pháp mới giúp trẻ học tốt môn Khám phá khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.96 KB, 27 trang )





SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


SÁNG TẠO MỘT SỐ BIỆN PHÁP
MỚI GIÚP TRẺ HỌC TỐT MÔN
KHÁM PHÁ KHOA HỌC

Phần mở đầu
I.1 / Lý do chọn đề tài
Giáo viên mầm non những người thầy đầu tiên trong hệ thống giáo dục,
chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp trồng người.
Bác Hồ kính yêu đã dạy rằng “ Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
phải trồng người” vì lợi ích của cả dân tộc, của cả quốc gia, vì trẻ em là hạnh phúc
của mọi gia đình, của mọi nhà việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải chỉ là
trách nhiệm của mọi người mà của toàn xă hội.
Vậy thì mỗi giáo viên mầm non chúng ta cần chung tay gieo trồng chăm sóc
và bảo vệ trẻ như thế nào?
Trẻ em như một tờ giấy trắng làm quen với môi trường xung quanh chính là
bắt đầu thích ứng đến lĩnh hội và cải tạo môi trường. ca dao xưa có câu “ Dạy con
từ thủa còn thơ” đã đúc rút ra từ kinh nghiệm “ Dạy con rèn người” của ông cha ta.
Mỗi chúng ta đều được lớn lên từ những môi trường đầu tiên. Đó là những tiếng ru
ngọt ngào của bà, của mẹ. Những ngọn đèn cháy lung linh trong đêm, những ngôi
sao nhỏ lấp lánh trên cao. Môi trường âm thanh và hình ảnh xung quanh đó đều
mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú và theo trẻ cho đến hết cuộc đời, đã
gợi lên lòng yêu quê hương, đất nước ở mỗi con người. Khám phá môi trường
xung quanh trẻ có vốn hiểu biết những gì quanh mình và sẽ hình thành nên nhưng
thói quen tốt, xấu của trẻ. Đất nước ta ngày một phát triển do vậy con người cần


phải năng động sáng tạo để phù hợp với sự phát triển của nó. Muốn được như vậy
trẻ Mầm Non cần được tiếp xúc và khám phá khoa học quanh mình, Đặc biệt là trẻ
5- 6 tuổi nhận thức, tư duy, ngôn ngữ và tình cảm xã hội gần như hoàn thiện.
Khám phá khoa học qua nền giáo dục là góp phần không nhỏ vào việc phát triển
thế hệ trẻ. Nếu giáo viên không sáng tạo trong việc tổ chức thì hiệu quả đạt không
cao. Nếu tiết dạy không có gì mới để trẻ được khám phá trẻ sẽ phát triển chậm hơn
so với nhu cầu xã hội .

Trên thực tế hiện nay những cái trẻ đã biết vẫn có phân phối chương trình học
cô giáo vẫn phải dạy dù trẻ 5-6 tuổi vẫn trả lời tốt, làm tốt những gì cô yêu
cầu nhưng trẻ không còn hững thú và không phát triển năng lực không thỏa mãn
nhu cầu bản thân trẻ
Theo tôi để làm tốt công tác chăm sóc giáo dục hình thành nhân cách trẻ,
ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ của một giáo viên mầm non ra thì việc xác định
các phương pháp, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ thông qua hoạt động khám phá
khoa học cũng đặc biệt quan trọng vì nó tác động trực tiếp đến việc lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng sống ở trẻ đó là điều rất cần thiết.
Vậy tìm biện pháp, phương pháp là gì? tìm ở đâu? Câu hỏi này đã được giải
quyết qua các chuyên đề chăm sóc và giáo dục mà chúng ta đã được tập huấn ở
phòng và lý thuyết đó cũng được chúng ta thực hiện thông qua các quá trình dạy
học và chăm sóc trẻ hằng ngày. Nhưng trong quá trình thực hiện các đồng chí đã
thấy thỏa mãn với mục tiêu mình đặt ra chưa? có gì đổi mới, có gì tiến bộ, có gì
sáng tạo? để trẻ ở lớp chúng ta nhận thức tiến bộ nhanh bắt kịp cùng trang lứa với
trẻ phố, huyện.
Còn tôi trong 13 năm công tác mỗi năm tôi lại rút ra cho mình một kinh
nghiệm. Muốn trẻ phát triển toàn diện theo tôi chúng ta cần xây dựng biện pháp
giáo dục hay mới lạ cuốn hút trẻ để hình thành thói quen ham mê khám phá khoa
học chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài “ Sáng tạo một số biện pháp mới giúp trẻ
học tốt môn khám phá khoa học” để nghiên cứu tìm ra những biện pháp hay giúp
trẻ học tốt môn học này.

Tôi viết sáng kiến ra đây cho nhưng chị em trong ngành cùng tham khảo và
góp ý. Chúng ta hãy vì nền giáo dục của mầm non hãy tạo nền tảng vững chắc cho
chặng đường khôn lớn của trẻ các bạn nhé.
I. 2/ Mục đích- Nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:


I. 2/ Mục đích- Nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
- Tôi nghiên cứu đề tài này để tìm ra một số biện pháp mới giúp trẻ làm quen với
môi trường xung nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá cái mới, cái lạ ở trẻ.
- Đề tài thành công trẻ sẽ khám phá khoa học một cách hứng thú có tác dụng giáo
dục về mọi mặt: Ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ thể lực
- Qua đề tài nghiên cứu giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong công
tác chăm sóc cho trẻ mầm non ở 5- 6 tuổi. Sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc
lực cho quá trình hình thành nhân cách cho trẻ.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm ra giải pháp mới và thực hành áp dụng rồi kiểm tra đánh giá kết quả trên trẻ
- Các phương pháp biện pháp nghiên cứu phải đảm bảo tính khoa học.
- Đề tài có tính ứng dụng thực tiến phù hợp với đối tượng nghiên cứu.
I.3/ Đối tượng nghiên cứu
- Tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ Mầm Non 5-6 tuổi trường Mầm Non Hoa
Sen.
- Căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm tôi chọn nghiên cứu của đề tài: “Sáng tạo một
số biện pháp mới giúp trẻ học tốt môn khám phá khoa học”.
I.4 / Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu
- Tôi giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu là tìm ra một số biện pháp mới giúp
trẻ khám phá khoa học.
-Trong phạm vi khả năng và trách nhiệm của mình tôi có sử dụng một số giáo trình
thuộc bộ môn khám phá khoa học và tư liệu của đồng nghiệp để nghiên cứu.

- Vấn đề mà bài viết này đề cập đến là chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm
non từ 5-6 tuổi ở chính đơn vị trường tôi đang công tác .
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Đề tài được tiến hành trong một năm học, từ tháng
9 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012 tại lớp Mẫu giáo 5 tuổi điểm chính trường Mầm
Non Hoa Sen.
I. 5/ Phương pháp nghiên cứu.
Trước hết bản thân phải nhận định được tình hình chung của đối tượng nghiên cứu,
sau đó ứng dụng tìm ra các phương pháp như:
- Khảo sát và xây dựng kế hoạch nghiên cứu
- Đọc, phân tích, tổng hợp tài liệu tham khảo để nghiên cứu.
- Xây dựng đề cương sáng kiến, áp dụng sáng kiến và hoàn thành sáng kiến.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1: Cơ sở lý luận
Theo lý luận của giáo trình “Lý luận về phương tiện và phương pháp hướng
dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh” của tiến sỹ HOÀNG THỊ PHƯỢNG
thì.
* Theo cơ sở lý luận khoa học tự nhiên:
- Việc hưỡng dẫn trẻ làm quen với MTXQ (KPKH)đòi hỏi giáo viên cần có kiến
thức phong phú về mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, hiểu được quy luật phát triển
của nó, biết giải thích đúng theo quan điểm duy vật về mỗi quan hệ giữa sự vật
hiện tượng diễn ra trong tự nhiên.
- Hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường tự nhiên có vai trò đặc biệt quan trong
đối với trẻ nhỏ. Có thể nói tự nhiên là nguồn gốc của các tri giác cụ thể đầu tiên
của con người. Trẻ em ở khắp nơi luôn tiếp xúc với tự nhiên băng mọi cách. Tất cả
các sự vật hiện tượng tự nhiên đều có thể làm trẻ chú ý, làm chúng phấn khởi và
cung cấp tri thức phong phú cho sự phát triển và hình thành tình yêu quê hương đất
nước.
* Theo cơ sở khoa học xã hội :
- Nhà giáo dục cần phải hiểu tại sao mỗi cá nhân trở thành người theo các cách
khác nhau? Do đâu mà mỗi cá nhân tích lũy được kinh nghiệm xã hội khác nhau.

Điều này đòi hỏi cần phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển
của đứa trẻ trong quan hệ với hiện thực.
- Sự mở rộng và làm phong phú kinh nghiệm xã hội của trẻ diễn ra trong quá trình
giao tiếp giữa trẻ với bạn, với người lớn khi trẻ đến trường mầm non, nhờ

đó mà trẻ không chỉ nhận được thông tin ở MTXQ mà còn nắm được cách thể hiện
hành vi mối quan hệ tình cảm giữa người với người.
* Theo cơ sở tâm lý của môn học:
- Qua các kết quả nghiên cứu tâm lý khẳng định rằng trẻ 5-6 tuổi diễn ra mạnh mẽ
nhất về tâm lý. Tư duy ngôn ngữ của trẻ phát triển gần như hoàn thiện.Trong quá
trình sống trẻ tích lũy được nhiều kinh nghiệm và trẻ 5-6 tuổi đã xuất hiện sự tự
nhận thức ở trẻ.
- Trẻ ở tuổi này lĩnh hội các biểu tượng khái quát về sự vật hiện tượng hiểu được
mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Nếu được giáo dục một cách
đúng đắn trẻ không những chỉ lĩnh hội tri thức về sự vật, hiện tượng xung quanh,
mà còn học được cách tiếp cận đối tượng, cách thức khám phá sự vật hiện tượng
trong MTXQ. Chính quá trình khám phá môi trường đã tạo điếu kiện để trẻ phát
triển thể chất, thẩm mỹ đạo đức và lao động cho trẻ.
- Hưỡng dẫn trẻ KPKH là phương thức hoạt động gắn bó giữa giáo viên và trẻ
nhằm tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với MTXQ để trẻ thích ứng với môi trường,
nhận thức về MT, tích cực tham gia cải tạo MT thỏa mãn nhu cầu khám phá và
phát triển bản thân trẻ.
- Để giúp trẻ làm tốt vai trò chủ thể của quá trình khám phá thế giới xung quanh
giáo viên cần quan tâm đến nhu cầu, hứng thú của trẻ tận dụng các biện pháp, các
cơ hội trong cuộc sống cho trẻ được khám phá sự vật hiện tượng xung quanh chúng
cho trẻ được trải nghiệm cảm xúc, tích lũy kinh nghiệm để đi đến hiểu biết bản
chất của sự vật hiện tượng và có kỹ năng sống phù hợp.
II. 2 Thực trạng
- Năm học 2011-2012 bản thân được phân công giảng dạy tại lớp lá 3 trường Mẫu
giáo Hoa Sen.

- Chương trình giảng dạy: Chương trình cải cách.
- Sĩ số: 30 cháu
Nữ : 11 cháu

DT: 10
Nữ DT: 6
-Khảo sát chất lượng khám phá khoa học.
Đánh giá chung :Thông qua các hoạt động học có chủ đích, hoạt động ngoài trời,
hoạt động góc và mọi lúc mọi nơi. Tôi nhận thấy cháu tiếp xúc với môi trường một
cách rất khác nhau. Cháu hời hợt với những gì đã biết, nhàm chán với những trò
chơi quen thuộc. Ngược lại những gì mới lạ cháu hăng say khám phá, hứng thú với
những trò chơi, đồ chơi mới.
a. Thuận lợi, khó khăn:
*Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Phòng GD – ĐT và của trường Mầm Non Hoa Sen,
thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
- Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ ,ham học hỏi nâng cao chuyên môn .
- Trường ở điểm trung tâm nên việc đi lại cũng khá thuận tiện.
* Khó khăn :
- Cơ sở vật chất thiếu thốn, đồ dùng phục vụ tiết dạy còn rất thiếu thốn như những
vật mẫu, những con vật thật, đồ vật
- Góc tự nhiên còn nghèo , số cây ít ,loại cây chưa phong phú, đồ chơi, đồ dùng
còn ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát.
- Vốn hiểu biết về môi trường xã hội còn hạn chế.
b. Thành công hạn chế
* Thành công:
Trong một năm thực hiện tôi cũng gặt hái được một số thành công nhất định đó là
Số trẻ hăng say khám phá khoa học ngày một nhiều hơn chiếm hơn 80% số trẻ
trong lớp.
- Khả năng phân tích tổng hợp của các cháu ngày một tiến bộ.

- Khả năng phân nhóm phân loại tốt.
- Cháu rất hăng say với hoạt động thực hành nhận thức ngày càng phát triển.

- Kỹ năng sống của trẻ ngày càng tiến bộ.
- Cháu biết phân biệt cái đúng cái sai và có những hành vi ứng xử phù hợp với yêu
cầu xã hội.
* Hạn chế:
- Tôi chưa tìm ra được biện pháp hay để cho trẻ khuyết tật phát triển tốt nhất hoạt
động cùng lúc với trẻ bình thường
- Một số cháu dân tộc tại chỗ ( Ê Đê) vẫn còn hạn chế trong cách tiếp cận biện
pháp mới của tôi
- Chưa mạnh dạn đưa ý kiến đề xuất sử dụng biện pháp mới lên các đối tượng trẻ
cùng độ tuổi trong trường để thử nghiệm khảo sát cùng lúc với các lớp bạn.
- Đối tượng nghiên cứu còn hạn chế.
c. Mặt mạnh – Mặt yếu
* Mặt mạnh :
-Tôi được đào tạo 3 năm tập trung tại trường trung cấp chính quy chuyên ngành
mầm non, đã học hết xong khóa học đại học từ xa có kinh nghiệm hiểu về đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ với những bộ môn khác nhau nên có sẵn một số kiến thức
về bộ môn KPKH.
- Có kinh nghiệm 13 năm công tác từ các vùng miền nông thôn, thành phố miền
xuôi, miền núi khác nhau nên có một số kinh nghiệm trong việc đánh giá quan sát
khảo sát trẻ.
* Mặt yếu:
- Sử dụng máy tính chưa thành thạo nên để tải hình ảnh từ mạng còn phải nhờ đồng
nghiệp hoặc nhờ người thân.
- Tôi sử dụng tiếng dân tộc thiểu số còn yếu mà trong lớp học sinh dân tộc thiểu số
lại khá đông, nên vận dụng biện pháp mới cũng gặp không ít nan giải.
d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
-Nguyên nhân, yếu tố chính thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài này là vì sự trăn trở của

bản thân trong suốt những năm dạy học. Tôi nhận thấy sự chênh lệch giữa

học sinh miền núi và miền xuôi, giữa học sinh thành phố và nông thôn về nhận
thức và tiếp cận thế giới xung quanh. Về kỹ năng sống và khả năng giao tiếp tất
cả mọi mặt đều chênh lệch thế tại sao ta không tìm ra biện pháp mới để đẩy lùi
khoảng cách đó.
e. Đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra:
* Ưu điểm: Nhìn chung đề tài tôi nghiên cứu có những mặt thuận lợi, thành công
và cũng có những mặt mạnh nhất định:
- Tôi được phân công dạy ở điểm trường chính phòng học khá khang trang sạch sẽ.
- Cháu đến lớp chuyên cần.
- Giảng dạy nhiều năm nên cũng có ít kinh nghiệm trong việc nắm bắt tâm sinh lý
lứa tuổi.
- Được sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp nên vận dụng tìm ra nhiều biện pháp
mới cũng thuận lợi hơn.
* Tồn tại : Bên cạnh những ưu điểm trên trong thời gian nghiên cứu đề tài tôi cũng
gặp không ít vấn đề hạn chế, khó khăn và có mặt yếu kém như:
- Số trẻ đông, trẻ trai và trẻ gái chênh lệch cháu trai lại rất hiếu động nên việc quản
lớp chăm sóc giáo dục rất vất vả.
- Học sinh dân tộc thiểu số khá đông phụ huynh không có điều kiện cho cháu tiếp
xúc nhiều với xã hội nên khả năng tiếp xúc với MT xã hội còn hạn chế
- Trẻ qua lớp 3-4 tuổi ít nên kiến thức, kỹ năng về môi trường còn hạn chế
- Cụ thể thực trạng khi chưa vận dụng biện pháp mới tôi đã thống kê bằng bảng
sau:
+ Bảng khảo sát chất lượng trước lúc thực hiện biện pháp mới.
- Số trẻ : 30chaú





STT


N
ỘI DUNG


K
ết
qu



T
ỐT
-
KHÁ

TB

Y
ẾU

1

K
ỹ năng quan sát,t
ìm ra
đ
ặc điểm v

à tr

lời được tên gọi đặc điểm của các đối
tượng khám phá
22 cháu

73,33%
7 cháu

23,33%
1cháu

3,33%
2

Kh
ả năng so sánh , phân loại các đối
tượng khám phá
17 cháu

56,67%
11cháu

33,66%
2 cháu

6,66%
3

Phát hi

ện cái mới lạ v
à có thái đ
ộ h
ành
động phù hợp
16 cháu

53,33%
8 cháu

26,66%
6 cháu

20%
4



Có kỹ năng sống và khả năng giao tiếp
tốt

15 cháu
50%
10 cháu

33,33%

5 cháu

16,66%



Từ kết quả như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để tiết dạy
LQVMTXQ đạt hiệu quả cao hơn. Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi
dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm ra một số biện pháp sau:
II. 3/ GIẢI PHÁP- BIỆN PHÁP
a) Mục đích các Giải pháp- Biện pháp
- Tìm ra biện pháp mới giúp trẻ ham mê khám phá khoa học phát triển tính sáng
tạo và mở rộng vốn kiến thức cho trẻ.
- Dùng biện pháp mới giúp phát triển tư duy, ngôn ngữ củng cố các kỹ năng nhận
thức của trẻ.
- Rèn khả năng tri giác, phân tích, so sánh tổng hợp ở trẻ.
- Các biện pháp này sẽ hình thành xúc cảm, tình cảm tích cực và kinh nghiệm
cũng như kỹ năng sống cho trẻ và trẻ mong muốn bảo về gìn giữ môi trường.
b. Nội dung và cách thực hiện các biện pháp giải pháp



Biện pháp 1: Cháu khám phá khoa học thông qua thí nghiệm thực hành
+Nội dung :Trẻ làm thí nghiệm và thực hành để phát hiện “khám phá khoa học
mới”
+Cách thực hiện:
Cũng như những gì tôi nêu trên lý do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu là trong
suốt 13 năm trong ngành, tôi phát hiện trẻ khám phá khoa học một cách khác nhau
cháu hứng thú với những gì chưa biết, chưa làm và đặc biệt hứng thú với thí
nghiệm khám phá cái mới lạ.
Được trực tiếp làm thí nghiệm với các vật mới lạ quả là một điều thích thú đối
với trẻ. Thật vậy, cứ để cho cháu được hoạt động, được trải nghiệm, được thử, sai,
đúng và cuối cùng cháu tìm ra một kết quả nào đó sẽ là một điều lý thú đối với trẻ.
Trẻ sẽ say mê với phát hiện mới và đưa ra được hàng trăm hàng nghìn câu hỏi : Cô

ơi, mẹ ơi vì sao xung quanh ta lại có nhiêu cái lạ thế? lại có cháu nói cô ơi cháu
biết rồi, trẻ phán đoán và tìm ra câu trả lời trí tưởng tượng của trẻ 5 tuổi sẽ bay xa
bay cao và phát triển một cách tốt nhất đấy các bạn a.
Với biện pháp này tôi đã áp dụng rất thành công ở trẻ lớp tôi tôi đưa ra đây một số
thí nghiệp cho chị em cùng tham khảo nhé:
* Thí nghiệp 1: Dạy trẻ cách phòng tránh bệnh “ Tay, chân, miệng”
Thực hiện:
Tôi cho cháu xem các hình ảnh về bệnh tay,chân, miệng và giải thích cho cháu
biết chân tay miệng là bệnh rất dễ lây truyền. Tôi cũng cho cháu biết con vi trùng
lây bệnh rất nhỏ bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Đồng thời làm một thí
nghiệm cho trẻ xem:
Tôi dùng một lọ nước hoa xịt nước hoa vào 1 trẻ cho các bạn trong lớp nhận xét
bạn đó rất thơm hỏi cháu: Các con có nhìn thấy gì không mà sao thơm thế?
Tôi nói cho cháu biết có nhiều thứ tồn tại mà không nhìn thấy bằng mắt.
Tôi cho cháu làm thí nghiệm cùng nhau như: Xịt nước hoa vào tay bạn A rồi cho
cháu ngửi và nhận xét tay bạn A thơm – Cho lớp ngửi tay bạn B không xịt nước

hoa và nhận xét tay bạn B không thơm - sau đó cho 2 cháu bắt tay nhau một lúc.
rồi lại cho lớp ngửi tay 2 bạn và các cháu phát hiện ra tay bạn B bây giờ đã thơm
như tay bạn A, Tôi nói cho cháu biết con vi khuẩn cũng nhỏ như mùi nước hoa và
đặt câu hỏi: Các con có nhìn thấy con vi khuẩn của bệnh tay, chân, miệng không.
Qua đó tôi cho cháu biết tay, chân, miệng lây qua các đường giao tiếp như: Nếu
người bị bệnh cầm đồ chơi thì con vi khuẩn của bệnh sẽ bám vào đồ chơi đó . Đồ
chơi đó mà không được rửa sạch bằng xà bông hoặc không được sát trùng thì khi
người khác cầm vào đó con vi trùng sẽ bám vào tay và người lành lại lây bệnh.
Bệnh còn lây qua đường hô hấp trong khi nói chuyện với nhau và dạy cháu phòng
bệnh bằng cách thường xuyên rửa tay bằng xà phòng. Thường xuyên tự vệ sinh đồ
chơi trong lớp và ở nhà sẽ phòng tránh được bệnh chân, tay, miệng…
Một tiết học rất nhẹ nhàng không cần nhiều đồ dùng, đồ chơi mà tôi cảm thấy các
cháu rất say mê với việc được khám phá và tiết học đạt hiệu quả rất cao.

* Thí nghiệm 2 : Trứng chìm – Trứng nổi.


Tôi cho cháu làm thí nghiệm: Đổ muối vào hai ly nước thủy tinh như nhau , một
ly tôi dán số 1 và ly kia dán số 2.lượng nước hai ly bằng nhau, riêng lượng muối
thì khác nhau, ly số 1 tôi bỏ 1 thìa muối. ly số 2 tôi bỏ vào 3 thìa muối khuấy đều
Trẻ thực hiện: bỏ trứng vào hai ly nước
Kết quả: Ly 1= Trứng chìm, ly 2= trứng nổi
- Cho cháu tìm ra nguyên nhân. Thử ly nước 1 sao thấy mặn quá, thử ly
nước 2 không mặn bằng hoặc bạn đổ vào ly 1 bao nhiêu muỗng muối, đổ
vào ly 2 bao nhiêu muỗng muối….
Từ đó cháu suy ra: Vì ly 1 ít muối nên trứng không thể nổi lên được. Muốn
trứng nổi lên phải làm gì? (Cháu thỏa thuận với nhóm là phải thêm muối vào
ly 1…)
Cô giải thích thêm cho cháu biết muối tan trong nước nhưng vì muối mặn nên
muối chìm xuống dưới và đẩy quả trứng nổi lên
- Vậy trứng ở trong nước muối có nổi được không? Trứng còn nổi được ở đâu nữa
không?
- Mở rộng: Nước đường, dầu ăn….Tiếp tục cho trẻ khám phá.
Mỗi khi cháu khám phá ra điều gì, ta cho cháu ghi kết quả bằng kí hiệu mà
cô và cháu đã thỏa thuận để dễ kiểm tra. Khi thí nghiệm thành công, tôi thấy
trên khuôn mặt các cháu lộ rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng và có những
nhóm đã reo hò ầm ĩ. Với tiết học này tôi thấy vui và các cháu thực sự chủ
động khi làm công việc thí nghiệm. Lại thêm một lần nữa tôi đã tác động vào
các cháu tính tự tin, tự lập, tự suy nghĩ, tự tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn
thành công việc mình đang làm.
Với tôi đã áp dụng nhiều vào tiết học của cháu về những đề tài khám phá khoa
học và tất cả đều được sự hưởng ứng nhiệt tình, say mê của các cháu. Tôi đã tự tin
hơn khi tìm các đề tài cho trẻ khám phá sau này như: Nhanh chậm- Thấm màu-
Đổi màu đã được tôi đưa vào dạy và đạt kết quả cao, phụ huynh cũng đã trao đổi

cho tôi về những thành quả do cháu đã thí nghiệm ở nhà như: Hoa đổi màu, nhuộm
quả…
Tôi thật sự phấn khởi với những phương pháp, biện pháp khi cho cháu thí
nghiệm đạt hiệu quả cao giúp trẻ say mê khám phá khoa học.

Biện pháp 2: Khám phá khoa học qua vật thật bằng hình thức tham quan.
+ Nội dung :Xác định chủ đề về nội dung tham quan là khám phá về môi trường
tự nhiên hay môi trường xã hội để đặt ra nhiệm vụ.
+ Chuẩn bị
Giáo viên :
- Xác định vị trí và địa điểm đến tham quan thuận lợi nhất ( không để trẻ mệt và
không ảnh hưởng đến mục đích chính
- Kiểm tra địa điểm tham quan trước xác định đối tượng cần thiết quan sát, xác
định tình tự quan sát nội dung khối lượng tri thức mà trẻ cần lĩnh hội.
- Xác định địa điểm cho trẻ tự quan sát và nghỉ ngơi
Cho trẻ:
- Trước tham quan vài ngày cần đàm thoại với trẻ nhằm mục đích tạo hứng thú cho
trẻ, thông báo cho trẻ địa điểm nội dung của buổi tham quan.
- Quan tâm đến sức khỏe của trẻ, chuẩn bị các dụng cụ cần thiết, trang phục cho trẻ
phù hợp với thời tiết vận động.
+ Cách thực hiện:( Tổ chức tham quan)
- Dù khám phá môi trường tự nhiên hay môi trường xã hội giáo viên cũng cần tổ
chức đàm thoại ngắn nhằm mục đích nhắc trẻ về mục đích tham quan, các quy tắc
hành vi cần thực hiện trong quá trình tham quan.
- Tổ chức cho trẻ quan sát có thể quan sát (Tập thể, nhóm, cá nhân) giáo viên giúp
trẻ xác định được những dấu hiệu đặc trưng của sự vật hiện tượng bằng các biện
pháp khác nhau: Như đặt ra các câu hỏi câu đố bài thơ hướng dẫn trẻ quan sát,
khảo sát, sử dụng phương pháp trò chơi, sử dụng kể chuyện và giải thích để bổ
sung cho sự quan sát của trẻ. Trong quá trình quan sát có thể sử dụng các tác phẩm
văn học hoặc âm nhạc.

Ví dụ về tìm hiểu môi trường xã hội “Tìm hiểu về Bác nông dân”
- Cô giáo tiến hành chuẩn bị như trên.


-Tổ chức tham quan : Cô đàm thoại ngắn về nghề nông và có thể cho cháu kể về
bác nông dân mà cháu biết cô cho cháu đến xem các bác, các cô, các chú nông dân
đang làm việc khi trẻ quan sát cô đặt các câu hỏi hoặc câu đố về người nông dân
cho cháu trả lời cho cháu được quan sát những người nông dân đang làm việc và
gợi hỏi về công việc của họ. Cho nhiều cháu được nhận xét về công việc cũng như
trang phục của bác. Cô giáo có thể kể câu chuyện tốt về bác nông dân cho cháu
nghe. Cho cháu làm quen các bài thơ về nghề nông như “ Hạt gạo làng ta” hoặc hát
bài “Lời ru trên nương”, cháu được nghe nhằm gợi cảm xúc cho trẻ để trẻ dành
nhiều tình cảm cho bác nông dân và cho trẻ rót nước mời các bác uống, để trẻ biết
cách thể hiện tình cảm với người làm nông và từ đó giúp cháu biết nghề nào cũng
đáng quý.
- Cho cháu tìm hiểu khàm phá về nghề nào cũng nên chọn thêm một vài tác phẩm
văn học âm nhạc mới lạ phù hợp ví dụ như: Tìm hiểu về chú bộ đội thì cho cháu
nghe thơ “Đồng chí” thơ “chú bộ đội hành quan trong mưa”. Để các cháu nhận
thức sâu sắc biết trách nhiệm và nghĩa vụ của chú bộ đội dành cho đất nước cho
các cháu. Cho cháu hát, múa cùng các chú bộ đội. làm quà tặng chú để
gây cảm xúc tình cảm cho các cháu thêm yêu thương chú bộ đội từ đó sẽ hình
thành nhân cách tốt đẹp biết cách ứng xử giữa người nhỏ và người lớn với người
Ví dụ về tìm hiểu MT tự nhiên “Khám phá về các loại hoa”











Ví dụ về tìm hiểu MT tự nhiên “Khám phá về các loại hoa”

+ Tổ chức tham quan : Cô đàm thoại ngắn về đề tài tham quan để nhắc trẻ nhớ mục
đích tham quan, hướng cháu chú ý quan sát các loại hoa chú ý với môi trường thiên
nhiên cô cần cho trẻ tự phát hiện. Cho trẻ quyền lựa chọn đối tượng trong khuôn
khổ yêu cầu ví dụ: Có cháu biết quá nhiều về hoa hồng do mẹ trồng ở nhà cháu nên
đến khu tham quan cháu thích khám phá hoa lạ hơn thì cô giáo cần tôn trọng ý kiến
của trẻ mỗi cháu, có thể có sở thích khác nhau cô tạo điều kiện cho cháu quan sát
bằng cách cô đọc câu đố về các loại hoa và cho cháu lựa chọn sau đó cho cháu
quan sát theo nhóm. Cuối cùng cô tạo cơ hội cho cháu mô tả về những gì cháu vừa
quan sát. Thời gian có hạn nên mỗi buổi tham quan về cô có thể trao đổi với trẻ
trong mọi lúc mọi nơi bằng cách gợi nhớ lại buổi tham quan để tất cả cháu đều
được mô tả những gì mình khám phá. Trong khi tham quan cô và cháu có thể hát
múa về các loại hoa hoặc cô kể chuyện “ Sự tích hoa mào gà” hoặc “ Sự tích hoa
phù dung”… cho cháu nghe trong giờ giải lao . Cuối cùng cho cháu nhặt cỏ tưới
nước cho hoa cháu sẽ có ý thức trong lao động ham mê cái đẹp và yêu thiên nhiên
cây cỏ hoa lá…

+ Công việc sau tham quan
- Ngay sau khi tham quan các đối tượng trẻ thu nhặt được cần phải đặt ở góc thiên
nhiên ( Hoa cắm vào lọ hay giỏ, động vật để vào bể hoặc bồn…) để có thể cho
cháu quan sát động thực vật.
Sau tham quan vài ngày tổ chức đàm thoại. Giáo viên đặt câu hỏi sao cho trí nhớ
của trẻ xuất hiện toàn bộ quá trình tham quan, xác định thời điểm giáo dưỡng và
giáo dục để trẻ xác định mối quan hệ giữa các hiện tượng. Qua đó trẻ bày tỏ được
cảm xúc của trẻ với buổi tham quan.
Biện pháp 3: Xây dựng góc “Bé với thiên nhiên ” để trẻ hoạt động KPKH

+ Nội dung: Xác định chủ đề để xây dựng nội dung ở góc thiên nhiên.
+ Chuẩn bị:
Các cây cỏ con vật và đồ dùng theo chủ đề.
Tìm địa điểm không gian phù hợp để xây dựng góc.
+ Cách tổ chức xây dựng
- Tôi xây dựng góc thiên nhiên bởi vì tôi nhận thấy cháu rất ham mê khám phá
khoa học nhất là những gì mới lạ và cháu thích được tự mình bỏ tay vào trải
nghiệm cho nên tôi quyết định xây dựng góc thiên nhiên theo từng chủ đề để thay
đổi đối tượng nghiên cứu hàng tuần cho cháu hứng thú khám phá.
- Góc thiên nhiên là nơi để trẻ khám phá môi trường tự nhiên. Nơi dành cho các
hoạt động góc hoặc hoạt động ngoài trời. Thông qua các hoạt động này trẻ tri giác
và khám phá từ đó trẻ phát triển tư duy trẻ so sánh, phân tích, tổng hợp. Qua hằng
ngày trẻ nhận thấy sự hình thành và phát triển của sự vật hiện tượng và các mối
quan hệ trong thiên nhiên như quá trình phát triển của cây từ hạt. Gà đẻ trứng và
trừng lại nở ra gà …cũng thông qua góc thiên nhiên cháu biết cách
chăm sóc và bảo vệ như thế nào cho phù hợp với từng sự vật hiện tượng. Trong
quá trình khám phá cháu được trao đổi thảo luận ngôn ngữ cũng phát triển và từ đó
hình thành ý thức chăm sóc bảo vệ thiên nhiên như nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước,
ngoài ra còn là nơi tìm đọc các loại sách về thiên nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự
nhiên .
Ví dụ: “Chủ đề trường mầm non” có mô hình trường có các đồ chơi ngoài trời
bằng mô hình có các vật thật khác như các cây xanh, cây sung, cây vạn niên thanh,
cây hoa hồng… Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ về chủ điểm trường MN.
Một số chậu hoa bồn hoa nhỏ
Ví dụ: “Chủ đề thực vật” tôi xây dựng góc thiên nhiên có :
- Chậu cho trẻ gieo hạt đậu, gieo hạt cà phê cho cháu tự tay chăm sóc và quan sát
hàng ngày
- Có hộp xốp chứa đất để gieo trồng 2-3 loại rau.
- Ngoài ra có cây cối, hoa lá, quả hạt … Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể
xem và đọc sách theo trí nhớ về các bài thơ, chuyện kể về thế giới thực vật.

- Sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô, hoa, lá ép khô , các loại hạt … Có ngắn nhãn
mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, trẻ được chơi và làm được những sản
phẩm từ những đồ chơi ấy. Các tranh, lô tô về chủ điểm đều được phân loại để ở
Đối với tranh đều có chữ cái tương ứng ở dưới cũng được phân loại xếp gọn gàng
và dễ kiểm tra .
C/ Điều kiện thực hiện giải pháp biện pháp:
Ta tìm điều kiện để thực hiện phù hợp với từng giải pháp, biện pháp
* Biện pháp 1: “Cháu khám phá khoa học thông qua thí nghiệm thực hành”
- Không gian :
Tốt nhất là thực hành tập trung ở trên lớp để cho tất cả các cháu đều được khám
phá
-Thời gian: Mỗi đề tài cần tiến hành thử nghiệm trong 40 phút.
- Phương tiện :
- Đồ dùng của trường và một số dụng cụ thí nghiệm khoa học khác
-Phối kết hợp với phụ huynh : Cô giáo trao đổi với phụ huynh về những bài học ở
lớp và giao nhiệm vụ cho cháu về thực hành ở nhà.
* Biện pháp 2: Khám phá khoa học qua vật thật bằng hình thức tham quan
- Không gian: Ngoài lớp học.
- Thời gian: Mỗi đề tài cần tiến hành tham quan trong 1 buổi.
- Phương tiện: Đối tượng và địa điểm tham quan tùy vào nội dung và yêu cầu của
buổi tham quan để tìm ra đối tượng
* Biện pháp 3: Xây dựng góc “Bé với thiên nhiên ” để trẻ hoạt động KPKH
- Không gian: không gian ngoài trời
- Thời gian: Mỗi đề tài cần tiến hành hoạt động trong khoảng 30p
- Phương tiện: Đối tượng xây dựng ở góc tùy vào chủ điểm cho phù hợp tránh
nhàm chán ở trẻ.
* Mọi điều kiện thực hiện các giải pháp biện pháp cần tốt nhất theo điều kiện có
thể ở lớp ở trường và địa phương.
d) Mối quan hệ giữa các biện pháp giải pháp
- Giữa các biện pháp, giải pháp có mối quan hệ qua lại với nhau chúng hộ trợ cho

nhau giúp trẻ khám phá khoa học một cách sâu sắc hơn. Khi trẻ đi tham quan dạo
chơi những gì cháu được tri giác, được tìm hiểu, được phân tích, được tổng hợp,
được hành động, được góp nhặt thì khi về lớp hoạt động ở các góc chơi đặc biệt là
góc phân vai và góc thiên nhiên cháu sẽ, nhớ lại, củng cố lại những kiến thức mà
cháu đã nhìn thấy trong buổi dạo chơi bằng cách tái hiện lại môi trường xã hội
đóng vai như bác nông dân biết trồng, biết chăm sóc cây… cùng với sự hướng dẫn
của cô thông qua biện pháp thử nghiệm cháu sẽ được làm thật qua đó phát triển sự
sáng tạo và có những kỹ năng sống phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội .
- Dù trẻ tiếp cận biện pháp nào trước, biện pháp nào sau thì việc được tiếp cận các
biện pháp đó cũng hỗ trợ cho nhau, cũng mang đến hiệu quả cao trong nhận thức
về môi trường xung quanh của trẻ.
- Các biện pháp này đan xen nhau và được xuyên suốt trong quá trình khám phá
khoa học của trẻ sẽ giúp trẻ phát hiện ra những điều kì diệu mới mẻ trong môi
trường xung quanh. Trẻ sẽ tích lũy được vốn sống qua đó hình thành các kỹ năng
kỹ xảo trong học tập, vui chơi và lao động.
e)Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vẫn đề nghiên cứu.
Tôi đã vận dụng các biện pháp mới hướng dẫn trẻ khám phá khoa học trong năm
và kết quả đạt là trẻ khám phá khoa học có tiến bộ hơn so với đầu năm cụ thể chất
lượng được đánh giá bằng 2 bảng sau.
Chất lượng khảo sát đầu năm: Số trẻ : 30 cháu.
STT

NỘI DUNG Kết quả
TỐT-KHÁ TB YẾU
1

K
ỹ năng quan sát,t
ìm ra
đ

ặc điểm v
à tr
ả lời
được tên gọi đặc điểm của các đối tượng
khám phá
22 cháu

73,33%
7 cháu

23,33%

1cháu

3,33
%
2

Kh
ả năng so sánh , phân loại các đối t
ư
ợng
khám phá
17 cháu

56,67%
11cháu

36,66%


2
cháu
6,66%
3

Phát hi
ện cái mới lạ v
à có thái đ
ộ h
ành đ
ộng
phù hợp
16 cháu

53,33%
8 cháu

26,66%

6
cháu
20%
4



Có kỹ năng sống và khả năng giao tiếp tốt

15 cháu
50%

10
cháu
33,33%


5
cháu

16,66%


Chất lượng khảo sát cuối năm: Số trẻ : 30chaú
STT


N
ỘI DUNG



K
ết
qu



T
ỐT
-
KHÁ


TB

Y
ẾU

1

K
ỹ năng quan sát,t
ìm ra
đ
ặc điểm v
à tr
ả lời
được tên gọi đặc điểm của các đối tượng
khám phá
26 cháu

86,65
4 cháu

13,33%

0

cháu

2


Kh
ả năng so sánh , phân loại các đối t
ư
ợng
khám phá
23 cháu

76,66%
6 cháu

20%
1
cháu
3,33%

3

Phát hi
ện cái mới lạ v
à có thái đ
ộ h
ành đ
ộng
phù hợp
Tự mày mò điều chỉnh hoàn thiện đồ vật
còn giang dở
22 cháu

73,33%
6 cháu


20%
2
cháu
6,66%
4



Có kỹ năng sống và khả năng giao tiếp tốt

15 cháu
50%
10
cháu
33,33%



5
Cháu
16,66
%

Qua bảng khảo sát thấy chất lượng giáo dục bộ môn tăng rõ rệt chứng tỏ vận
dụng các biện pháp mới đạt hiệu quả.
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vẫn
đề nghiên cứu
Hơn 9 tháng xây dựng và thực hiện những biện pháp mới cho cháu khám phá
khoa học, trẻ lớp tôi đã tiến bộ nhanh về mọi mặt. Nhờ thông qua các biện pháp

mới mà cháu đã hăng say vào khám phá khoa học vì thế mà các kỹ năng phát triển
cháu có sáng tạo hơn trong các giai đoạn vốn kiến thức đã được mở rộng, tư duy,
ngôn ngữ cũng phát triển một cách rõ rệt. Các kỹ năng nhận thức của trẻ như phân
tích, so sánh tổng hợp cũng tiến bộ rất nhanh. Phần đông trẻ đã biết bảo về, gìn
giữ môi trường trong và ngoài lớp. Trong các giờ chơi đã hình thành xúc cảm, tình
cảm rất tích cực và kinh nghiệm cũng như kỹ năng sống của trẻ từ đó cũng tốt hơn
trẻ đã mạnh dạn hơn trong các hội thi của lớp của trường cụ thể như hội thi “ Bé và
mẹ cùng làm thí nghiệm” của lớp hơn 80% số cháu tự thuyết trình bài thi của mình
có 28 trẻ tham gia thì có tới 24 cháu đạt điểm khá giỏi chiếm 85,71%. Hội thi bé
với văn học cấp trường có 3 cháu tham gia thì cả 3 đều đạt giải cao: 1 giải nhất, 1
giải nhì và 1 giải ba. Kết quả thu được qua khảo nghiệm chứng tỏ các biện pháp
mới cho trẻ khám phá môi trường xung quanh có giá trị khoa học cao.
III. Kết luận- kiến nghị
III.1 Kết luận
Qua phương pháp vận dụng các biện pháp mới vào khám phá khoa học trẻ 5-6
tuổi đã đạt được kết quả như mong đợi tôi rút ra kết luận như sau:
Giáo viên cần có trách nhiệm chăm sóc giáo dục trẻ với tấm lòng cô giáo như
mẹ hiền mong cho con ngày một tiến bộ thì bất cứ một cô giáo nào cũng không
ngừng không nghỉ tìm tòi sáng tạo ra nhiều cách thức để trẻ tập trung học và chơi
thỏa mãn nhu cầu khám phá của trẻ tác động trực tiếp đến việc lĩnh hội kiễn thức,
kỹ năng sống ở trẻ. Muốn nhìn trẻ phát triển toàn diện theo tôi chúng ta cần xây
dựng biện pháp giáo dục hay mới lạ cuốn hút trẻ để hình thành thói quen ham mê
khám phá khoa học ở trẻ đó là chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng môn học
khám phá khoa học đó cùng chính là thành công lớn lao nhất trong sự nghiệp trồng
người của chúng ta .
III.2 Kiến nghị :
Bản thân tôi có một số kiến nghị như sau:
- Sau mỗi năm học thì giáo viên đã có thêm những kinh nghiệm hơn trong giảng
dạy chính vì vậy mà hàng năm lại có thêm những sáng kiến kinh nghiệm do các
nhà giáo dục như chúng tôi nghiên cứu. Tôi cũng như các đồng nghiệp cũng muốn

có điều kiện để tiếp xúc với đàn chị đã có nhiều kinh nghiệm trong giáo dục để
nghe những sáng kiến kinh nghiệm của họ học hỏi họ trong công tác giảng dạy.
Hàng năm có hàng trăm sáng kiến kinh nghiệm mới nhưng chỉ để chấm mà những
kinh nghiệm quý báu đó không có tác dụng để ứng dụng rộng rãi thì thật đáng tiếc
vậy tôi có kiến nghị với các cấp như sau:
*Về phòng giáo dục:
- Kiến nghị lên sở để thường xuyên mở các lớp chuyên đề thảo luận rút kinh
nghiệp và học hỏi những sáng kiến kinh nghiệm mới về các bộ môn của các huyện
đạt giải cấp tỉnh để đúc rút kinh nghiệp trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở các
trường mầm non trong tỉnh.
- Về những sáng kiến đạt cấp huyện phòng giáo dục cũng nên mở lớp thảo luận
hoặc gửi mail về các trường những sáng kiến hay để giáo viên trong huyện học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau .
*Về trường:
Tôi có kiến nghị: Nhà trường tạo mọi điều kiện hỗ trợ thêm để giáo viên xây dựng
góc thiên nhiên vui chơi và học tập cho các cháu khám phá khoa học, tạo điều kiện
cho giáo viên tổ chức các buổi tham quan cho trẻ. Mua sắm một số dụng cụ thí
nghiệm đơn giản phù hợp với đối tượng trẻ.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn ban giám hiệu và chị em đồng nghiệp trong trường
đã tạo điều kiện và hỗ trợ tôi hoàn thành bản sáng kiến kinh nghiệm này.

Người viết



Trần Thị Nguyên

×