Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.94 KB, 14 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Ngành nghiên cứu âm thanh cho một ngôn ngữ được gọi là âm vị học. Ngữ âm học là một
ngành khoa học nghiên cứu các đặc điểm âm thanh của tiếng nói con người. Ngữ âm học
nghiên cứu các phổ quát âm thanh. Ví dụ: Nhờ vào bộ máy cấu âm, con người có thể phát ra
các chuỗi âm thanh khác nhau. Ngữ âm học chia các loại âm thanh này thành các phạm trù
ngữ âm khác nhau: nguyên âm, phụ âm, tắc, xát… Cịn âm vị học thì khơng nghiên cứu rộng
như vậy. Âm vị học nghiên cứu xem trong một ngơn ngữ có bao nhiêu đơn vị âm thanh là có
chức năng khu biệt nghĩa. Hoặc, trong ngơn ngữ, những nét ngữ âm nào trở thành những nét
<i>khu biệt và có ý nghĩa. Chính vì vậy, ngữ âm học có số đơn vị là vô hạn, quen gọi là các âm tố</i>
(sounds). Cịn âm vị học, có số đơn vị hữu hạn, đếm được. Đơn vị của âm vị học là âm vị
(phonemes).
Ví dụ:
<b>[p] =</b>
+ PAT
+ Mơi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi
+ Mạnh (cường độ)
<b>[b] =</b>
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Vô thanh
- Mũi
- Mạnh (cường độ)
<b>[m] =</b>
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Vô thanh
+ Mũi
- Mạnh (cường độ)
+ Dài
nét ngữ âm nét ngữ âm nét ngữ âm
PAT: Phụ âm tính (Consonantal)
(+): Present
(-): Absent
Về mặt ngữ âm học, 3 nguyên âm này đều có nội dung ngữ âm là như nhau ở tất cả các
ngôn ngữ trên thế giới. Ví dụ như [m] phân biệt với [p] và [b] ở đặc tính [mũi/khơng mũi]. [p]
phân biệt với [m] và [b] ở đặc tính [+ vơ thanh]: +vơ thanh/ +hữu thanh. Những đối lập kiểu
như vậy thì ở bất cứ ngơn ngữ nào cũng giống nhau. Vì vậy, đó chỉ là các thuộc tính ngữ âm
học thuần tuý. Tuy nhiên, dưới con mắt âm vị học, tài nguyên ngữ âm của các âm vị phải được
lựa chọn dưới con mắt của người bản ngữ (native), được tận dụng và chọn lựa, được khai thác
sao cho có lợi và hợp với hệ thống (cái tạng của ngôn ngữ) của mình nhất. Nói tóm lại, các nét
ngữ âm đã biến thành các nét âm vị học; từ cái chung, cái phổ quát trở thành cái riêng, cái
đặc thù. Cả một tiến trình lịch sử phát triển của một hệ thống ngữ âm, từ lúc xa xưa cho đến
<i>Đọc thêm: Phân biệt ngữ âm học và âm vị học</i>
<b>Trở lại: ví dụ trên đây, đối với âm vị học tiếng Việt, 3 âm mơi đó được xử lí như sau:</b>
+ Âm [p] là âm bị thiếu bởi vì âm vị này không xuất hiện trong các từ thông thường của người
Việt. Nó chỉ có trong các từ vay mượn chủ yếu Ấn-Âu hoặc từ các ngơn ngữ khác. Ví dụ: <i>pin,</i>
<i>patê, pía (tên một loại bánh)… Chính vì vậy, rất nhiều người khơng nói là “đèn </i><b>p</b>in” mà là “đèn
<b>b</b>in”, hay “<b>p</b>a tê” → “<b>b</b>a tê”…
+ Sự đối lập giữa vô thanh và hữu thanh trong tiếng Việt không hồn tồn rõ nét như trong
các ngơn ngữ Ấn-Âu.
+ Các đặc điểm ngữ âm như: [mạnh/yếu], [dài/ngắn]… trong tiếng Việt khơng được bộc lộ rõ
ràng.
Ví dụ như:
Sự đối lập giữa [p] và [b] ở trong tiếng Anh đã tạo nên các biến thể khác nhau, hay các biến
thể của cùng một âm vị. Chẳng hạn như, khi /p/ đứng trước (phụ âm đầu): pie [
→ [p'] (Aspirated);
Nhưng khi đứng ở sau âm tiết (phụ âm cuối) như: type [
Để có được sự biến đổi như vậy của âm /p/, bên cạnh đặc tính vơ thanh của cịn một thuộc
tính thứ hai là đặc tính về cường độ và đặc tính về trường độ của âm /p/. Những đặc tính này,
khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ cấu tạo nên các thuộc tính âm thanh làm nội dung âm vị học của
âm /p/. Chúng ta có:
<b>Nội dung âm vị học của 3 âm môi trong tiếng Anh</b>
<b>[p] =</b>
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Vô thanh
+ Mạnh (cường độ)
+ Ngắn
<b>[b] =</b>
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
- Vô thanh
- Mạnh (cường độ)
± Ngắn
<b>[m]</b>
- Ngắn
Chính vì tổ hợp của 4 thuộc tính [tắc, vơ thanh, mạnh, ngắn] mà âm /p/ có thể trở thành
bật hơi hoặc khơng, theo những điều kiện xuất hiện của nó trong những trường hợp cụ thể của
tiếng Anh. Khi âm này xuất hiện ở đầu từ thì nguồn năng lượng vẫn cịn sung túc nên thuộc
tính [mạnh] và [ngắn] đã kết hợp với nhau tạo nên một âm bật hơi bao gồm một yếu tố tắc
(/p/) và một đoạn bật hơi sau khi đã hoàn thành cấu âm tắc.
Khi âm này xuất hiện ở cuối từ, vì năng lượng đã yếu đi do phải dải khắp từ đầu đến cuối
từ, nên âm /p/ chỉ còn giữ lại được giai đoạn tắc nhằm khu biệt các từ mà thơi.
Chính vì vậy, trong tiếng Anh, ngồi âm /p/, các âm tắc khác cũng có sự biến đổi tương tự như
vậy. Chúng ta có:
tea → [t'i:]
key → [k'i:]
Ta có, trong tiếng Anh, các âm:
a. [+tắc] → [+bật hơi] //đầu âm tiết
b. [+tắc] [-bật hơi] //cuối âm tiết→
<b>/p/</b>
=
+ PAT
+ Môi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi
<b>/t/ =</b>
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ Vô thanh
- Mũi
<b>/k/ =</b>
+ PAT
+ Ngạc
+ Tắc
+ Vơ thanh
- Mũi
• Định nghĩa 1 • Định nghĩa 2 • Định nghĩa 3
Hiện nay có 3 cách định nghĩa âm vị:
Bước 1.
Tìm sự đồng nhất âm vị học: {
1. R<sub>dan</sub> ≡ R<sub>tan</sub> ([
2. Tdan ≡ Ttan ([Ø (1)])
Bước 2.
Tìm sự khác biệt âm vị học: {
[d-] ≠ [t-]
Bước 3.
{
Khẳng định nghĩa của hai vế trong cặp độc lập là khác nhau: S<sub>dan</sub> ≠ S<sub>tan</sub>
Kết luận:
[d] ≠ [t] => Sdan ≠ Stan
/d/ và /t/ là hai âm vị của tiếng Việt.
Dưới âm vị khơng cịn gì khác nữa. Nếu chia nhỏ nữa, ta không thu được gì cả. Chính vì
vậy, sự khác nhau của vỏ từ (cái biểu hiện) là nguyên nhân duy nhất của sự khác biệt về
nghĩa giữa hai từ. Vì khơng thể phân tách tiếp, lại góp vào sự khu biệt nghĩa của từ nên hai
âm /d/ và /t/ trong trường hợp này là hai âm vị của tiếng Việt. Bởi vì, mỗi âm vị không mang
nghĩa tự thân, nên người ta gọi âm vị là đơn vị duy nhất trong ngôn ngữ chỉ có một mặt. Và
được gọi là đơn vị một mặt để phân biệt với các đơn vị khác của ngôn ngữ là đơn vị hai mặt.
Các đơn vị hai mặt là các đơn vị thoả mãn định nghĩa tín hiệu của Saussure. Ví dụ như, từ có
cái biểu hiện là vỏ âm thanh của từ và cái được biểu hiện là nghĩa của từ; hình vị có cái biểu
hiện là vỏ hình vị và cái được biểu hiện là nghĩa của hình vị; câu có cái biểu hiện là chuỗi các
từ được sắp xếp một cách có trật tự, cịn cái biểu hiện là nghĩa thơng báo mà câu đó hàm
chứa. Từ, hình vị, câu,… là những đơn vị ngôn ngữ hai mặt gồm cái biểu hiện và cái được biểu
hiện. Trong khi đó, âm vị khơng có đặc điểm hai mặt này vì mỗi âm vị đều khơng có cái được
biểu hiện.
<i>Xem thêm: Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ</i>
Âm vị là một đơn vị một mặt, không mang nghĩa tự thân, nhưng vì nó khu biệt nghĩa giữa
các từ, nên người ta gọi âm vị là đơn vị ngôn ngữ học hướng tới nghĩa chứ không mang nghĩa.
Hay nói một cách khác, gọi là đơn vị tiền tín hiệu.
Định nghĩa 1 về âm vị là định nghĩa cổ điển trong âm vị học. Định nghĩa này có nguồn gốc
từ trường phái âm vị học Praha của N. Trubetskoy, R.Jakobson.
Trường hợp /d/ và /t/ ở trong ví dụ đầu, theo định nghĩa này được trình bày như sau:
<i>Bước 1</i>. Biểu diễn âm vị học
<b>/d/ =</b>
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ Hữu thanh
<b>/t/ </b>
=
+ PAT
+ Răng-lợi
+ Tắc
+ Vô thanh
<i>Bước 2</i>. So sánh đồng nhất
+ PAT
+
Răng-lợi
+ Tắc
(/d/ & /t/)
<i>Bước 3. So sánh</i>
khác biệt: [+hữu thanh] ≠ [+vô thanh]
khu biệt: [+hữu thanh] = [-vô thanh]
→ [-vô thanh]/d/ ≠ [+vô thanh]/t/
Kết luận: [-vô thanh] & [+vô thanh] → {
Vậy, [-vô thanh] và [+vô thanh] là hai nét khu biệt âm vị học của tiếng Việt
nghĩa này đối với đơn vị là nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước của định nghĩa <i>a</i>. Ở định nghĩa
<i>a, chỉnh thể âm vị có giá trị khu biệt nghĩa, cịn ở định nghĩa này, tất cả các nét trong một âm</i>
vị là khơng có ý nghĩa khu biệt. Chỉ có một nét ở trong cả chùm là đóng vai trị chức năng của
một âm vị mà thôi. Nhưng ngay khi gán nhãn cho chúng là [hữu thanh] và [vơ thanh] thì khả
năng lí thuyết của sự khu biệt vẫn chưa được vắt kiệt triệt để. Ví dụ như, giữa cái cây và hịn
<i>đá tạo nên sự khác nhau và chúng khơng có gì chung ngồi thuộc tính là vật chất của thế giới.</i>
Nhưng giữa hịn đá vơi và hịn đá cuội lại bắt đầu có sự khu biệt vì các thuộc tính bên trong
chúng đa phần là đồng nhất (để tạo nên khái niệm đá). Khi cấu trúc nét (cấu trúc thuộc tính)
trùng nhau gần như tồn bộ, chỉ để riêng một nét khu biệt giữa có và khơng, giữa hiện diện và
khiếm diện thì giữa hai vật đó đã đạt tới sự khu biệt theo kiểu khu biệt được nêu trong định
nghĩa b.
<b>Trở lại: trường hợp sự phân biệt giữa hữu thanh và vơ thanh của /d/ và /t/ trong </b><i>ví dụ b.</i>
Nếu như ở tiếng Ấn Độ, khi tính thanh được chia thành 5 mức khác nhau:
<i>[+bật</i> <i>hơi]</i>
<i>[bình</i> <i>thường</i> <i>+</i> <i>vơ</i> <i>thanh]</i>
<i>[BT</i> <i>+</i> <i>tắc</i> <i>họng]</i>
<i>[BT</i> <i>+</i> <i>Hữu</i> <i>thanh]</i>
<i>[HT Mềm]</i>
thì sự phân biệt giữ [vô thanh] và [hữu thanh] vẫn chưa phải là khu biệt âm vị học theo
<i>định nghĩa b</i> và khơng thể sử dụng dấu + và – (có/khơng) đối với một nét âm vị học. Rất may là trong tiếng Việt thì
[+ Hữu thanh] = [- Vơ thanh], có nghĩa là nét thanh tính của tiếng Việt chỉ có 2 giá trị là: hoặc có, hoặc khơng. Chính vì
vậy, từ "đan" và "tan", trải qua những thủ pháp âm vị học khác nhau, các bước phân tích và tổng hợp khác nhau, rốt cục
chỉ phân biệt ở mỗi một nét theo hai giá trị về thanh tính mà thơi. Đó chính là nét [+ Vơ thanh] và nét [- Vơ thanh]. Ta
có:
<i><b>Định nghĩa b</b></i>
Theo định nghĩa b, mỗi âm vị khơng bao giờ chỉ có một nét âm vị học mà chúng là một tổ
hợp các nét xuất hiện đồng thời. Vì xuất hiện đồng thời nên được gọi là chùm nét khu biệt âm
vị học.
Mỗi một hệ thống âm vị chỉ có một hữu hạn các nét (ví dụ: R. Jakobson (1952) cho là có
12 nét). Trong âm vị học, người ta tận dụng những nét này để thiết lập nên tính hệ thống của
một danh sách âm vị học của một ngôn ngữ. Các nét âm vị học không tồn tại một cách riêng
lẻ mà chúng phải có chức năng để nối kết các âm vị thành một khối để tạo nên các loạt âm vị
học. Khi một hệ thống âm vị học tận dụng được nhiều nét âm vị học (một nét âm vị được lặp
lại nhiều lần) thì hệ thống đó có tính cân đối cao. Chúng ta biết rằng, khi một hệ thống đạt
đến tính cân đối thì tất cả các yếu tố âm vị học đó sẽ nằm ở phần tâm của hệ thống, tạo nên
tính ổn định về cấu trúc và chức năng. Ngược lại, khi một hệ thống âm vị học bị mất cân đối,
do chỗ mỗi nét âm vị học chỉ được sử dụng một lần trong khi cấu tạo hệ thống của mình thì hệ
thống đó có nguy cơ tan rã (các yếu tố tâm chuyển dần sang phần biên). Đấy là khi ngôn ngữ
bị sức ép của các tiếp xúc và văn hoá ngoại lai. Trong thử thách ấy, hoặc là ngôn ngữ sẽ tồn
tại trong một thế ổn định và cân đối cao hơn hoặc là sẽ bị tan biến đi, trở thành một hệ thống
pidgin. Ngơn ngữ đó sẽ khơng cịn bản sắc cũ của mình mà bị lai tạp, trở thành một ngôn ngữ
lai (hybrid language). Việc xuất hiện đều đặn và lặp lại của các nét âm vị học trong một hệ
thống âm vị học chính là một khuynh hướng thể hiện sự "lười biếng" của nhân loại đối với việc
phát âm ngơn ngữ của mình. Đó là một khuynh hướng tiến bộ. Vì nó giúp tiết kiệm được năng
lượng: một hệ thống cái biểu hiện ổn định về mặt vỏ âm thanh, nghèo nàn về âm vị, trong khi
Vì vậy, bên cạnh khuynh hướng lười, tiết kiệm năng lượng, luôn luôn đi kèm với một xu
hướng muốn phá vỡ cái hệ thống quá chặt chẽ và ổn định về mặt ngữ âm. Đồng lực dẫn đến
những sự phá vỡ này khơng ngồi việc ngơn ngữ phải có những tiếp xúc với những nền văn
hố khác nhau. Sự phát triển của một hệ thống âm thanh suy cho cùng chính là những bước
nhảy từ sự ổn định hố đi đến sự biến động, từ tính cân đối của hệ thống đi tới tính mất cân
đối của chính hệ thống đó. Trường pháp Praha gọi đó là khuynh hướng cân bằng động
(dynamic balance) của một hệ thống âm thanh ngơn ngữ.
Vì tính chất quan trọng của các nét khu biệt như vậy, ngôn ngữ học hiện đại gọi các âm vị
là mạng của các nét khu biệt (network of distinc features).
→
Khi một nét khu biệt được lặp lại theo đối lập có/khơng trong hệ thống tồn tại giữa các vế
đối lập nhau, chúng tạo nên thế đối lập âm bị học nối tiếng <b>có/khơng của một hệ thống âm</b>
vị học.
Ví dụ về thế đối lập thanh tính của tiếng Việt:
p
= t = k = f = s = χ = [+vô thanh] đối lập tính thanh
b d - v z
Xem thêm: Bảng phụ âm đầu tiếng Việt
Đó chính là xương sống, của hệ thống âm vị học tiếng Việt tạo nên tính cân đối của hệ
thống âm vị học tiếng Việt.
Tương tự, thế đối lập về tính mũi trong tiếng Việt cũng tạo nên một đối lập có/khơng và tạo nên một đặc điểm cân
đối của hệ thống tiếng Việt, tính từ một phương diện khác:
b
= d = - = - = = [-mũi] đối lập tính mũi
m n
* Kết luận:
Đối với định nghĩa b, hình thức âm vị học đã lùi xuống một bậc. Ưu thế của định nghĩa này
là ở chỗ nó đã phân tích âm vị như người ta đã phân tích nguyên tử thành các hạt nhỏ hơn
trong nghiên cứu vật lí lượng tử hiện đại. Dưới âm vị không phải là khơng có gì hết mà là các
thành tố nhỏ hơn nữa, được gọi là các nét khu biệt. Chính vì vậy, phát biểu của định nghĩa b là
tinh tế hơn so với định nghĩa a và giảm bớt công cụ và thủ pháp trong nghiên cứu âm vị học.
Âm vị khơng cịn là một danh sách bất khả tri nữa mà chúng được sắp xếp một cách có trật tự
do sự kiểm soát của các luật âm vị học đối với các nét khu biệt: Nét nào có thể kết hợp với nét
nào để tạo thành chùm; và nét nào kị với nét nào…
Đây là một định nghĩa mang tính ngơn ngữ học đại cương dựa trên sự phân định một hệ
thống ngôn ngữ thành 3 cấp độ quan trọng là: âm vị học, từ pháp học và cú pháp học. Định
nghĩa này có từ những năm 1970 khi các nhà ngơn ngữ học lí thuyết thống nhất với nhau về 3
loại cấu trúc và quan hệ trong ngơn ngữ. Đó là 2 quan hệ do Saussure đề xuất: <i>quan hệ</i>
<i>ngang và quan hệ dọc</i>. Và quan hệ thứ 3 do Benvenist đưa ra là quan hệ tôn ti và lớp lang.
Quan hệ tôn ti và lớp lang tạo nên quan hệ cấp độ trong ngôn ngữ. Chính nhờ cấp độ mà ngơn
ngữ có thể xác định một cách tường minh các đơn vị quan trọng nhất của mình được gọi là các
đơn vị cơ sở của ngơn ngữ học. Theo đó, ngơn ngữ học gồm 3 loại đơn vị cơ sở sau:
<i>1.</i> <i>Âm</i> <i>vị </i>
2. Hình vị
3. Câu
Tính chất của các đơn vị này được xác định như sau:
- Về mặt hình thức (cấu trúc) các đơn vị ở cấp độ dưới là thành tố để cấu tạo nên các đơn vị ở
trên nó. Ví dụ: Các âm vị cấu tạo nên các hình vị (các hình vị về hình thức bao gồm các âm
vị); các hình vị cấu tạo nên các từ; các từ, ngữ cấu tạo nên các câu.
- Để xác định tư cách đơn vị chức năng của một cấp độ, người ta dựa trên sự đối lập của các
đơn vị lớn hơn nó. Qua sự đối lập đó làm bật lên các chức năng của đơn vị cấp dưới – cái để
làm đơn vị đó tồn tại. Ví dụ: để xác định âm vị, người ta phải căn cứ vào các hình vị. Qua so
sánh và đối lập các hình vị, nhờ vào các thủ pháp đồng nhất và khác biệt, người ta xác định
được tư cách của các âm vị. Tương tự như vậy, để xác định hình vị, người ta phải căn cứ vào
các từ; để xác định từ và ngữ, người ta phải căn cứ vào các phát ngơn.
Nói tóm lại, trong cả một cấu trúc tôn ti như vậy, âm vị là đơn vị ở cấp độ thấp nhất, vì
thế, nên về mặt cấu trúc và chức năng, nó có kích thước bé nhất so với các đơn vị khác của
ngôn ngữ. Cũng chính vì nó ở cấp độ thấp nhất – cấp độ hình thức ngơn ngữ – nên nó khơng
có đầy đủ hai mặt của một tín hiệu. Nó là đơn vị tiền tín hiệu.
Chỉ có L. Hjelmslev (1943) là tận dụng được định nghĩa này trong phát biểu về ngôn ngữ
học đại cương của mình. Theo ơng, ngơn ngữ dựa trên một đối xứng mà đối xứng này được
Những yếu tố cơ sở này, về bản chất, đều là những tín hiệu một mặt. Ở mặt cái biểu hiện,
âm vị là đơn vị thiếu mặt cái được biểu hiện, còn ở mặt cái được biểu hiện thì nghĩa vị lại thiếu
đi cái biểu hiện. Vậy, âm vị là đơn vị một mặt.
Ở trên cấp độ thống nhất là các cấp độ của hình thái học, từ học, cú pháp học.
Ở mỗi cấp độ như vậy, đều có đơn vị riêng của mình. Ví dụ: ở từ pháp học là hình vị
(morphemes), ở từ học là từ vị (lexemes) và ở cú pháp học là cú vị (syntaxemes). Những đơn
vị này khác với những đơn vị cơ sở ở cấp độ thấp nhất ở chỗ chúng đều là những tín hiệu chính
danh bao gồm cả hai mặt cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Chúng ta có lược đồ của
Hjelmslev như sau:
Âm vị là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạo và phân
biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của ngơn ngữ.
Âm vị cịn có thể được coi là một chùm hoặc một tổng thể đặc trưng các nét khu biệt được
thể hiện đồng thời.
Chi tiết...
Âm vị là một đơn vị trừu tượng còn âm tố là một đơn vị cụ thể. Âm vị được thể hiện ra
bằng các âm tố và âm tố là sự thể hiện của âm vị.
Những âm tố cùng thể hiện một âm vị được gọi là các biến thể của âm vị.
Tiếng Việt có 22 phụ âm đầu, bao gồm:
/
<b>Bảng hệ thống âm đầu tiếng Việt</b>
Âm đệm /w/ có chức năng làm trầm hố âm sắc của âm tiết.
<b>Bảng hệ thống nguyên âm tiếng Việt</b>
Ngoài âm cuối /rezo/, tiếng Việt cịn có 8 âm cuối có nội dung tích cực, trong đó có 6 phụ
âm /m, n, ŋ, p, t, k/ và hai bán nguyên âm /-w, -j/.
<b>Bảng hệ thống âm cuối tiếng Việt</b>
Trong q trình lịch sử phát triển của mình, nhóm ngơn ngữ Việt Mường đã có một chuyển
đổi quan trọng mang tính quy luật: ban đầu chúng là những ngôn ngữ/ phương ngữ không
<i>thanh điệu, về sau hệ thống thanh điệu xuất hiện và có diện mạo như ngày nay</i>. Chuyển đổi
mang tính quy luật này thường được các nhà nghiên cứu gọi là quy luật hình thành thanh điệu
<i>Bản chất của q trình này là vấn đề đường nét các thanh điệu có liên quan đến cách kết</i>
<i>thúc âm tiết. Bản chất của quá trình này cũng là sự xuất hiện âm vực của từ và sau đó là độ</i>
<i>cao của thanh điệu nhằm giải quyết mối tương ứng hữu thanh và vô thanh lẫn lộn</i>.
<b>Đầu công nguyên </b>
<b>(không thanh)</b> <b>Thế kỉ thứ VI (ba thanh)</b> <b>(sáu thanh)Thế kỉ XII </b> <b>Ngày nay</b>
pa pa pa ba
sla, hla hla la la
<b>Đầu công nguyên </b>
<b>(không thanh)</b> <b>Thế kỉ thứ VI (ba thanh)</b> <b>(sáu thanh)Thế kỉ XII </b> <b>Ngày nay</b>
pa pa pa ba
la la là là
pas, pah pà pả bả
slas, hlah hlà lả lả
bas, bah bà pã bã
las, lah là lã lã
pax, pa? pá pá bá
slax, ba? hlá lá lá
bax, ba? bá pạ bạ
lax, la? lá lạ lạ
<b>Sơ đồ về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt</b>
• Âm tố. Phụ âm và nguyên âm
• Các tiêu chí miêu tả và phân loại nguyên âm
• Các tiêu chí miêu tả và phân loại phụ âm
<i><b>Âm tố (sound) là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa.</b></i>
Âm tố là đơn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói, có thể tách ra về mặt cấu âm–thính giác,
đồng chất trong một khoảng thời gian nhất định và thường ứng với một âm vị”[1]<sub>.</sub>
“Âm tố là đơn vị nhỏ nhất không thể phân nhỏ hơn ra được nữa của ngữ âm”[2]<sub>.</sub>
Có thể nói, âm tố là đoạn âm thanh nhỏ nhất, có thể tách ra được từ chuỗi lời nói liên tục,
Dựa theo cách thốt ra của luồng âm khơng khí khi phát âm, các âm tố thường được phân
ra làm hai loại chính: nguyên âm (vowel) và phụ âm (consonant).
- Nguyên âm:
Nếu âm thoát ra một cách tự do, có một âm hưởng “êm ái”, “dễ nghe”, mà đặc trưng âm
học của nó có tần số xác định, có đường cong biểu diễn tuần hồn thì được gọi là <i><b>tiếng</b></i>
<i><b>thanh. Về bản chất âm học, nguyên âm là tiếng thanh.</b></i>
Nói một cách khác, nguyên âm là âm chỉ bao gồm tiếng thanh, khơng có tiếng
<i><b>động, được tạo ra bằng luồn khơng khí phát ra tự do, khơng có chướng ngại.</b></i>
- Phụ âm:
Ngược lại với nguyên âm, phụ âm là tiếng động. Những tiếng này khơng “dễ nghe”, có
tần số khơng ổn định, được biểu diễn bằng những đường cong khơng tuần hồn.
- Ngồi hai loại âm tố chủ yếu trên cịn có loại âm tố thứ ba mang tính chất trung gian, đó
là các bán nguyên âm hay bán phụ âm.Những âm tố này vừa mang tính chất nguyên âm
vừa mang tính chất phụ âm.
- Theo vị trí của lưỡi. Có thể chia ngun âm thành ba dịng: trước – giữa – sau.
- Theo độ mở của miệng. Các nguyên âm được phân thành các nguyên âm có độ mở rộng
<i><b>– hẹp.</b></i>
- Theo hình dáng của đơi mơi. Các nguyên âm được chia thành nguyên âm tròn mơi –
Ngồi ra cịn có các tiêu chuẩn về trường độ, tính mũi hố.
Chúng ta có thể nhận diện các nguyên âm qua hình thang nguyên âm.
- Về phương thức cấu âm. Có thể chia các phụ âm thành: âm tắc – âm xát – âm rung –
âm vang – âm ồn.
- Về vị trí cấu âm. Có thể chia các phụ âm thành: âm mơi – âm đầu lưỡi – âm mặt lưỡi –
âm cuối/gốc lưỡi – âm thanh hầu.
Âm thanh lời nói là một hiện tượng tự nhiên bao gồm những dao động của thực thể vật lí
mà âm học hiện đại biểu thị ra bằng cao độ (nội dung của dây thanh), cường độ, trường độ…
Nhưng từ khi xuất hiện văn tự, âm thanh khơng cịn là một dạng thể hồn tồn tự nhiên
nữa. Nó được biểu diễn ra trên kênh viết dưới hình thức văn tự ghi âm ghi âm. Đó chính là một
phép chuyển kênh hay là một sự cải biến về âm thanh tự nhiên sang các kí hiệu được thụ cảm
bằng thị giác (từ thính giác tới thị giác).
"Lời nói gió bay" là nhược điểm lớn nhất của âm thanh bằng lời. Lời nói muốn được lưu giữ lại cần đến sự tác
động nhân tạo vào đối tượng. Vì sự lưu lại lời nói âm thanh cho con người là có ích về nhiều mặt. Vì vậy, từ khi có
ngơn ngữ học, người ta ln ln tìm ra những giải pháp tối ưu hơn cho việc lưu lại âm thanh tự nhiên của con người.
Chúng ta có những dạng sau đây:
<b>Tự nhiên (sóng âm)</b> <b>Lưu giữ (nhân tạo tính)</b>
Âm thanh tự nhiên
<i>Thẩm nhận qua tai: Băng/đĩa từ, đĩa quang…</i>
<i>Thẩm nhận qua thị giác</i>
1a. Chữ viết ghi âm (abc)
1b. Chữ viết ghi âm tiết (văn tự Sumer)
2. Phiên âm 2a. Ngữ âm học (IPA)
2b. Âm vị học:
- Cấu trúc luận
- Tạo sinh luận
- Âm vị học tự chiết đoạn
Dạng ghi lời nói qua văn tự, tuỳ theo tiến bộ của khoa học kĩ thuật mà âm thanh có thể
được chuyển tải, được ghi lại với mức độ chính xác khác nhau. Tuy nhiên, các điều kiện kĩ
thuật của con người không thể phản ánh trung thực và khách quan những điều <i>tế vi nhất của</i>
âm thanh con người.
viết của từng dân tộc. Tuỳ theo nét thô hay nét tinh mà các chữ cái được sắp lại thành chuỗi
nhằm thể hiện được tính liên tục của âm thanh trong tự nhiên:
Ví dụ: /
Trong hình dung của A. de Rhodes (1651), âm này được "tãi" ra thành hai yếu tố tuyến
tính đi cạnh nhau và /t/ và /r/. So sánh: trời, blời, tlời… Có lẽ vào thời ấy, ở phụ âm đầu tiếng
Việt còn tổ hợp phụ âm đầu như bl, tl, tr… Nhưng ở người Việt hiện đại, bất kì trong một thổ
Các âm khác như /f/, /t'/, /χ/ ở trong tiếng Việt được ghi bằng "ph, th, kh" là cũng có lí do
tương tự như vậy. Vào thời kì A. de Rhodes, người Việt cận đại có lẽ lúc đó phát âm các phụ
âm đầu này như là những tắc bật hơi để phân biệt với các âm tắc bình thường:
*/p'/ → (/f/)
*/t'/ → (t'/)
*/k'/ → (/χ/)
Vì vậy, ơng đã sử dụng chữ "h" để ghi các yếu tố bật hơi có trong tiếng Việt. Do vậy mà ở
vị trí đầu này đã có tới 2 chữ cái cho một âm vị.
Văn tự là văn hố, là thói quen ghi chữ của một cộng đồng. Gần 4 thế kỉ tồn tại của hệ chữ
viết Việt Nam đã tạo thành một nét văn hoá trong chữ viết, đến mức một cá nhân dẫu có uy
tín lớn như Hồ Chí Minh rất mong muốn "âm vị hoá" hoá lại hệ chữ viết này ngay từ khi Người
đi tìm đường cứu nước đến khi Người viết di chúc mà ý nguyện đó vẫn chưa thực hiện được.
Đó chính là tính độc lập tương đối của văn tự, là hình ảnh âm thanh quá khứ dội về. Đó là
tiếng vang văn hố và khơng thể ngày một, ngày ngày hai mà có thể cải tiến và sửa chữa
được.
Như vậy, người ta có thể lưu giữ lời nói âm thanh tự nhiên của con người thông qua hệ chữ
viết của mình, nhưng đây là một thứ biểu diễn âm vị học sơ cấp, tính khoa học nhường chỗ
cho tính văn hố và tình phổ cập. Từ khi xuất hiện cấu trúc luận, nhất là từ khi xuất hiện
những tuyên ngôn của trường phái Praha về ngôn ngữ học, người ta lưu ý hơn đến việc lưu giữ
Nhưng từ cấu trúc luận trở đi, việc biểu diễn âm vị học khơng cịn là một hành động tự
phát của con người trong việc đòi lấy một sự bình đẳng giữa kênh nghe và kênh nhìn. Từ cấu
trúc luận trở đi, người ta chia thành hai dạng biểu diễn âm vị học: một dạng mang tính ngữ
âm học; một dạng mang tính âm vị học. Cả hai dạng này đều là những cố gắng tự giác của
con người trước âm thanh của mình. Biểu diễn âm thanh theo lối ngữ âm học là sử dụng một
bảng phiên âm thống nhất trên toàn thế giới cho việc ghi lại một dòng âm thanh thanh mà con
người ta nghe được. Từ 1890, khi Hội Ngữ âm học quốc tế (International Phonetic Association
– IPA) được hình thành, việc đầu tiên trong các việc họ phải làm là thiết lập một bảng chữ cái
chung cho các âm có trên tồn thế giới. Bảng phiên âm này có tên: <i>International Phonetic</i>
<i>Alphabet</i> (IPA). Cứ 5 năm một lần kể từ khi thành lập, những nhà ngữ âm học quốc tế lại
Việc sử dụng bảng IPA để phiên âm được gọi là phép phiên âm hẹp theo trường phái Mĩ, vì
người phiên âm phải phiên âm một cách trung thành và chính xác dịng âm thanh mà mình
tiếp nhận.
Ví dụ: "toan" = bao gồm:
[t]
[a]
[n]