Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cảm nghĩ về chuyến đi thực tế tại Hải Dương và Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.04 KB, 10 trang )

Cảm nghĩ về chuyến đi thực tế
tại Hải Dương và Bắc Ninh
1. Chùa Dâu
Chùa Dâu cịn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân hay Cổ Châu. Chùa còn được
người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên ứng
tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc
dù các dấu tích vật chất khơng cịn, nó đã được xây dựng lại.
Chùa Dâu là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, từ Ấn Độ sang
và từ phương Bắc xuống, chủ yếu bằng đường thủy theo dịng sơng Dâu. Vào
buổi đầu Cơng Ngun, các tăng sỹ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu-đà-la đã tới đây
truyền bá đạo Phật đầu tiên. Cuối thế kỷ VI, nhà sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Trung
Quốc đến chùa này và lập nên một phái thiền ở Việt Nam. Chùa Dâu trở thành
trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt Nam, Ấn
Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo
tăng ni.
Chùa Dâu ngày nay là kiến trúc tu sửa của thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).
Cũng giống như nhiều ngôi chùa cổ Việt Nam, chùa được xây dựng theo kiểu
“nội công ngoại quốc”. bốn dãy nhà liên thơng hình chữ nhất bao quanh ba ngơi
nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu
đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long,
hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi.
Thượng Điện để tượng bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp vũ), hai bên tượng bà
Dâu là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ với khuôn mặt sống động trong tư thế của
một điệu múa cổ xưa, phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là
một khối đá. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ơng, Thánh tăng được đặt ở
phần hậu điện phía sau chùa chính. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá hủy, nên
tượng bà Đậu (Pháp Vũ) được đưa về thờ ở chùa Dâu. Ngồi ra, trong chùa cịn
có rất nhiều pho tượng như: tượng tổ sư Tỳ- ni-đa-lưu- chi, 18 vị La Hán,…

1



Chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu
đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt
ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương
Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ
trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên
tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với
những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ
18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng
được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tịa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ
lớn ngày xưa, được nung thủ cơng tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian
đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m
nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng
đá khắc chữ "Hịa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới
có 4 cửa vịm. Trong tháp, treo một quả chng đồng đúc năm 1793 và một
chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc.
Trước tháp, bên phải có tấm bia vng dựng năm 1738, bên trái có tượng một
con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất cịn sót lại từ
thời nhà Hán.
2. Chùa Bút Tháp
Nằm trên địa phận xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, từ lâu
chùa Bút Tháp, hay còn gọi là Ninh Phúc Tự, đã rất nổi tiếng bởi sự độc đáo về
nghệ thuật kiến trúc, lịch sử lâu đời, cũng như phong cảnh hữu tình thơ mộng.
Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh
Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ
trì ở đây. Ơng cho dựng ngọn tháp đácao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn
tháp này nay khơng cịn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ

2


trì là Hịa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung
Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên
tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền
Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học
trò xuất sắc của Hịa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hồng thái
hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diệu Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy
chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu
Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng
tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo
kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp
hiện nay chính là ngơi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đây là một trong khơng nhiều ngơi chùa cổ, có quy mơ kiến trúc lớn
của Đồng bằng Bắc Bộ cịn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục
hài hịa giữa kiến trúc với mơi trường thiên nhiên. Tồn bộ kiến trúc chính của
chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối
với đạo Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cũng như nhiều
ngơi chùa cổ phía Bắc khác, chùa được xây theo kiểu nội cơng ngoại quốc. Quần
thể kiến trúc chùa Bút Tháp như một ốc đảo dài điểm xuyết cây xanh, nổi bật
trên một cánh đồng sóng lúa mênh mơng với bố cục hài hịa gọn gàng và rất sinh
độnggiữa kiến trúc với mơi trường thiên nhiên. Chùa quay theo hướng Nam,
một hướng truyền thống của người Việt, đối với đạo Phật hướng Nam là hướng
của trí tuệ, của bát nhã.Chùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường - Thiên hương Thượng điện tạo thành chữ "cơng". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên
trong với các pho tượng. Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí cân xứng, chặt
chẽ ở khu vực trung tâm, những người xây dựng chùa đã xử lý rất tốt về tỷ lệ, độ
giãn cách, độ cao của tầng nền và nhịp điệu cao thấp của các cơng trình. Ngồi
cùng là tam quan, tiếp đó là gác chuông hai tầng tám mái nằm giữa hai dãy hành

lang (mỗi dãy dài 26 gian) là 7 tòa nhà nối tiếp nhau: Nhà Tiền Đường, nhà
3


Thiên Hương, nhà Thượng điện, nhà Tích Thiện Am, nhà Trung, phủ thờ, hậu
đường (tổng chiều dài hơn 100m), trong đó có tháp đá Tơn Đức năm tầng, cao
10m là nơi đặt xá lị Thiền sư Minh Hành, vị tổ thứ hai của chùa. Bên
trái chùa có nhà thờ tổ Chuyết Chuyết và ngôi thápđá tám mặt, năm tầng cao
13m là nơi táng xá lị của Thiền sư Chuyết Chuyết. Ngồi ra, cịn có tháp Ly
Chân, tháp Tâm Hoa, thấp hơn, song tất cả cũng được dựng bằng đá, được trạm
trổ tinh xảo và điều đặc biệt là các ngọn tháp ở đây đều được ghép đá lại với
nhau chứ khơng dùng chất kết dính (vơi, vữa, xi măng).
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá
rất phổ biến. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và đá, ở kiến
trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt, phía ngồi Thượng điện có lan can bằng đá xanh
bao quanh có 26 bức chạm khắc đá, chạm khắc các hình động vật, điểm xuyết
thêm mây, trời, hoa, lá... , trên lan can cầu đá nối với Tịa Thích Thiện Am có 12
bức và ở lan can quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức. Như vậy tổng cộng
các bức trạm khắc đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng
đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên
đại. Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo
và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều tập trung
về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.
Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngơi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý.
Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu
đội vương miện nhưng khốc áo tu hành, và cơng chúa Ngọc Dun. Cả hai pho
tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.
- Tượng Phật Quan âm nghìn mắt nghìn tay
Pho tượng nổi tiếng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp chứa
đựng nhiều "ẩn ngữ", triết lý sâu xa. Nó cho ta biết nhiều nét về quan điểm thẩm

mỹ, nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Việt thời Hậu Lê, nửa sau thế kỷ
17. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh, do
Trương Thọ Nam tạc và hoàn thành vào năm 1656, thời Hậu Lê. Trên bệ tượng
4


ghi: Nam Đông Giao, Thọ Nam - Trương tiên sinh - phụng khắc (tạm hiểu: Nam
Đông Giao là địa chỉ, Thọ Nam là tên hiệu, Trương là họ, tiên sinh là bậc trí giả,
phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để thờ). Theo quan niệm của một
số nhà nghiên cứu, chữ "phụng khắc" được dịch là khắc theo ý chỉ của nhà vua
(nhưng nếu phụng mệnh vua mà khắc thì tượng phải để ở kinh đơ, trong khi đó
pho tượng này lại được thờ ở một ngơi chùa).
Tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay hết sức điêu luyện, do Trương
Thọ Nam tạc và hoàn thành vào năm 1656, thời Hậu Lê. Tượng cao 3,7 m,
ngang 2,1m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm, tượng có 11
đầu, 42 tay lớn và 958 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao
235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là
một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật
làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngơn ngữ tạo hình hàm súc. Tượng được
đặt trên toà sen Rồng đội với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như
bao quát cả không gian vũ trụ, đằng sau là vầng hào quang toả sáng, bên dưới là
các hình trang trí sóng nước sống động như một thuỷ cung. Trên bệ tượng có
khắc dịng chữ Hán: Nam Đơng Giao, ThọNam - Trương tiên sinh - phụng khắc
(tạm hiểu: Nam Đông Giao là địa chỉ, Thọ Nam là tên hiệu, Trương là họ, tiên
sinh là bậc trí giả, phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng tượng để thờ).
Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay
đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ
sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng
vào tâm (ngay sau gáy Phật). Ðiều kỳ lạ là mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt
mi dài, đen láy, độc đáo hơn nữa là nhịp điệu mỗi cánh tay khơng giống nhau.

Nhìn tổng thể tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay như những vịng hào quang
toả ra từ tâm điểm.Tháp Báo Nghiêm
- Tháp Báo Nghiêm
Tháp Bảo nghiêm cũng là một trong những kiến trúc tiêu biểu của chùa.
Năm 1876, khi vua Tự Đức đi qua đây thấy có cây tháp khổng lồ nên đã gọi là
5


Bút Tháp. Đó chính là Tháp Bảo Nghiêm thờ Hồ thượng Chuyết Chuyết, trông
tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao
13,05 m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng
hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả
chng nhỏ. Lịng tháp có một khoang trịn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật
xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng
cột và lan can. Riêng ở tầng dưới cùng của toà tháp này có mười ba bức chạm đá
lấy đề tài chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu
khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.Đền Đô
3. Đền Lý Bát Đế
Đền Đô (hay còn gọi là đền Lý Bát Đế hoặc Cổ Pháp điện) thuộc xóm
Thượng, làng (xã) Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng), thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh. Đền Lý Bát Đế được khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng Ba năm
Canh Ngọ 1030 bởi Lý Thái Tông khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau
này, đền được nhiều lần trung tu và mở rộng. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm
thứ hai niên hiệu Hồng Định của vua Lê Kính Tơng (tức năm 1602), khắc văn
bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.
Đền Lý Bát Đế rộng 31.250 m², với trên 20 hạng mục cơng trình, chia
thành 2 khu vực: nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu,
đắp vẽ chạm khắc tinh xảo.
Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội cơng ngoại quốc". Cổng vào
nội thành gọi là Ngũ Long Mơn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm con

rồng. Trung tâm của Khu nội thành và cũng là trung tâm đền là chính điện.
Chính điện gồm trước tiên là Phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70
m². Tiếp đến nhà Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái
Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại "Chiếu dời đô" của vua Lý
Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía
bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng "Nam quốc sơn hà Nam đế cư...".
Sau cùng là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị và
6


tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba
gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Thần Tông và Lý Cao Tông; ba
gian bên trái lần lượt thờ Lý Nhân Tông, Lý Anh Tông, và Lý Huệ Tơng.
Khu ngoại thất đền Lý Bát Đế gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là
nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với
ao Cả trên và ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc hồ
rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đền Lý Bát
Đế từng được Ngân hàng Đơng Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên
giấy bạc "năm đồng vàng" và là hình in trên đồng tiền xu 1000 hiện nay. Nhà
văn chỉ ba gian chồng diêm rộng 100 m² nằm bên trái khu nội thành thờTô Hiến
Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có cơng lớn giúp nhà Lý. Nhà võ
chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng
Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc, những quan võ đã có cơng lớn giúp nhà
Lý. Ngồi ra, ở khu vực ngoại thành cịn có nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và
đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hồng, cịn gọi là đền Rồng), v.v...
Lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch nhằm
kỷ niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1009), ban
"Chiếu dời đô". Đây là ngày hội lớn thu hút nhiều khách hành hương thể hiện
lịng thành kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vua Lý. Đó cũng là lễ
hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình

Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân.
4. Khu di tích Cơn Sơn - Kiếp Bạc
Khu di tích Cơn Sơn - Kiếp thuộc địa bàn thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương..
Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộcNguyễn
Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần
Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của khu di tích này là chùa
Cơn Sơn và đền Kiếp Bạc

7


Chùa Cơn Sơn xưa là một cơng trình kiến trúc hồn thiện, có 385 pho
tượng. Tương truyền ở ban thờ đầu hồi phía Đơng nhà Tổ có 2 pho tượng nhỏ
ngồi xếp bằng, một đàn ông, một đàn bà hướng về bàn thờ Phật. Tăng ni tu ở
chùa Côn sơn khơng biết hai pho tượng đó là ai và có tự bao giờ. Trong thời
gian kháng chiến chống Pháp, sợ giặc đến chùa tàn phá, các tăng ni Phật tử dã
đem đồ thờ và các pho tượng nhỏ cất giấu ở trong núi. Vào một đêm mưa gió
sấm sét to, sư ơng trụ trì chùa ngủ khơng n, đợi sáng hôm sau trời tạnh vào
thăm lại bức tượng. Sư ông vào xem và thấy hai pho tượng trên đắp bằng đất bị
mưa làm vỡ, lộ hai dải yểm tâm mới biết đó là tượng Nguyễn Trãi và Nguyễn
Thị Lộ.
Phía sau chùa Côn Sơn là khu mộ tháp. Đăng Minh bảo tháp được dựng
bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và tượng Thiền sư Huyền Quang.
Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới chân Đăng
Minh bảo tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng Giếng Ngọc chính là mắt của
con Kỳ Lân. Giếng Ngọc cũng có thời gian bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, ban
Quản lý di tích Cơn Sơn - Kiếp Bạc đã cho khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân để
phục vụ cho du khách về tham quan Côn Sơn lại được tận hưởng nước giếng
thiêng.

Tại Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi Côn Sơn, nơi đây ngày xưa có một am nhỏ
hình chữ Cơng (I), tám mái chảy, có lan can xung quanh. Am này có tên là Am
Bạch Vân.
Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng
Bạc). Nơi đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo.
Vào thế kỷ 13, đây là nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người
anh hùng dân tộc, người chỉ huy quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Nguyên Mông.
Khu vực đền Kiếp Bạc là một thung lũng trù phú ba phía có dãy núi Rồng
bao bọc, một phía là Lục Đầu Giang. Núi tạo thành thế rồng chầu, hổ phục, sơng
tạo thành minh đường rộng rãi. Phía trước đền có cổng lớn có ba cửa ra vào
8


nguy nga, đồ sộ. Trên trán cổng mặt ngồi có bốn chữ "Hưng thiên vơ cực",
dưới có 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ".
Qua cổng lớn, bên trái có một giếng gọi là Giếng Ngọc mắt rồng. Theo
con đường đá đi đến khu vực để kiệu trong mùa lễ hội, phía trước có một án thờ.

9


10



×