Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Luat quoc te va chu quyen tren hai quan dao HoangSa Truong Sa Ky 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.52 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ </b>


<b>3: Sử liệu Trung Quốc nói gì?</b>



<b>Trước hết Trung Quốc (TQ) yêu sách chủ quyền trên các quần đảo trên cơ sở quyền phát hiện và sự quản </b>
<b>lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. </b>
<b>Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của TQ. 3. </b>
<b>Sự quy thuộc các đảo này vào TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã thực hiện các </b>
<b>hành động cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng ta sẽ xem xét lập luận của TQ trong hai tiểu giai </b>
<b>đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.</b>


“Từ thời Hán Vũ đế trước công lịch hai thế kỷ, nhân dân TQ đã bắt đầu đi lại trên biển Nam. Trải qua thực tiễn
hàng hải lâu dài nhân dân TQ đã lần lượt phát hiện các quần đảo Tây Sa (Paracels) và Nam Sa (Spratlys)” -
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ ngày 30.1.1980: “Chủ quyền không thể tranh cãi của TQ trên các đảo Tây Sa
và Nam Sa” đã khẳng định như vậy. Để chứng minh danh nghĩa lịch sử của họ, phía TQ đã dựa trên những cuốn sách
chính như sau:


- Nam châu dị vật chí của Dương Phù và Phù Nam truyện của Khang Thái, đều viết vào thời


Tam Quốc (220-265); Vũ kinh tổng yếu của Tăng Công Lượng (998-1078) và Đinh Độ


(990-1053) thời Tống biên soạn; Mong Liang Lu được soạn dưới thời nhà Tống (960 - 1127);


Đảo di chí lược do Vương Đại Uyên soạn dưới thời nhà Nguyên (1206 - 1368); Đông Tây


dương khảo của Trương Nhiếp viết dưới thời nhà Minh (1368 - 1644); “Trịnh Hịa hàng hải


đồ” trong Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi biên soạn đầu thế kỷ XVII; Độc sử phương dư kỷ


yếu của Cố Tổ Vũ đầu nhà Thanh; Hải Quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh năm


1730; Dương phòng tập yếu của Nghiêm Như Dục viết, Trương Bằng Phi khắc năm 1828;


Quỳnh Châu phủ chí giữa thế kỷ XIX; Quảng Đông đồ thuyết (1862-1875); Canh lộ bạ do


ngư dân các đời kể lại.



Theo bản đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến


cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo



Hải Nam là hết” - trong ảnh: Đại Thanh nhất thống tồn đồ



(đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ



(VN), đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan) - Ảnh:


biengioilanhtho.gov.vn



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ví dụ, Hải Quốc văn kiến lục, đúng như tên sách, phần lớn nói về các miền mà người TQ gọi là “man di” nhiều
hơn là TQ.


Sách Tống sử phần Ngoại quốc chép chuyện Chiêm Thành: “Năm Thiên Hy thứ hai (1016) vua Chiêm Thành là
Thi Mặc Bài Ma Diệp sai sứ là La Bi Đế Gia chở đồ cống sang... La Bi Đế Gia nói rằng người nước tôi trên đường
sang Quảng Châu, nếu bị thuyền dạt ra Thạch Đường thì cả năm cũng khơng tới nơi được”. Cứ theo đó mà suy
thì từ Chiêm Thành đến Quảng Châu có vùng được gọi là Thạch Đường nhưng khơng có nghĩa Thạch Đường
thuộc Quảng Châu và vì sách này chép về các vùng nước người TQ coi là “man di” thì nó khơng thể được coi là
thuộc TQ.


Sách Dư địa chí, quyển 4 phần Cương vực chép: “Phía ngoại vi của Quỳnh Châu là biển lớn tiếp với các châu Ô,
châu Lý, Tơ Cách Lương, phía Nam đến Chiêm Thành, phía Tây đến Chân Lạp, Giao Chỉ, phía Đơng đến Thiên
Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường... Người địa phương đi thuyền đều khơng biết rõ đâu là vị trí thực của chúng”.
Trong tất cả các sách kể trên, liệt kê một đống lẫn lộn các tên Cửu Nhũ Loa Châu, Thạch Đường, Thiên Lý Vạn
Đường, Trường Sa, Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Trường Sa nhưng khơng có tên Tây Sa và Nam Sa. Bản thân
người TQ cũng không định rõ được vị trí của chúng. Điều đó, khơng nghi ngờ gì đã dẫn tới những cuộc tranh cãi bất
tận giữa các nhà dịch thuật và các học giả về việc thống nhất các tên gọi trên. Mặc dù Hung dan Chiu và Choon Ho
Park cho rằng Vạn Lý Thạch Sành chỉ Spratlys, M.S Samuels lại bảo vệ tên đó dùng để chỉ đá ngầm mà ngày nay có
tên gọi là Trung Sa (Macclesfield Bank).


Phù Nam truyện chép: “Trong Trướng Hải có các bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hơ mọc trên đó”.


Nam Châu di vật chí ghi lại: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nơng có nhiều từ thạch, thuyền lớn nằm ngoài biên cương,
đóng đai sắt, đi lại dựa trên la bàn”.



Xuất phát từ những ghi chép đó, người TQ cho rằng Trướng Hải là biển Nam Trung Hoa bao gồm tất cả các đảo của
biển Nam Hải. Tuy nhiên, chúng ta có thể có một vài nhận xét:


- Các đoạn văn trích trên khơng cho thấy rõ vị trí chính xác của Trướng Hải. Chúng cũng không xác định rõ các
thạch sành nói trên chính là Tây Sa và Nam Sa. Các sách trên, đúng như tên gọi, đều là miêu tả các lãnh thổ “man di”,
nước ngoài, khơng phải lãnh thổ TQ.


- Nam Châu dị vật chí được soạn thời Tam Quốc (220-265) lại nói tới việc sử dụng la bàn trong hàng hải, thế nhưng
dụng cụ hàng hải này dường như chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ thứ X.


- Cụm từ “nằm ngoài biên cương” cho thấy các đảo đá này không thuộc lãnh thổ TQ. Giả định này còn được khẳng
định bởi các tài liệu chính thức khác của TQ mô tả và phân định lãnh thổ của “Thiên triều” kết thúc ở điểm cực Nam
của đảo Hải Nam như: Quỳnh Châu phủ chí (1731), Hồng Triều di tơng tâm lĩnh (1894), Đại Thanh di đồ (1905)...
hay các sách, bản đồ cổ khác của người TQ đều xác định rõ điểm mút phía Nam của lãnh thổ TQ nằm ở Nhai Châu,
thuộc phủ Quỳnh Châu tỉnh Quảng Đông tại vĩ độ 18o<sub>13’ Bắc. Điều đó cịn được khẳng định bởi sách </sub>


Địa lý Giáo khoa thư, Thương Vụ ấn Thư Quán, Thượng Hải (TQ) năm 1906 xuất bản: “Phía Nam bắt đầu


là vĩ độ 18o<sub>13’ Bắc lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) làm điểm mút”. Chúng ta không thấy </sub>


trong các tác phẩm này một ghi chép nào về các quần đảo nằm ngoài điểm cực Nam đó.


</div>

<!--links-->

×