Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2 trường tiểu học thạch lâm 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.91 KB, 21 trang )

1
Mục lục
`Nội dung
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

Trang
2
2
2
2
2
2
2
4
5

2.3.1.Tích luỹ, mở rộng vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn
trong Tiếng Việt

5

2. 3.2.Hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước cho bài học.


7

2.3.3. Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt đoạn văn
2.3.4. Tăng khả năng sử dụng vốn từ thông qua các buổi sinh hoạt
ngoại khóa, rèn kĩ năng sống.

8
15

2.3.5. Giáo viên tăng cường công tác tự học và làm đồ dùng phục vụ
cho việc giảng dạy môn học.

17

2.3.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong cơng tác giáo dục.
2.3.7. Làm tốt cơng tác khen thưởng, khích lệ học sinh.
2.4. Hiệu quả của của sáng kiến kinh nghiệm

17
18
18

3. Kết luận và kiến nghị

19

3.1. Kết luận
3.2.Kiến nghị

19

20


1
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Mơn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí hết sức quan trọng, nó vừa là bộ mơn
khoa học vừa là phương tiện để học sinh nắm chắc kiến thức. Các phân môn
trong Tiếng Việt đều có mục đích, vai trị nhất định nhằm phát triển trí tuệ, thẩm
mĩ cho người học. Phân mơn Tập làm văn cũng khơng nằm ngồi mục đích đó.
Thơng qua phân mơn Tập làm văn việc giao tiếp hằng ngày của các em
thuận lợi hơn, tăng khả năng sử dụng tiếng phổ thông và tạo điều kiện học tập
tốt cho các mơn học khác. Vì thế mà phân môn Tập làm văn đã được đưa vào
học ngay từ lớp 2. Trong chương trình phân mơn Tập làm văn lớp 2 tuy chưa có
riêng các tiết học cụ thể về kiểu bài văn miêu tả như lớp 4, 5 nhưng trong các bài
tập của tiết Tập làm văn thì dạng bài kể, tả về một số sự vật có liên quan đến
mỗi chủ điểm, các em đã bắt đầu làm quen với cách viết đoạn văn. Khi dạy các
dạng bài tập này, giáo viên không thể xem nhẹ, coi đây giống như việc giải
quyết các bài tập thông thường mà phải hướng dẫn cho các em theo một quy
trình đầy đủ, đảm bảo, giúp các em có thói quen quan sát, biết rung cảm vào đối
tượng, biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu cảm, tạo tiền đề để các em biết
cách viết một bài văn hoàn chỉnh ở các lớp trên.
Qua thực tế dạy học Lớp 2 nhiều năm, tôi nhận thấy đa số các em có vốn
từ ngữ Tiếng Việt rất ít, chưa biết quan sát sự vật, chưa biết sử dụng từ ngữ để
diễn đạt ý; nói, viết chưa thành câu, câu văn thiếu cảm xúc. Vậy làm thế nào để
các em biết quan sát sự vật, hiện tượng một cách tinh tế, cảm nhận được cái hay,
cái đẹp, biết lựa chọn từ ngữ phù hợp để diễn đạt ý, viết thành câu. Từ việc viết
đúng các em sẽ biết viết hay. Xuất phát từ những lí do đó tơi đã đi sâu vào
nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng viết
đoạn văn cho học sinh lớp 2 mà bản thân đã áp dụng có kết quả hết sức đáng

mừng trong năm học 2018 – 2019. Do đó tơi mạnh dạn nêu ra “Một số biện
pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2 Trường Tiểu học Thạch
Lâm 1”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài với mục đích đề xuất một số biện pháp thích hợp, có
tính khả thi về việc giúp học sinh lớp 2 nâng cao kĩ năng viết đoạn văn, góp
phần nâng cao chất lượng mơn Tiếng Vệt nói chung và phân mơn Tập làm văn
nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực trạng viết đoạn văn của học sinh lớp 2, nghiên
cứu các biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận phương pháp dạy học.
- Quan sát, phỏng vấn.
- Khảo sát, điều tra thực tiễn.
- Phân tích, hệ thống hố, tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận


2
Trong hệ thống giáo dục cấp Tiểu học được coi là cấp học nền tảng. Do
vậy, giáo dục Tiểu học có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Ở cấp học này các em
được học, được phát triển tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất nhằm hình thành
và phát triển nhân cách con người Việt Nam toàn diện. Để thực hiện được các
yếu tố đó người giáo viên phải có những phương pháp và hình thức tổ chức phù
hợp trong q trình dạy học.
Trong trường Tiểu học, mơn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với học sinh bởi nó là mơn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết
trong giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển tồn diện, hình thành ở các

em những cơ sở của thế giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thơng minh, hình
thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người mới.[1]
Phân môn tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng Việt do
các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hồn thiện
chúng. Để làm được một bài làm văn nói hoặc viết, học sinh phải hồn thiện cả
bốn kĩ năng, nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt.
Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hồn thiện và
nâng cao dần. Phân mơn tập làm văn còn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản
sinh văn bản (nói, viết), góp phần hiện thực hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất
của việc dạy và học Tiếng Việt giúp học sinh biết sử dụng Tiếng Việt trong đời
sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học.
Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn là sản sinh ra các bài văn viết hoặc
nói theo các kiểu bài do chương trình quy định. Để sản sinh được các bài văn
này, học sinh phải có thêm nhiều kĩ năng khác ngồi các kĩ năng nghe, nói, đọc
viết Tiếng Việt, kĩ năng dùng từ, đặt câu, kĩ năng phân tích để tìm ý và lựa chọn
ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn… Có thể nói nhiệm vụ cơ bản và
chủ yếu của phân môn tập làm văn là giúp học sinh sau một quá trình luyện tập
lâu dài và có ý thức, dần dần nắm được cách viết các bài văn theo các thể loại
khác nhau do chương trình quy định. Ở tiểu học phân môn tập làm văn góp phần
rèn luyện tư duy hình tượng; từ óc quan sát tới trí tưởng tượng, từ khả năng tái
hiện các chi tiết có thực trong đời sống để xây dựng nhân vật, xây dựng cốt
truyện. Khả năng tư duy logíc của học sinh cũng được phát triển trong quá trình
học các kiểu bài có phong cách nghệ thuật, việc phân tích đề, lập dàn ý…Giúp
cho khả năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn… của học sinh được rèn
luyện để trở nên sắc bén hơn. Các kiểu bài miêu tả, kể chuyện… giúp học sinh
phát triển vốn từ, tập vận dụng các biện pháp nghệ thuật, làm cho tình cảm yêu
mến và gắn bó với thiên nhiên, với những người và việc chung quanh nảy nở.
Các em thấy vẻ đẹp của một buổi bình minh, một cây phượng ra hoa, một con
mèo mướp, thấy dáng vẻ đáng yêu của một em bé tập đi, của một cụ già thương
con quý cháu… Từ đây tâm hồn và nhân cách của các em hình thành và phát

triển.
Tính chất sáng tạo của phân môn tập làm văn. Khi làm bài văn học sinh thực
hiện một hoạt động giao tiếp. Mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của
từng học sinh trước đề bài. Do đó có thể nói trong việc học làm văn, học sinh
được chủ động, tự do thể hiện cái “tơi” của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái


3
riêng của mình một cách trọn vẹn, dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ
riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình.
Tập làm văn là một mơn học mang tính tổng hợp. Do đó việc dạy tập làm văn
dựa trên kết quả nghiên cứu của nhiều môn khoa học. Trong các cơ sở đó, đối
với việc dạy tập làm văn ở tiểu học, quan trọng nhất là các hiểu biết về phương
pháp dạy tiếng mẹ đẻ, lý thuyết hoạt động lời nói, ngơn ngữ học. [2]
Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân mơn khó. Bởi ở lứa tuổi của
các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp, việc diễn đạt ngơn ngữ hạn chế.
Bên cạnh đó cịn có khó khăn khách quan như điều kiện hồn cảnh sống của học
sinh ở địa bàn dân cư. Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung,
học phân mơn Tập làm văn nói riêng.
Như chúng ta đã biết ở lớp 1 trong mơn Tiếng Việt chưa có phân môn Tập
làm văn, học sinh chỉ dừng lại ở mức độ tập nói hoặc viết câu có nội dung theo
chủ đề bài học. Đến lớp 2 học sinh mới được làm quen với phân môn Tập làm
văn.Trong phân môn Tập làm văn ở lớp 2 chưa có tiết học riêng về từng kiểu bài
như ở lớp 4,5 mà chỉ thông qua các bài tập, trong đó dạng viết đoạn văn kể, tả
ngắn chiếm khoảng 1/3 số tiết và được chia làm hai phần:
Ở học kì 1,từ tuần 8 đến tuần 16 các em đã bắt đầu phải viết một đoạn
văn từ 3 đến 5 câu kể về người ( cô giáo, ơng, bà, anh, chị, em, gia đình), kể về
con vật. Sang học kì 2, từ tuần 20 đến tuần 31 các em được viết đoạn văn tả con
vật( chim), tả cảnh (biển), tả cây cối(quả), tả bốn mùa(mùa hè)
Vì vậy muốn tổ chức dạy tốt cho học sinh, giáo viên cần nắm vững bản

chất của kĩ năng viết đoạn văn, hiểu rõ về quá trình dạy viết đoạn văn, giúp học
sinh biết quan sát, lựa chọn và diễn đạt ý để viết được một đoạn văn hoàn chỉnh
đúng ngữ pháp, giàu cảm xúc đấy là điều vô cùng nan giải đối với mỗi giáo viên
trực tiếp đứng lớp.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đối với địa phương
Thạch Lâm là một xã đặc biệt khó khăn của huyện Thạch Thành. Hầu hết
các thơn xóm ở cách biệt, ít người qua lại. Phương tiện thơng tin đại chúng như
tivi, mạng internet ở mỗi gia đình là rất ít.
Người dân nơi đây chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và chăn nuôi, cuộc
sống vô cùng vất vả, một số gia đình bố mẹ đi làm ăn xa phải gửi con cho ơng
bà. Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của
con em mình:
- Phụ huynh chưa mua đầy đủ đồ dùng học tập, chưa xây dựng góc học tập,
chưa thường xuyên nhắc nhở việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.....Vì thế mà
ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của các em.
- Chưa chú ý nhắc nhở con em trong giao tiếp hằng ngày, khi bố, mẹ hay
người lớn hỏi các em thường trả lời “trống khơng” khơng có chủ ngữ dẫn đến
thói quen khơng tốt cho các em trong viết câu, diễn đạt ý.
2.2.2 Đối với nhà trường
Cơ sở vật chất tương đối đảm bảo phục vụ cho công tác dạy và học.


4
Nhà trường luôn quan tâm về chất lượng giáo dục và các phong trào hoạt
động thể dục thể thao, chỉ đạo tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, tạo điều
kiện để giáo viên được trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau. Tuy nhiên chưa
dành nhiều thời gian cho các buổi hoạt động ngoại khoá, chưa tổ chức cho học
sinh đi tham quan du lịch để các em được trải nghiệm, quan sát thực tế, tích lũy
thêm vốn từ ngữ.

2.2.3. Đối với giáo viên
Khi lên lớp, đa số giáo viên còn dạy theo cách truyền thống, chưa thực sự
đổi mới phương pháp dạy học còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, sách giáo viên
dẫn đến khơng có sự sáng tạo, chưa sinh động, từ đó hạn chế khả năng tiếp thu
và sáng tạo của học sinh. Nhiều giáo viên khi dạy cịn chú trọng lí thuyết, xem
nhẹ việc luyện kĩ năng, thực hành; Chưa tạo điều kiện cho học sinh đuợc quan
sát thực tế mà chỉ ngồi trong lớp tưởng tượng về đối tượng quan sát hoặc dựa
vào văn mẫu. Vì thế, học sinh viết văn một cách máy móc, rập khn, ý nghèo
nàn, lời văn sơ lược, đơn giản, khơng có cảm xúc chân thực.
2.2.4. Đối với học sinh
Đầu năm học 2018 - 2019, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2. Lớp tôi
chủ nhiệm và giảng dạy có 23 em, đa số học sinh là con hộ nghèo. Khả năng học
trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, tiếp thu nhanh vẫn
còn một số em phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau.
Qua khảo sát tơi thấy đa số các em có vốn từ ngữ Tiếng Việt rất ít, chưa
biết sử dụng từ ngữ để diễn đạt ý; nói, viết chưa thành câu, thể hiện rõ khi trả lời
các câu hỏi của giáo viên. Nguyên nhân đẫn đến thực trạng trên đó là:
+ Thứ nhất là: Do đặc trưng vùng miền, tiếng mẹ đẻ của các em là tiếng
dân tộc Mường. Bên cạnh đó là mơi trường giao tiếp: vì nơi các em ở ít có điều
kiện tiếp xúc với người Kinh nên khi giao tiếp ở nhà, giao tiếp với những người
xung quanh, giao tiếp với bạn bè các em đều sử dụng bằng tiếng Mường. Chính
vì thế mà vốn từ Tiếng Việt của các em còn rất nghèo nàn.
+ Thứ hai là: Các em chưa biết cách quan sát trực tiếp đối tượng, chưa
biết cách dùng từ, diễn đạt ý, bài văn của các em cịn mang tính kể lể, liệt kê,
thiếu hình ảnh, cảm xúc. Đa số bài làm của học sinh chỉ đơn thuần theo kiểu trả
lời các câu hỏi gợi ý nên không thể hiện được cảm xúc riêng. Do đó, học sinh
cảm thấy ngại khi học Tập làm văn, dẫn đến chất lượng dạy học phân môn Tập
làm văn ở lớp 2 chưa cao.
+ Thứ ba là: Do chưa có sự quan tâm, kèm cặp của gia đình nên các em
thiếu đồ dùng học tập và sách tham khảo để hỗ trợ cho môn học. Đa số học sinh

chưa có thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tích luỹ, mở rộng vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn trong
Tiếng Việt
Để mở rộng, cung cấp thêm vốn từ cho học sinh giáo viên có thể kết hợp
với các phân mơn khác trong môn Tiếng Việt.
2.3.1.1. Phân môn Tập đọc


5
Trong các bài Tập đọc theo các chủ đề có rất nhiều từ ngữ dùng để tả cây
cối, tả người, tả con vật giúp các em có thêm vốn từ để viết những đoạn văn
ngắn có dạng kể, tả. Vì vậy mà trong tiết Tập đọc giáo viên cần chú ý giải nghĩa
những từ ngữ có liên quan để các em hiểu được nghĩa các từ đó thì khi nói, viết
trong các bài Tập làm văn sẽ không bị dùng sai từ.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc “Bàn tay dịu dàng”(TV2, tập 1- trang 66) tôi cho
học sinh giải nghĩa thêm từ “dịu dàng”(Vì đây là từ diễn tả cử chỉ ân cần của
thầy giáo đối với học sinh giúp các em có thêm vốn từ để học tiết Tập làm văn
“Tả ngắn về thầy cô giáo” (TV2, Tuần 8 - trang 69)
Mặt khác giúp các em có vốn từ ngữ Tiếng việt phong phú để vận dụng
viết đoạn văn. Trong tiết Tập đọc tôi chú ý khắc sâu kiến thức, giúp học sinh ghi
nhớ những từ ngữ dùng để miêu tả và biểu lộ cảm xúc.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Tập đọc “Cô giáo lớp em” (TV 2, Tập 1- trang 60) trong
khâu củng cố tôi cho nhiều học sinh nhắc lại hình ảnh cơ giáo (Cơ đến lớp sớm,
cơ rất chịu khó, thương u học sinh, ln tươi cười với học sinh..) tình cảm của
học sinh đối với cô giáo (Yêu quý cô giáo, ngắm mãi điểm mười cô cho) để phục
vụ cho bài Tập làm văn “Kể ngắn về cô giáo” (Bài tập2, 3-TV2 tập 1- trang 69)
Ví dụ 3: Dạy bài “Cây xồi của ông em” (TV2, tập 1- trang 89)
Câu hỏi 1: Tìm những hình ảnh đẹp của cây xồi (Cuối đơng, hoa nở
trắng cành. Đầu hè, quả sai lúc lỉu. Từng chùm quả đu đưa theo gió)

Sau khi học sinh trả lời câu hỏi, tôi đã cho nhiều em nhắc lại các từ ngữ trên
giúp các em có thêm vốn từ và biết cách tả cây cối, phục vụ cho tiết Tập làm văn
Tuần 28 “Tả ngắn về cây cối” (Bài tập 2,3 -TV2, tập 2, trang 90).
Để giúp học sinh hiểu thêm về cách tả cây cối theo từng thời điểm tơi đã đặt
thêm câu hỏi: Cây xồi được tả vào thời điểm nào?( Cuối đông cây ra hoa, Đầu
hè cây ra quả)
Đối với các bài Tập đọc khác tôi cũng làm tương tự như vậy.
Ví dụ 4: Bé Hoa (TV2, tập 1- trang 121)
Đoạn 1: Miêu tả em Nụ (Em Nụ mơi đỏ hồng, mắt to trịn và đen láy)
Qua bài này học sinh biết cách dùng từ ngữ để tả người, điều này giúp các
em thực hiện tốt yêu cầu của tiết Tập làm văn tuần 15 (Kể về anh chị em)
Ví dụ 5: Chuyện bốn mùa (TV2, tập 2- trang 4)
Học sinh nắm được đặc điểm của từng mùa, từ đó có thể làm tiền đề cho
tiết Tập làm văn tuần 20 (Tả ngắn về bốn mùa- trang 21, TV2, tập 2)
Ví dụ 6: Tơm Càng và Cá Con (TV2, tập 2- trang 68)
Đoạn 1: Miêu tả Cá Con (Con vật thân dẹt, trên đầu có hai mắt trịn xoe,
khắp người phủ một lớp vẩy bạc óng ánh)
Qua bài này học sinh biết thêm cách viết đoạn văn tả về con vật
2.3.3.2. Phân môn Luyện từ và câu
Phân môn Luyện từ và câu trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản
về từ và câu, tăng vốn từ cho các em. Rèn cho các em kĩ năng dùng từ và đặt
câu. Mặt khác, bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành
câu. Trong phân môn này, tôi đặc biệt chú ý giúp học sinh hiểu đúng nghĩa câu,


6
từ thông qua việc dạy học các bài Mở rộng vốn từ, các kiểu câu… Từ việc hiểu
đúng nghĩa từ sẽ giúp các em nhớ từ, chọn đúng từ để diễn đạt ý.
Ví dụ 1 : Tuần 15 - MRVT: Từ chỉ đặc điểm (TV2, tập 1- trang 122)
Qua bài tập 2 học sinh sẽ tìm được từ chỉ đặc điểm của người và vật

+ Đặc điểm về tính cách của một người: tốt, xấu, ngoan, chăm chỉ, chịu khó,
siêng năng, cần cù, khiêm tốn, dịu dàng...
+ Đặc điểm về màu sắc của một vật: trắng, trắng muốt, xanh lè, đỏ tươi, đỏ
chói, đen sì, nâu sẫm, hồng nhạt...
+ Đặc điểm về hình dáng của người, vật: dong dỏng, mập mạp, múp míp, trịn
xoe, gầy nhom, cao kều, thấp, to, ngắn, dài...
Ví dụ 2 : Tuần 29 - MRVT: Từ ngữ về cây cối (TV2, tập 2- trang 95)
Qua bài tập 2 học sinh sẽ biết thêm được từ ngữ dùng để nói về đặc điểm
bộ phận của cây cối.
+ Thân cây: bạc phếch, thấp, cao, chắc ....
+ Rễ cây: dài, uốn lượn, màu nâu sẫm ...
+ Gốc cây: to, nhỏ, nhám, cứng, sần sùi, xù xì ...
+ Cành cây: um tùm, cong queo, sum xuê ...
+ Hoa: đỏ rực, thơm ngát, trắng tinh ...
+ Quả: tròn, màu vàng, xanh lơ ...
+ Lá: màu xanh, sum xuê, khô ...
+ Ngọn cây: thẳng tắp, mảnh dẻ, chót vót ...
Để tăng vốn từ cho học sinh, vào các tiết học buổi chiều tơi cịn đọc cho
học sinh nghe một số đoạn văn hay nói về màu sắc để các em thấy được sự khác
nhau:
Ví dụ 3: Luá chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả vàng hoe. Trong
vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không thấy cuống, như những
chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Từng chiếc lá mít vàng xẫm. Tàu đu đủ,
chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi. Buồng chuối đốm quả chín vàng.
Những tàu lá chuối vàng ối xỗ như những đi áo, vạt áo... Bụi mía vàng xọng,
đốt ngần phấn trắng. Dưới sân, rơm và thóc vàng dịn. Quanh đó, con gà con
chó cũng vàng mượt. Mái nhà phủ một màu rơm vàng mới. (Tơ Hồi)
Khơng chỉ mở rộng vốn từ cho học sinh qua các phân môn của Tiếng Việt
mà giáo viên cịn có thể mở rộng vốn từ cho học sinh qua mơn Tự nhiên và xã
hội. Vì trong môn học này học sinh được làm quen với những cây cối, con vật

trong đời sống hằng ngày, các em thường phải trả lời câu hỏi : Sống ở đâu? Có
đặc điểm gì? Qua đó các em sẽ có thêm vốn từ để viết đoạn văn về con vật, cây
cối.
2.3.2.Hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước cho bài học
Trong học tập việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh vơ cùng quan trọng,
nếu có sự chuẩn bị trước cho bài học thì đến lớp các em sẽ tự tin hơn, làm bài sẽ
tốt hơn. Đặc biệt đối với phân môn Tập làm văn mà nhất là để viết được đoạn
văn thì sự chuẩn bị bài của học sinh lại càng cần thiết.


7
Để viết được các đoạn văn liên quan đến chủ đề đang học, tôi yêu cầu học
sinh về nhà đọc lại các bài Tập đọc hoặc các bài tập của phân mơn Luyện từ và
câu có liên quan đến nội dung viết đoạn văn. Quan sát trước các sự vật để kể
hoặc tả.
Ví dụ 1: Tuần 8 - Bài tập 3 ( TV2, tập 1- trang 69)
Viết một đoạn văn khoảng 4,5 câu nói về cơ giáo(hoặc thầy giáo) cũ của
em.
Để học sinh viết tốt được đoạn văn tôi chuẩn bị đủ số phiếu phát cho mỗi
em, yêu cầu các em về đọc lại các bài tập đọc: “Cô giáo lớp em”, “Người mẹ
hiền”, “Bàn tay dịu dàng” và ghi vào phiếu theo nội dung yêu cầu trong phiếu.
Cử chỉ ân cần của thầy, Tìm từ ngữ nói lên tình Tìm từ ngữ thể hiện tình
cơ đối với học sinh
cảm của học sinh đối với cảm của thầy, cô giáo đối
thầy, cơ giáo.
với học sinh.
.....
...
...
Ví dụ 2: Tuần 20 - Bài tập 2 ( TV2, tập 2- trang 21)

Hãy viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè.
Để chuẩn bị cho bài tập này tôi yêu cầu học sinh về đọc lại bài Tập đọc
“Chuyện bốn mùa” và ghi lại những từ ngữ chỉ đặc điểm của mùa hè.
Ví dụ 3: Tuần 21 – Bài tập 3 (TV2, tập 2- trang 30)
Viết từ 2,3 câu về một lồi chim mà em thích.
Để học sinh có thể thực hiện tốt bài tập ở tiết này, tôi đã giao nhiệm vụ
cho các em về nhà quan sát kĩ về hình dáng, màu sắc, thói quen, hoạt động của
một loài chim và ghi những điều đã quan sát bằng các câu hỏi gợi ý được sắp
xếp theo trình tự.
+ Em định tả lồi chim gì?
+ Lơng chim màu gì?
+ Chân chim như thế nào?
+ Mỏ chim giống cái gì?
+ Tiếng hót của chim nghe thế nào?
+ Hằng ngày, chim thường làm gì?
+ Em có tình cảm như thế nào với lồi chim đó?
Với cách làm như vậy khi học sinh viết văn sẽ khơng bị bí từ, các em sẽ
học tập được cách dùng từ để diễn đạt ý làm cho đoạn văn hay hơn.
2.3.3. Biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết tốt đoạn văn
2.3.3.1. Phân tích đề bài
Cũng như tất cả các bài tập ở môn học khác, để viết được một đoạn văn
hoàn chỉnh, bước đầu tiên các em phải làm là phân tích đề bài. Giáo viên hướng


8
dẫn các em tìm hiểu, nắm bắt yêu cầu đề ra. Đọc kĩ đề sẽ giúp học sinh hiểu yêu
cầu của đề bài, nắm được dạng bài, xác định đúng đối tượng trọng tâm. Thông
qua việc làm này sẽ giúp học sinh làm bài tốt hơn, chắc chắn hơn. Mặt khác,
thơng qua việc phân tích đề cịn tạo cho các em có thói quen làm việc khoa học,
có trình tự, tạo tiền đề cho học sinh học tốt hơn Tập làm văn ở các lớp trên.

Thông thường đề bài Tập làm văn ở lớp 2 chỉ là một bài tập của tiết học.
Đầu tiên tôi yêu cầu các em đọc kĩ yêu cầu bài tập, xác định các từ trọng tâm
của đề bài, giáo viên gạch chân dưới các từ đó và hướng dẫn học sinh nắm được
nội dung trọng tâm để viết đoạn văn.
Ví dụ 1: Tuần 15 – Bài tập 3 (TV2, tập 1- trang 126)
Viết một đoạn văn ngắn khoảng 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc
anh, chị, em họ) của em.
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề bài bằng hệ thống
câu hỏi sau:
+ Em hãy đọc kĩ yêu cầu bài tập và cho biết đề bài yêu cầu gì?( Viết một đoạn
văn ngắn khoảng 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em họ) của
em.)
+ Hãy kể tên các anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em họ của em? (HS nêu)
+ Em sẽ chọn ai để tả? (HS nêu)
+ Kể về anh, vậy em kể về những điều gì? (Kể đơi nét về hình dáng, tính tình,
những việc anh thường làm …)
+ Kể hình dáng của anh, em kể những gì? (Vóc dáng, tuổi, làn da, mái tóc, …)
+ Kể những việc làm ở nhà của anh, em định kể những gì? (Việc anh thường
làm, sự nhường nhịn của anh đối với em …)
+ Diễn đạt tình cảm đối với anh, em sẽ nói như thế nào? (Em rất thương anh…)
Ví dụ 2: Tuần 21 – Bài tập 3a (TV2, tập 2- trang 30)
Viết từ 2,3 câu về một loài chim mà em thích.
- Tương tự như tiết trước, giáo viên cho HS đọc yêu cầu bài tập, cả lớp
đọc thầm theo. Dùng một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh nắm vững nội dung
trọng tâm của đề bài:
+ Đề bài yêu cầu gì? (Viết từ 2,3 câu về một lồi chim mà em thích).
+ Hãy kể tên các lồi chim mà em biết? (HS kể)
+ Em sẽ chọn loài chim gì để tả? (HS nêu)
+ Tả về lồi chim đó, em sẽ tả những đặc điểm gì? (Tả về hình dáng, hoạt động,
thói quen của lồi chim, tình cảm của em dành cho lồi chim đó…)

2.3.3.2. Quan sát sự vật và ghi những điều đã quan sát
a. Quan sát sự vật trực tiếp


9
Như đã nói, nhận thức của học sinh là nhận thức cảm tính, thiên về trực
quan hình ảnh. Vì vậy để viết được đoạn văn việc các em quan sát trực tiếp sự
vật rất quan trọng. Tơi ln khích lệ học sinh quan sát bằng nhiều giác quan như
thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác và nhìn sự vật bằng cách nhìn
thẩm mĩ. Có như vậy, khi sự vật được đưa vào tả sẽ đẹp, sẽ sinh động hơn.
Trong khi học sinh quan sát, tôi hướng dẫn các em quan sát kĩ đối tượng,
chú ý đến từng chi tiết nhỏ, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của nó.
Ví dụ 1: Tuần 16- Bài tập 2 ( TV2, tập 1 - trang 137)
“Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết”.
Để tránh việc áp đặt cho học sinh, trước tiên tôi cho các em kể về các con
vật nuôi mà em biết. Sau đó tơi hướng dẫn học sinh quan sát một con vật nuôi,
tôi chuẩn bị sẵn một con mèo thật và hệ thống câu hỏi gợi ý:
+ Con mèo màu gì? (Lông mèo màu mun/ đen …)
+ Dùng tay sờ vào bộ lơng, em thấy thế nào? (Mềm, mượt/ rất thích…)
+ Mắt mèo như thế nào? (Mắt trịn, xanh biếc/ trơng như hai hịn bi)
+ Miệng mèo có đặc điểm gì? (Miệng nhỏ, có ria mép...)
+ Bàn chân chú mèo như thế nào? (Bốn chân nhỏ có móng vuốt, bàn chân mềm,
di chuyển nhẹ nhàng…)
+ Lúc ngủ trơng nó thế nào? (Nằm phơi nắng ngồi sân, vùi đầu vào trong, co
mình lại, hai mắt lim dim....)
Để kết quả quan sát được phong phú hơn tôi gợi ý học sinh tả cảnh vật
xung quanh bằng một số câu hỏi gợi ý:
+ Cảnh vật xung quanh như thế nào? (Hàng cau thẳng tắp, đu dưa theo gió/
Những bơng hoa hồng toả hương thơm ngào ngạt như vui đùa cùng ông mặt
trời...)

+ Bầu trời như thế nào? (Nền trời xanh thẳm/ Ông mặt trời tỏa ánh nắng chói
chang/ Chị gió múa reo…)
Ví dụ 2: Tuần 28 “Tả ngắn về cây cối” (Bài tập 2,3 -TV2, tập 2, trang 90).
Qua bài tập này, học sinh sẽ nắm được hình dáng, đặc điểm, mùi vị của
quả măng cụt thông qua nội dung bài đọc. Nhưng nếu chỉ dựa vào bài đọc này
thì học sinh chỉ hiểu trừu tượng, chưa sát thực tế vì nhiều học sinh chưa thấy và
chưa được ăn quả măng cụt. Vì vậy tôi đã mang đến lớp 4 quả măng cụt để cho
các em được quan sát thực tế. Tôi tổ chức như sau:
Tơi chia lớp làm 4 nhóm, phát cho mỗi nhóm một quả măng cụt và phiếu
học tập ghi hệ thống câu hỏi. Sau đó tơi u cầu học sinh quan sát hình dáng bên


10
ngoài và quan sát bên trong rồi nếm thử để cảm nhận được mùi vị của quả măng
cụt, kết hợp với đọc bài “Quả măng cụt” để trả lời các câu hỏi trong phiếu.
+ Quả hình gì? (Quả măng cụt hình trịn)
+ Quả to bằng chừng nào? (Quả to bằng nắm tay)
+ Quả màu gì? (Quả màu tím)
+ Cuống nó như thế nào? (Cuống nó to và ngắn, có bốn năm cái tai tròn úp vào
quả)
+ Ruột quả măng cụt màu gì? (Ruột trắng muốt như hoa bưởi.)
+ Các múi như thế nào? (Các múi to không đều nhau)
+ Mùi vị măng cụt ra sao? (Quả măng cụt ăn ngọt, mùi hương thơm thoang
thoảng )
Với cách làm này học sinh được nhìn thấy ruột và cảm nhận một cách
thực tế về mùi vị của quả măng cụt từ đó các em viết đoạn văn sẽ hay hơn.
Ví dụ 3: Tuần 26 “Tả ngắn về biển” (Bài tập 2 -TV2, tập 2, trang 76).
Về trực quan hình ảnh mà nói, biển là một sự vật trừu tượng, học sinh khó
tưởng tượng đặc biệt là học sinh miền núi. Nếu đưa biển ra để so sánh với sơng,
suối, ao, hồ để hình thành khái niệm về biển cho các em cũng không rõ nét. Mặt

khác, không thể đưa học sinh đi quan sát trực tiếp biển được. Do vậy, ngồi việc
tơi dùng tranh ảnh vẽ cảnh biển để các em quan sát tơi cịn chuẩn bị một video
quay cảnh biển vào buổi sáng để các em được nhìn thấy trực tiếp cảnh biển và
nghe và cảm nhận được tiếng sóng biển vỗ vào bờ. Tôi đã hướng dẫn các em
như sau:
Đầu tiên tôi cho học sinh quan sát tranh vẽ cảnh biển, tiếp theo cho các
em xem đoạn video quay cảnh biển, yêu cầu các quan sát và trả lời các câu hỏi:
+ Tranh vẽ cảnh biển vào lúc nào? (Tranh vẽ cảnh biển vào buổi sáng)
+ Em thấy mặt biển như thế nào? (Mặt biển rộng/ mênh mông/ không thấy bờ
như sơng…)
+ Nước biển màu gì? (Biển khốc chiếc áo màu xanh/ nước biển xanh biếc tung
bọt trắng …)
+ Trên mặt biển, có những gì? (Sóng biển, những cánh buồm đang lướt sóng...)
+ Sóng như thế nào? (Sóng biển xanh nhấp nhơ/ Sóng biển như dềnh lên...…)
+ Em nghe thấy tiếng sóng biển như thế nào? (Sóng biển vỗ rì rầm ...)
Tả cảnh biển khơng chỉ tả những gì về biển mà tơi cịn hướng dẫn học
sinh tả những vạn vật xung quanh như: Mây, ông mặt trời, bãi cát, chim…


11
+ Bầu trời như thế nào? (Mặt trời từ từ nhơ lên, lơ lửng như một quả cam chín
mọng/ Những đám mây màu xanh thẳm/ Những chú hải âu đang chao lượn...)
Ngồi việc quan sát trực tiếp sự vật thì tưởng tượng trong văn miêu tả
cũng đóng vai trị rất quan trọng. Nhờ có tưởng tượng mà sự vật được miêu tả sẽ
sinh động hơn, những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hiện lên luôn sống động. Khi
quan sát tôi đã hướng dẫn các em quan sát phải gắn liền với so sánh, liên tưởng,
phải tìm ra những nét tương đồng, độc đáo của sự vật gắn liền với tình cảm của
người tả.
b. Ghi những điều quan sát
Quan sát sự vật là một việc làm rất quan trọng nhưng để biết chắt lọc, ghi

lại những điều đã quan sát một cách cụ thể là một việc làm khó. Do vậy sau khi
cho học sinh quan sát và trả lời miệng lần lượt theo câu hỏi. Sau đó tơi cho học
sinh ghi vào vở những điều quan sát được theo hệ thống câu hỏi một cách vắn
tắt, ghi những ý quan trọng để phục vụ cho việc viết đoạn văn. Tôi nhắc nhở học
sinh ghi theo hệ thống, logic, không ghi lộn xộn để khi viết đoạn văn các em sẽ
sắp xếp các ý theo trình tự.
Để học sinh viết được đoạn văn giàu cảm xúc, tôi luôn hướng các em phải
có sự lựa chọn, biết chắt lọc và có sự liên tưởng để so sánh với các sự vật khác,
không nên kể liệt kê, kể khơ khan, thấy cái gì viết cái đó mà phải tìm ra cái đặc
biệt của sự vật để kể hoặc tả.
2.3.3.4. Hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ phù hợp
Để viết được đoạn văn hay thì việc lựa chọn từ ngữ sao cho phù hợp để
diễn đạt được đúng ý là điều rất quan trọng. Vì vậy trong q trình dạy tơi đưa ra
một số câu văn tối nghĩa, mắc lỗi cơ bản về ngữ pháp, cách sử dụng từ ngữ, lỗi
chính tả, đưa lối nói vào bài văn. Từ các câu văn đó cả lớp phát hiện lỗi và tìm
cách sửa chữa:
Ví dụ 1: (1) Chị Mái tơ có thân hình cường tráng
+Từ cường tráng dùng để tả thân hình của gà mái hay gà trống?(Gà trống)
+Vậy ta có thể sửa lại như thế nào cho phù hợp?( Chị mái tơ ì ạch/ Chị mái tơ
hiền lành)
(2) Trên sân trường, hoa phượng vĩ nở đỏ chót vót.
+ Từ chót vót dùng để miêu tả màu đỏ của hoa phượng đúng hay sai?(sai)
+ Theo em ta thay bằng từ nào?(đỏ rực, đỏ thắm..)
+ Có thể sửa như sau: Trên sân trường, hoa phượng vĩ nở đỏ chót (đỏ thắm)
(3) Và em thấy chú chích bông rất chi là đẹp. Sửa thành: Em thấy chú chích
bơng rất đẹp.


12
Từ cách làm trên, các em sẽ tự rút kinh nghiệm, học hỏi được nhiều điều

hay, biết cách chọn lọc để diễn đạt ý làm cho câu văn .
Ví dụ 2: Tuần 31 – Bài tập 3 ((TV2, tập 2- trang 114)
Viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu về ảnh Bác Hồ.
Để giúp học sinh biết cách lựa chọn từ ngữ phù hợp khi tả về Bác Hồ tôi
đưa ra một số câu dùng sai từ cho học sinh nhận xét để rút kinh nghiệm, khi viết
sẽ không bị mắc phải.
(1) Vầng trán Bác rất to.
(2) Tóc Bác trắng phau.
(3) Nước da Bác trắng muốt.
+ Để miêu tả vầng trán của Bác Hồ các em có thể thay thế từ to bằng từ nào cho
hợp lí? (cao, rộng)
+ Em có thể lựa chọn từ ngữ nào hay hơn để miêu tả tóc của Bác cho phù hợp?
(bạc phơ)
+ Từ trắng muốt có dùng để chỉ màu da của Bác khơng? Ta có thể thay thế từ
nào cho hợp lí? (hồng hào)
2.3.3.5. Tăng khả năng sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn
Để tránh tình trạng khi viết các em hay liệt kê, kiểu trả lời câu hỏi. Thông
qua một số câu hỏi gợi ý tôi đã hướng dẫn các em nói, viết câu văn có sự so
sánh, liên tưởng với một sự vật khác có đặc điểm, tính chất tương đồng.
Ví dụ 1: Tuần 26– Bài tập 2 (TV2, tập 2- trang 76)
Sau khi cho học sinh trả lời các câu hỏi trong bài, tôi đã đặt thêm câu hỏi:
+ Em thấy mặt trời giống cái gì? (Mặt trời ửng đỏ đang dần nhơ lên trịn xoe
như một quả bóng ).
+ Mặt biển trơng như thế nào? (Mặt biển như một chiếc thảm xanh khổng lồ)
Ví dụ 2: Tuần 21– Bài tập 3 ((TV2, tập 2- trang 30)
+ Sờ vào bộ lơng chim em có cảm giác thế nào? (Mềm mượt như nhung)
+ Chân chim giống như cái gì? ( Đơi chân nhỏ như hai que tăm)
Tơi đặt ra câu hỏi để các em có thể hiểu nếu có sự so sánh thì câu văn sẽ
sinh động hơn, lơi cuốn người đọc hơn. Từ đó giáo viên giúp học sinh nắm rõ
hơn về cách so sánh. Muốn làm cho sự vật đẹp hơn thì ta phải so sánh sự vật đó

với một sự vật khác với những nét độc đáo, nổi bật hơn cái thực, cái được nhìn
thấy cụ thể. Cách so sánh phải ví von và thể hiện được sự liên tưởng độc đáo
riêng của người viết.
Ngồi ra để cho câu văn thêm sinh động tơi hướng dẫn học sinh biết cách gọi tên
sự vật như khi gọi tên người. Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào
sự vật:
Ví dụ: Anh trống choai, chú mèo mun, ông mặt trời, chú chim ...
- Anh trống choai kiêu ngạo.
- Chị gió mải chơi.
- Chú mèo mun tinh nghịch.


13
- Ngọn mía múa reo trước gió.
Tơi đưa ra các cặp câu cùng tả một sự vật, để các em so sánh, lựa chọn.
Cách thứ nhất
Cách thứ hai
Đàn chim hót véo von vào mỗi buổi Những chú chim đua nhau ca hát chào
sáng
đón bình minh
Mùa hè, sân trường đỏ rực màu hoa Mùa hè, sân trường khoác chiếc áo
phượng
hoa đỏ rực
Những chùm cam bóng mượt, nặng Chị cam bóng mượt, khoe những
trĩu
chùm quả nặng trĩu
Khi đưa ra so sánh, đa số các em đều có chung nhận xét cách viết ở câu
văn thứ hai hay hơn. Tôi đã mạnh dạn đưa ra câu hỏi Vì sao nó hay hơn? (vì
hình ảnh của con chim, sân trường, chùm cam có những cử chỉ giống như con
người, ngộ nghĩnh, đáng yêu). Từ đó tơi giải thích và hướng dẫn các em: Ở câu

văn thứ hai đã sử dụng những từ tả người để gọi, tả các sự vật.
2.3.3.6.Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn
Như chúng ta đã biết đối với học sinh lớp 2 các em mới làm quen với
cách viết đoạn văn thông qua hệ thống câu hỏi gợi ý của bài tập, qua “Quan sát
và trả lời câu hỏi” hoặc “Đọc và trả lời câu hỏi”, dựa vào câu trả lời yêu cầu học
sinh viết thành đoạn văn ngắn khoảng 3 đến 5 câu. Vì thế mà đoạn văn của các
em thường mang tính liệt kê, kể lể, thiếu sự gắn kết. Để giúp các em viết được
đoạn văn giàu cảm xúc và có sự gắn kết chặt chẽ giữa các câu tôi đã hướng dẫn
như sau: Sau khi cho học sinh quan sát và trả lời câu hỏi, tôi cho các em nhận
xét và chỉnh sữa về lỗi dùng từ, diễn đạt ý để được câu văn hoàn chỉnh, có hình
ảnh, giàu cảm xúc. Tiếp theo tơi cho học sinh tập nêu miệng các câu trả lời được
sắp xếp theo trình tự. Bước tiếp theo tơi hướng dẫn học sinh gắn kết các câu trả
lời theo câu hỏi gợi ý để viết thành đoạn văn. Để câu văn có sự liên kết với
nhau, tơi hướng dẫn học sinh trước tiên viết câu mở đầu( là câu giới thiệu về sự
vật) sau đó viết các câu phát triển (là các câu kể, tả về hình dáng, đặc điểm của
sự vật), Cuối cùng viết câu kết thúc (là câu nói về tình cảm, suy nghĩ của người
viết đối với sự vật đó).
Ví dụ: Tuần 8 - Bài tập 2(TV2, tập 1- trang 85)
Dựa lời kể ở bài tập 1, hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể
về ông , bà hoặc một người thân của em.
Sau khi học sinh đã hồn thành bài tập1, tơi hướng dẫn học sinh như sau:
+ Để viết câu mở đầu giới thiệu về ơng, bà của mình em sẽ viết thế nào?
(HS nêu) Ơng em năm nay đã ngồi 60 tuổi.
+ Để viết câu phát triển em viết thế nào? (HS nêu) Quanh năm ơng vẫn
gắn bó với ruộng đồng. Ông là người thương em nhất. Đi đâu về ông cũng có
quà cho em.
+ Câu kết thúc nói lên suy nghĩ của em đối với ông(bà) em viết thế nào?
(HS nêu) Em mong ông luôn khỏe mạnh để vui cùng con cháu.
Gọi lần lượt 4,5 học sinh nêu miệng, cho lớp nhận xét, sửa chữa, bổ sung, sau
khi học sinh đã nói được câu hồn chỉnh, tơi cho học sinh cả lớp tự viết vào vở,



14
sau đó gọi một số em đọc bài viết của mình trước lớp để nhận xét, sửa chữa rút
kinh nghiệm.
2.3.3.7. Khuyến khích học sinh viết các đoạn văn khác nhau
Ở lớp 2, yêu cầu của phân môn Tập làm văn chưa cao, các em chỉ cần kể,
tả được sự vật đơn giản, sơ lược, đúng nội dung đề bài đưa ra là đã đạt yêu cầu.
Mặt khác, thời gian làm bài ở lớp ít, các em lại bị tri phối bởi hệ thống câu hỏi
gợi ý để tự trả lời theo kiểu chắp đi rồi hồn chỉnh đoạn văn của mình. Vì vậy
mà đoạn văn của các em thường hay giống nhau, hình ảnh khơng sinh động,
khơng có sự sáng tạo. Để giúp các em viết được một đoạn văn sinh động, giàu
hình ảnh cảm xúc, sáng tạo, mà bài làm của các em khác nhau tôi đã áp dụng
cách làm như sau:
Ví dụ :
Tuần 13– Bài tập 3 (TV2, tập 1- trang 110)
Dựa vào các câu trả lời ở bài tập 2, viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5
câu) kể về gia đình em.
Bài tập này gồm các câu hỏi gợi ý như sau:
+Gia đình em gồm mấy người? Đó là những ai?
+ Nói về từng người trong gia đình em?
+ Em yêu quý những người trong gia đình em như thế nào?
Các em thường viết về gia đình mình như sau:
(1) Nhà em có bốn người. Bố em làm nghề thợ xây. Mẹ em hay ra đồng trồng
lúa, cắt cỏ. Em học lớp 2 và em gái em 4 tuổi. Em rất yêu gia đình của mình.
(2) Gia đình em gồm ba người. Bố mẹ em đều làm nghề nông nghiệp. Năm nay
em 7 tuổi, đang học lớp 2. Mọi người trong gia đình em rất yêu thương nhau.
Học sinh lớp 2 còn nhỏ, các em rất thật thà. Do vậy khi làm văn các em
sẽ khơng chép văn mẫu và cũng khơng nhìn nhau nhưng ta sẽ thấy học sinh lớp
2 kể về gia đình gần giống nhau. Dễ tìm ra nguyên nhân: vì các em cùng làm

một đề bài, cùng một gợi ý nên bài văn tương tự nhau là điều hiển nhiên.
Để bài viết của các em có những cảm xúc chân thực, hay hơn tôi đã
hướng dẫn thêm cho học sinh một số câu hỏi:
+ Ngồi cách trả lời gia đình em có 4 người ta có thể nói cách nào khác?(Nếu
tham gia đội chơi có bốn người thì gia đình em có thể lập được một nhóm)
+ Người ta thường ví ba người trong một nhà như cái gì? (Ai cũng bảo mọi
người trong gia đình em như một cái kiềng ba chân vững chắc)
Khi nói về cơng việc của từng người trong gia đình, giáo viên giúp học
sinh tìm hiểu những từ ngữ nói về đặc điểm, tính chất cơng việc của người đó
như: đảm đang, thức khuya dậy sớm, tần tảo, bận rộn, cần cù...
(1) Hằng ngày mẹ luôn bận rộn với công việc đồng áng nhưng không quên lo
cho chúng em từng bữa ăn, giấc ngủ.
(2) Còn bố chẳng lúc nào được nghỉ tay với đàn lợn con, với vườn cây ăn quả.
Với cách làm trên, tôi đã giúp học sinh viết được đoạn văn có cảm xúc,
giàu hình ảnh, chân thực, sáng tạo mà các đoạn văn khác nhau nhưng vẫn đảm
bảo yêu cầu của đề bài.


15
2.3.4. Tăng khả năng sử dụng vốn từ thông qua các hoạt động học tập, qua
các buổi sinh hoạt ngoại khóa, rèn kĩ năng sống
2.3.4.1. Tăng khả năng sử dụng vốn từ thông qua các hoạt động học tập
Hoạt động dạy học là hoạt động chủ đạo trong nhà trường. Thông qua các
tiết học giáo viên giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh làm tăng khả năng sử
dụng vốn từ một cách hiệu quả nhất.
Ví dụ: Rèn kĩ năng giao tiếp trong mơn Tốn, khi học sinh đánh giá, nhận xét
bài làm của bạn, các em đã được rèn kĩ năng sử dụng vốn từ để giao tiếp đúng
mục đích. Khi học sinh nhận xét bài làm của bạn các em thường nêu:“ Bạn làm
sai rồi” khi đó tôi đã hướng dẫn các em như sau: Nếu bạn làm sai chúng ta sẽ
khơng nói: “ Bạn làm sai rồi” mà ta sẽ nói: “Theo tớ, cách giải thế này”. Với

cách nói nhẹ nhàng , tế nhị thì học sinh đó mới khơng mất bình tĩnh và thiếu tự
tin. Qua cách nói như vậy các em sẽ biết lựa chọn từ ngữ để sử dụng vào viết
văn hay hơn.
Không chỉ ở mơn Tốn mà đối với tất cả các môn học, khi cho học sinh
nhận xét bài làm của bạn tơi đều chú ý uốn nắn từng câu nói của các em, giúp
các em có thêm vốn từ ngữ để phục vụ cho việc viết văn được tốt hơn.
2.3.4.2. Tăng khả năng sử dụng vốn từ thông qua các buổi sinh hoạt ngoại
khóa, rèn kĩ năng sống
Ngồi việc dạy học ở trên lớp nên tổ chức cho học sinh những giờ học
ngoại khóa thật bổ ích như tổ chức các trò chơi đố vui , thi ghép từ nhanh, đặt
câu đúng… để các em tăng thêm vốn từ, rèn kĩ năng viết câu đúng tạo ra sự thi
đua, hứng khởi trong học tập tiếng Việt và phân môn Tập làm văn nói riêng. Tơi
đề xuất với nhà trường phối hợp với Đội và phụ huynh tổ chức cho các em đi
tham quan thực tế học tập để các em mở rộng vốn kiến thức về quê hương, đất
nước, giúp các em hiểu hơn về cuộc sống, được hịa mình với thiên nhiên từ đó
làm giàu thêm vốn từ ngữ cho học sinh. Thơng qua các hoạt động ngồi giờ lên
lớp như các giờ chơi, chào cờ, các cuộc giao lưu học sinh sẽ tích luỹ được vốn
từ cho mình.
Tơi đã tham mưu cho nhà trường hàng tuần, hàng tháng tổ chức các buổi
hoạt động ngoại khoá, rèn kĩ năng sống cho các em. Từ các buổi học này sẽ giúp
các em mạnh dạn hơn, kĩ năng nói tốt hơn, do vậy khi viết văn câu từ sẽ hoàn
chỉnh hơn.
Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa tơi đã tổ chức một số trị chơi học tập
cho các em. Tơi đặc biệt chú ý lựa chọn những trò chơi đơn giản, đảm bảo các
tiêu chuẩn: dễ chơi, có tính giáo dục cao, phù hợp với điều kiện vật chất.
Ví dụ: Trị chơi Ai đúng – Ai nhanh
Tôi đưa cho học sinh các câu lửng:
Bàn tay mẹ
dài thướt tha, duyên dáng
Mùa hè tới

lợi hại, trơng như một vũ khí
Cái đi
gầy gầy, xương xương
Bộ móng vuốt
như những ánh sao đêm
Mũi cao và cái miệng
mặt trời chói chang, gay gắt
Những chiếc thuyền câu lúc ẩn,
chúm chím, dễ thương


16
lúc hiện
Từ các câu chưa đầy đủ ý, học sinh sẽ ghép thành những câu có nghĩa.
Sau thời gian quy định các em sẽ đọc những câu mình ghép được. Từ đó các em
sẽ biết lựa chọn, ghi nhớ cách diễn đạt ý trong câu.
2.3.5. Giáo viên tăng cường công tác tự học và làm đồ dùng phục vụ cho
việc giảng dạy mơn học
Vai trị của người thầy vơ cùng quan trọng. Vì vậy giáo viên cần phải có
kiến thức chuyên sâu, nắm vững phương pháp dạy học, cấu trúc chương trình.
Bản thân giáo viên khi dạy Tiếng Việt cho học sinh, đặc biệt là dạy phân
môn Tập làm văn thì phải có vốn từ phong phú .Vì vậy mà bản thân người giáo
viên phải ln có tinh thần học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu, nắm chắc cấu trúc câu
và nghĩa của từ. Giáo viên cần xác định đúng vị trí, mục tiêu của mỗi bài học.
Mỗi giáo viên ln tích lũy kinh nghiệm qua q trình giảng dạy, dự giờ đồng
nghiệp để học hỏi và rút kinh nghiệm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học.
Người giáo viên phải luôn tăng cường sự linh hoạt sáng tạo trong giảng
dạy, cụ thể trong việc xây dựng bài sao cho phù hợp sát với đối tượng học sinh
của mình. Thiết kế, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập bằng

nhiều hình thức đa dạng, phong phú phù hợp với mỗi bài tập, với trình độ của
học sinh. Tạo điều kiện cho các em tham gia học tập một cách chủ động, sáng
tạo. Giáo viên chuẩn bị và sử dụng tốt các đồ dùng dạy học như tranh ảnh, máy
chiếu vật thật, khơng gian.
Ngồi ra tơi cịn mua thêm sách tham khảo “ Những bài làm văn mẫu và
Từ điển Tiếng Việt” xây dựng góc thư viện ngay trong lớp học,
Bản thân tôi đã quan tâm, chú ý việc đọc các tài liệu, sách báo. Tôi ghi lại
những bài văn, đoạn văn hay vào nhật kí để làm tài liệu phục vụ giảng dạy.
Ví dụ 1: Các chàng Dế choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã
nghiện thuốc phiện. Đã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến nửa lưng, hở
cả hai mạng sườn như người cởi trần mặc áo gi-lê. (Dế Mèn phiêu lưu kí – Tơ
Hồi)
Ví dụ 2: Ảnh Bác Hồ lớp em được treo long trọng phía trên tấm bảng, dưới lá
quốc kì nền đỏ sao vàng. Trong ảnh Bác có mái tóc bạc phơ và bộ râu hơi dài,
trơng như một ông tiên. Da Bác hồng hào, vầng trán Bác cao, lộ rõ vẻ thơng
minh. Càng nhìn ảnh Bác, em càng quyết tâm thực hiện năm điều Bác Hồ dạy
để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. (Văn mẫu lớp 2)
2.3.6. Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh trong công tác giáo dục
Kinh nghiệm nhiều năm dạy học cho thấy sự phối hợp của phụ huynh với
thầy cô giáo vô cùng quan trọng. Nếu phụ huynh kết hợp tốt cùng nhà trường sẽ
giúp nhiều cho việc dạy học. Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh
và phụ huynh để họ thấy rõ tầm quan trọng của mơn học.
Ngay trước khi bước vào ngày học chính thức tôi đã tổ chức họp phụ
huynh. Tôi đề nghị và yêu cầu phụ huynh thống nhất mua đủ đồ dùng, sách vở
để phục vụ năm học, thông báo cho phụ huynh biết cần phải mua những loại đồ
dùng nào.


17
Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc đọc bài ở nhà của con

em mình. Hướng dẫn phụ huynh cách dạy học, hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em
mình ở nhà. Tơi đã tổ chức một buổi họp riêng nhằm hướng dẫn cho phụ huynh
cách chỉnh sửa lỗi sai của con em họ, giúp học sinh viết văn tốt hơn.
Ví dụ: Khuyến khích việc quan sát của các em bằng các câu hỏi đơn giản như:
+ Bầu trời màu gì?
+ Lá cây màu gì?
+ Dáng con gà mái trơng như thế nào?
+ Lơng con chó màu gì và sờ vào em cảm thấy thế nào? ….
Trong giao tiếp hằng ngày, phụ huynh yêu cầu con em mình phải nói đủ
câu, trả lời đủ ý, rõ nghĩa. Nếu học sinh chưa thực hiện được, phụ huynh phải
chỉ ra điểm sai và sửa cho các em.
Mỗi gia đình phải có góc học tập cho các em. Khuyến khích phụ huynh
mua bàn ghế để các em học bài, tránh tình trạng học sinh nằm ra sàn nhà để viết
bài.
Do đặc điểm tâm sinh lí, ở giai đoạn này các em cịn ham chơi. Vì vậy tơi
đề nghị phụ huynh bố trí thời gian học tập cho con em mình bằng cách xây dựng
thời gian biểu khoa học, hợp lí.
Ngồi thời gian ở trường, phần lớn thời gian còn lại các em ở nhà và giao
tiếp với mọi người bằng tiếng Mường. Để giảm thiểu tình trạng đó tơi đã khuyến
khích mỗi gia đình nên giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt. Đồng thời nhắc phụ
huynh luôn ủng hộ con em họ tham gia các hoạt động nhằm nâng cao vốn từ
tiếng Việt. Làm được điều này phụ huynh sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc tăng
cường khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh, hạn chế việc nói sai của học
sinh. Từ đó các em sẽ viết đúng , câu văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
2.3.7. Làm tốt cơng tác khen thưởng, khích lệ học sinh
Như Bác Hồ đã nói: “Thi đua khen thưởng là động lực phát triển và là
động lực để phát triển con người mới. Thi đua yêu nước phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục hằng ngày”. Trong dạy học cũng vậy, nếu sự cố gắng, nỗ
lực của bản thân học sinh được đánh giá đúng, được động viên, khích lệ kịp thời
thì học sinh sẽ có tâm trạng phấn khích hơn, kết quả học tập tốt hơn.[3]

Hàng tuần, hàng tháng tôi phát động, tổ chức các phong trào thi đua để
giúp các em thi đua học tốt. Mỗi khi các em viết được đoạn văn hay tôi đều
tuyên dương các em, khơi dậy cho các em ý thức phấn đấu, hoàn thiện việc viết
văn của mình.
Tơi tổ chức cho các em thi đua từng cá nhân, từng tổ, cả lớp. Sau một thời
gian ngắn tôi thấy nhiều em đã chăm chỉ hơn, viết văn tốt hơn.
Ngồi ra tơi cịn áp dụng phương pháp nêu gương bằng cách đọc những
bài văn của học sinh viết hay cho cả lớp nghe và gọi các em viết văn chưa tốt
nhận xét bài văn của các em viết tốt, từ đó các em nhận ra và có ý thức phấn đấu
hơn. Các em tự hiểu nếu cố gắng thì sẽ sửa được lỗi viết văn và viết văn tốt như
bạn. Qua đó tơi thấy học sinh tiến bộ rất nhanh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


18
Qua một thời gian áp dụng các biện pháp nêu trên kết quả đạt được như
sau:
-Tất cả phụ huynh của lớp đều quan tâm đến việc học tập của các em;
mua đầy đủ sách vở đồ dùng, sách tham khảo, hướng dẫn các em chuẩn bị bài ở
nhà. Nhiều gia đình đã có góc học tập để con em học bài.
-Học sinh có hứng thú học tập, mạnh dạn trong giao tiếp. Khắc phục được
các lỗi khi viết văn của học sinh. Từ chỗ các em chưa biết cách dùng từ diễn đạt
ý, đến nay các em đã viết được những đoạn văn hay, giàu hình ảnh, cảm xúc, thu
hút được người đọc.
Kết quả kiểm tra chất lượng học sinh viết đoạn văn đạt được như sau:
+ Trước khi áp dụng biện pháp
Mức đạt được
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành

Chưa hoàn thành
SL
TL:%
SL
TL:%
SL
TL:%
23
0
0
15
65,2
8
34,8
+ Sau khi áp dụng biện pháp
Sĩ số

Mức đạt được
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL:%
SL
TL:%
8
34,8
0
0

Hoàn thành tốt

SL
TL:%
23
15
65,2
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận
Qua thời gian tìm tịi, nghiên cứu các biện pháp, tôi đã rút ra được một số
kinh nghiệm sau:
- Để giúp học sinh lớp 2 đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số viết được các
đoạn văn hay, giáo viên cần phải xác định rõ tầm quan trọng của việc bổ sung,
mở rộng vốn từ cho học sinh thông qua các môn học. Mặt khác phải biết lựa
chọn linh hoạt từ ngữ, hình ảnh và các biện pháp nghệ thuật phù hợp; quan tâm
nhiều đến việc nhận xét, chữa bài cho học sinh; biết lồng ghép vào các phân
môn khác để mở rộng bổ sung vốn từ cho các em. Người giáo viên phải có tâm
huyết với nghề, yêu học sinh như con đẻ của mình. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ
nội dung bài dạy, tìm tịi thêm nhiều tài liệu hỗ trợ cho bài dạy. Mặt khác, phải
tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức hình thức dạy học phù hợp với
mỗi hoạt động và đối tượng học sinh.
- Khi hướng dẫn, giáo viên cần kiên trì, tỉ mỉ, khơng nơn nóng. Chỉ bảo
tận tình những gì học sinh chưa biết, chưa làm được để các em tiếp thu thoải
mái, đạt hiệu quả cao.
- Học sinh cần có sự chuẩn bị tốt cho bài học theo yêu cầu của giáo viên;
chuẩn bị bài trước khi đến lớp; hiểu được nghĩa của các từ ngữ để từ đó biết lựa
chọn , sử dụng từ ngữ phù hợp khi viết bài; đưa các biện pháp nghệ thuật vào bài
viết; thể hiện được cảm xúc riêng của mình trong bài viết.
- Giáo dục học sinh lòng say mê, biết u cái hay, cái đẹp. Nếu có lịng
say mê kết quả học tập sẽ tốt hơn.



19
- Giáo viên phải thường xuyên động viên, khuyến khích các em tìm những
từ ngữ, hình ảnh hay, giàu cảm xúc.
- Làm tốt công tác phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc giúp đỡ
các em chuẩn bị bài ở nhà.
3.2. Kiến nghị
2.1. Đối với phòng giáo dục:
- Phòng GD&ĐT tổ chức các chuyên đề về phương pháp dạy Tập làm
văn lớp 2, tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo cụm trường để giáo viên có điều
kiện trao đổi, học tập.
2.2. Đối với nhà trường:
- Tăng cường tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh; Tổ chức các
buổi tham quan học tập.
- Tổ khối chuyên môn tăng cường tổ chức xây dựng tiết dạy minh họa về
phân môn Tập làm văn, để giáo viên được trao đổi, rút kinh nghiệm, học hỏi
đồng nghiệp.
Trên đây là một số biện pháp của tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành cơng
trong q trình giảng dạy Tập làm văn ở lớp 2 tại đơn vị Trường Tiểu học Thạch
Lâm1. Trong quá trình hồn thành sáng kiến kinh nghiệm sẽ khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và Hội
đồng khoa học để sáng kiến của tơi hồn thiện tốt hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thạch Lâm, ngày 16 tháng 4 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết


Lê Thị Hòa


20

Tài liệu tham khảo
1. [1] . Luật Giáo dục số 44/2009/QH12
2. [2] ,[3]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng Internet về chuyên đề Tập làm
văn
- Nguồn :http://violet
- Nguồn:
3. Sách giáo viên Tiếng Việt 2 - Tập 1, tập 2- Nguyễn Minh Thuyết chủ biên
Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
4.Tài liệu Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 2
5. Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014. Thông tư 22/2016/TTBGDĐT về Quy định đánh giá học sinh Tiểu học.



×