Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Chính sách khuyến học của triều nguyễn (1802 1883)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.86 KB, 62 trang )

ỌC
N N
ỌC SƯ P
M
K OA LỊC SỬ

K ÓA LUẬN TỐT N

ỆP

ỌC

Chính sách khuyến học của triều Nguyễn (1802-1883)

Sinh viên thực hiện : Phan Thị Thảo
Người hướng dẫn : Lê Thị Thu

à Nẵng, tháng 5/ 2013

iền


1

M CL C
MỞ ẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................2
3. ối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................................3
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu .............................................................................................3
3.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................3


4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................4
4.1. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................4
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................4
5.1. Nguồn tƣ liệu ...........................................................................................................4
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................4
6. óng góp của đề tài ...................................................................................................5
7. Bố cục của đề tài ........................................................................................................5
NỘ DUN .....................................................................................................................6
Chƣơng 1. TỔN

QUAN VỀ TR ỀU N UYỄN V C ÍN

ỌC CỦA CÁC N

NƯỚC P ON

SÁC

K UYẾN

K ẾN TRƯỚC TR ỀU N UYỄN ...........6

1.1. Tình hình Việt Nam dưới triều Nguyễn ...............................................................6
1.1.1. Chính trị ................................................................................................................6
1.1.2. Kinh tế, xã hội .......................................................................................................7
1.1.3. Văn hóa, giáo dục .................................................................................................9
1.2. Chính sách khuyến học của các triều đại phong kiến trước triều Nguyễn .....11
1.2.1. Thời Lý, Trần, Hồ ...............................................................................................11
1.2.2. Thời Lê sơ ...........................................................................................................13

1.2.3. Thời Lê trung hƣng và Tây Sơn ........................................................................15


2

Chƣơng 2. C ÍN

SÁC

K UYẾN

ỌC DƯỚ TR ỀU N UYỄN ..................18

2.1. Xây dựng và mở rộng hệ thống trường lớp .......................................................18
2.1.1. Xây dựng hệ thống trƣờng lớp ở Kinh đô .........................................................18
2.1.2. Mở rộng hệ thống trƣờng lớp tới địa phƣơng ...................................................20


2.2. Thi hành chính sách tuyển dụng, đào tạo và phát triển đội ngũ học quan .....26
2.2.1. Đối với trƣờng lớp ở kinh đô ..............................................................................26
2.2.2. Đối với địa phƣơng .............................................................................................30
2.2.3. Đối với vùng biên ải ............................................................................................32
2.3. Quy chế thưởng phạt công minh đối với các học quan .....................................33
2.3.1. Tổ chức sát hạch các học quan..........................................................................33
2.3.2. Khen thƣởng và trừng phạt ................................................................................34
2.4. Khuyến khích việc học đối với học sinh .............................................................36
2.4.1. Về vật chất ...........................................................................................................36
2.4.1.1. Khen thưởng bằng vật chất ..............................................................................36
2.4.1.2. Đặt học điền .....................................................................................................37
2.4.1.3. Miễn thuế má, lao dịch .....................................................................................37

2.4.1.4. Phạt đối với những học sinh không thực hiện đúng quy chế, lười biếng .........38
2.4.2. Về tinh thần ........................................................................................................39
2.4.2.1. Xây dựng và tu bổ Văn miếu.............................................................................39
2.4.2.2. Đón rước long trọng đối với người đỗ đạt cao ................................................39
2.4.2.3. Tôn vinh chỗ ngồi ở chốn đình trung ...............................................................41
2.4.2.4. Cất nhắc người có học làm quan......................................................................42
2.5. Một số nhận xét, đánh giá và bài học kinh nghiệm ...........................................44
2.5.1. Nhận xét ..............................................................................................................44
2.5.2. Bài học kinh nghiệm ..........................................................................................48
KẾT LUẬN ..................................................................................................................50
T

L ỆU T AM K ẢO...........................................................................................51

P

L C .....................................................................................................................53


DAN

M C BẢN

Bảng 1. Thống kê một số phủ, huyện nhà Nguyễn thành lập trường học .....................21
Bảng 2. Các ngôi trường tư dưới triều Nguyễn (1802 – 1883) ....................................25
Bảng 3. Một số nhân vật tiêu biểu từng giữ chức vụ quản lí trường Quốc Tử Giám ...26
Bảng 4. Thống kê các năm nhà nước tổ chức sát hạch học quan .................................34


1


MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Suốt mấy trăm năm, nền giáo dục Việt Nam dưới sự chỉ đạo tố chức của nhà
nước phong kiến qua các triều đại đã thu được nhiều kết quả. Bên cạnh những mặt sai
sót, yếu kém cần được vạch ra, phê phán, đồng thời cũng có những mặt tích cực cần
được thừa nhận để khẳng định sự đóng góp của người xưa. Thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng: Ý thức về chức năng giáo dục của nhà nước phong kiến Việt Nam là một
sự thật và là điều đáng trân trọng, ý thức ấy đã xuất hiện cùng với nền văn hóa Thăng
Long, từ triều đại Lý - Trần. Đây là điều có ý nghĩa lớn lao vì khơng đâu trên thế giới
này, kể cả các nước phương Tây, ý thức về chức năng giáo dục của nhà nước lại hình
thành sớm như thế, nhà nước biết quan tâm đến giáo dục và có những biện pháp tổ
chức thi cử, khuyến học, đặt ra các cơ quan phụ trách, mặc dù chưa đến cơ sở xã thôn
nhưng như thế đã là một sự tiến bộ lớn so với nhiều nhà nước Đông, Tây. Truyền
thống giáo dục đó được kế tục, tiếp nối qua bao triều đại phong kiến. Dưới triều
Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta, là thời kỳ chuyển tiếp giữa thời kỳ
trung đại và cận đại với nhiều biến động, nền giáo dục dần dần sa sút, yếu kém và sau
đó là sự thay thế nền giáo dục phong kiến bằng nền giáo dục thuộc Pháp. Tuy nhiên, ở
góc độ thời đại, lúc bấy giờ các vua đầu triều Nguyễn đã có sự chú trọng và quan tâm
đến giáo dục, đề ra nhiều biện pháp khuyến khích học hành và thi cử nhằm chấn hưng
nền giáo dục đang trong tình trạng lạc hậu và suy yếu.
Mặt khác, ngày nay xã hội cũng đặc biệt quan tâm, chú trọng đến chính sách
khuyến học, nhiều hội khuyến học được đặt ra ở cấp cơ sở từ tỉnh, huyện đến xã, thơn,
thậm chí trong mỗi dịng họ cũng có hội khuyến học riêng của dịng họ mình. Bằng
nhiều biện pháp khác nhau như khuyến khích động viên tinh thần, trao tặng học bổng,
danh hiệu cho những người học giỏi, hiếu học, các hội khuyến học đã hoạt động có
hiệu quả và khuyến khích được việc học hành của con em ở địa phương.
Nhìn lại nền giáo dục Việt Nam trong quá khứ, nghiên cứu về lịch sử giáo dục
nước nhà, về những chính sách khuyến khích việc học hành, thi cử cũng là một cách
để chúng ta học tập, phát huy đồng thời rút kinh nghiệm từ thực tế lịch sử để tìm ra lời

giải cho bài tốn giáo dục ngày nay.


2

Xuất phát từ những lí do trên, tơi chọn đề tài: Chính sách khuyến học của triều
Nguyễn (1802-1883) làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Viết về vấn đề giáo dục Việt Nam đã có một số cơng trình nhiên cứu đề cập
đến, đáng chú ý là một số cơng trình như:
Với tác phẩm Lịch sử giáo dục Việt Nam, tác giả Bùi Minh Hiền đã khái quát
về giáo dục Việt Nam qua từng thời kì, trong đó bàn về nội dung giáo dục, những tích
cực và hạn chế, cơ chế thi cử trong các triều đại phong kiến những kế thừa và phát
huy.
Tác giả Vũ Ngọc Khánh với tác phẩm Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước
1945 cũng đã đề cập đến giáo dục thời phong kiến với những đánh giá về nội dung và
chính sách giáo dục của triều đại phong kiến Việt Nam.
Hay với tác phẩm Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, tác
giả Lê Văn Giảng đã trình bày sơ lược về nền giáo dục Việt Nam dưới thời phong kiến
về các khía cạnh như sự phát triển của nền giáo dục qua các triều đại, nội dung giáo
dục, hình thức và cơ chế tổ chức học hành, thi cử trong hơn 1000 năm qua.
Như vậy, ta thấy đã có một số tác phẩm nghiên cứu về giáo dục Việt Nam, tuy
nhiên, nó chỉ mới chỉ dừng lại ở việc trình bày khái quát về lịch sử nền giáo dục Việt
Nam thông qua nội dung giáo dục, cơ chế thi cử, những tích cực và hạn chế trong tồn
bộ tiến trình phát triển của giáo dục từ khởi thủy đến nay mà chưa đi sâu vào nghiên
cứu cụ thể về chính sách giáo dục của triều đại nào.
Bên cạnh một số tác phẩm nghiên cứu chung về nền giáo dục Việt Nam như
trên, cũng có một số cơng trình đã đề cập đến chính sách giáo dục triều Nguyễn như:
Tác phẩm Sự phát triển của giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong
kiến của Nguyễn Tiến Cường đã nói đến quan niệm, nội dung giáo dục, chế độ thi cử

qua từng thời kì, trong đó đề cập về các chính sách giáo dục dưới triều Nguyễn như
mở thêm trường học, giám sát chặt chẽ việc thi cử…
Hay đi sâu vào nghiên cứu cụ thể về chính sách khuyến học dưới thời Nguyễn
có tác giả Nguyễn Thị Oanh – Viện nghiên cứu Hán Nơm cũng đã có bài viết “Chính
sách khuyến học thời Nguyễn” bước đầu thể hiện sự quan tâm của các vua triều
Nguyễn đối với việc khuyến học như đặt các chức quan để trông coi việc học hành của


3

các sĩ tử, kiểm tra chặt chẽ việc học hành ở từng địa phương, mở thêm trường lớp để
tạo điều kiện cho nhiều đối tượng được đi học, đồng thời có đề cập đến một số biện
pháp khuyến khích việc học cho Nho sĩ như miễn thuế cho sĩ tử, đón rước long trọng
với những sĩ tử đỗ đạt cao hay tổ chức vinh danh tại Văn Miếu. Tuy nhiên, trong phạm
vi một bài báo nhở với dung lượng 7 trang nên tác giả chưa phân tích sâu sắc nó chỉ ở
mức độ khái quát, còn nhiều vấn đề cần tìm hiểu, làm rõ.
Bài viết “Các hình thức khuyến học thời Nguyễn ở Thanh Hóa” của tiến sĩ
Hồng Thanh Hải được tuyển chọn đăng trong tác phẩm “Lịch sử nhà Nguyễn một
cách tiếp cận mới” cũng cung cấp một số thơng tin về việc thực hiện chính sách
khuyến học dưới triều Nguyễn ở Thanh Hóa như mở rộng hệ thống trường lớp đến
từng phủ, huyện, thành lập hội tư văn nhằm đề cao người hiền tài, đỗ đạt, động viên
con em học tập, khảo thí lực học của con em trong làng. Tuy nhiên, bài viết chỉ tập
trung nghiên cứu ở phạm vi tỉnh Thanh Hóa mà chưa đề cập đến việc thực hiện chính
sách khuyến học dưới triều Nguyễn trên phạm vi tồn quốc.
Ngồi ra cịn có tác phẩm Đại Nam thực lục - bộ chính sử của triều Nguyễn có
đề cập đến một số sự kiện liên quan đến việc khuyến học và chính sách khuyến học
thời Nguyễn dưới dạng biên niên, mang tính chất liệt kê.
Như vậy, có thể nói, mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu về giáo dục và
chính sách giáo dục Việt Nam dưới thời phong kiến, tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu
còn rộng nên các tác giả chưa tập trung đi sâu vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể của

giáo dục như chính sách khuyến học. Vì vậy, cho đến nay, cũng chưa có cơng trình
nào nghiên cứu về chính sách khuyến học dưới triều Nguyễn một cách đầy đủ, sâu sắc.
3. ối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu chính là các chính sách khuyến học dưới
triều Nguyễn, bên cạnh đó, đề tài cịn tìm hiểu về chính sách khuyến học từ các thời
đại trước triều Nguyễn như Lý, Trần, Hồ, Lê sơ… từ đó tập trung nhằm làm nổi bật
đối tượng chính.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Với đề tài này tôi nghiên cứu về các chính sách khuyến học của
triều Nguyễn đối với các địa phương trên toàn quốc.


4

Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách khuyến học dưới 4 triều
vua: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức (từ 1802 – 1883).
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Chính sách khuyến học có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền giáo
dục nói riêng và đối với sự phát triển của đất nước dưới triều Nguyễn nói chung. Vì
vậy, mục đích chính của đề tài là tìm hiểu một cách chun sâu về các chính sách
khuyến học dưới triều Nguyễn. Đồng thời qua đó rút được bài học kinh nghiệm đối với
sự nghiệp giáo dục của nước ta hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, chúng tơi hướng vào thực hiện các nhiệm vụ
sau:
+ Tìm hiểu về các chính sách khuyến học các thời đại trước triều Nguyễn
+ Phân tích các chính sách khuyến học của các vua đầu triều Nguyễn
+ Đưa ra những nhận xét, đánh giá về chính sách khuyến học của triều Nguyễn,

qua đó rút ra các bài học kinh nghiệm đối với việc thực hiện chính sách khuyến học
nước ta hiện nay.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng nguồn tư liệu thành văn là chủ yếu
như: các sách chuyên nghành về lịch sử giáo dục, một số bài viết trong các tạp chí
Nghiên cứu lịch sử.
Ngoài các nguồn tài liệu trên, nguồn tư liệu tơi sửu dựng vào nghiên cứu đề tài
cịn được khai thác từ các bài viết trên một số website như: www.Thuvienhuecity,
www.lichsuvietnam.info.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Khi nghiên cứu đề tài này, tôi đứng trên quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước để xem xét đánh giá vấn đề.
Về phương pháp nghiên cứu: Với đề tài này tôi kết hợp giữa hai phương pháp
nghiên cứu chuyên nghành Lịch Sử là phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp


5

logic. Bên cạnh đó tơi cịn sử dụng một số phương pháp như: Sưu tầm, tập hợp tư liệu,
phân tích, so sánh…
6. óng góp của đề tài
Nghiên cứu thành cơng đề tài “Chính sách khuyến học của triều Nguyễn” có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn:
Thứ nhất, đề tài góp phần làm sáng tỏ và cung cấp một hệ thống tư liệu hồn
chỉnh về chính sách khuyến học, góp phần nghiên cứu một cách toàn diện về giáo dục
Việt Nam dưới thời Nguyễn nói riêng và lịch sử triều Nguyễn nói chung.
Thứ hai, đề tài giúp rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng
và phát triển sự nghiệp giáo dục nước ta hiện nay.
Thứ ba, đề tài này thành công sẽ cung cấp và bổ sung thêm vào nguồn tư liệu

tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và học tập của học sinh, sinh viên và
những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm hai
chương:
Chương 1: Tổng quan về triều Nguyễn và chính sách khuyến học của các nhà
nước phong kiến trước triều Nguyễn.
Chương 2: Chính sách khuyến học dưới triều Nguyễn.


6

NỘ DUN
Chƣơng 1
TỔN

QUAN VỀ TR ỀU N UYỄN V C ÍN
CÁC N

NƯỚC P ON

SÁC

K UYẾN

ỌC CỦA

K ẾN TRƯỚC TR ỀU N UYỄN

1.1. Tình hình Việt Nam dưới triều Nguyễn

1.1.1. Chính trị
Thành lập vào đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn thừa hưởng được thành quả to lớn
của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một
lãnh thổ kéo dài từ Nam Quan đến mũi Cà Mau. Triều Nguyễn ra đời và tồn tại không
những trong một bối cảnh đặc biệt của đất nước mà cịn trong tình thế có nhiều chuyển
biến lớn. Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ
nghĩa thực dân và sự giao lưu buôn bán quốc tế. Hàng loạt các nước châu Á lần lượt
rơi vào ách đô hộ của thực dân và Việt Nam cũng không tránh khỏi mối đe dọa đó.
Cơng việc đầu tiên mà triều Nguyễn phải tập trung giải quyết ngay sau khi đánh
thắng nhà Tây Sơn là thiết lập một hệ thống cai trị từ Trung ương đến địa phương trên
một lãnh thổ rộng lớn, tương đương với lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Vua Gia Long
quyết định xây dựng một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, trong đó vua là người
đứng đầu triều đình và tồn quyền quyết định mọi việc hệ trọng của đất nước. Dưới
vua có sáu bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng), đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư. Dưới
bộ có các ti chuyên trách. Đến thời Minh Mạng, tổ chức bộ máy nhà nước được hoàn
thiện chặt chẽ hơn. Ngồi Đơ sát viện, Nội các, Cơ mật viện…, vua Minh Mạng lần
lượt bãi bỏ Bắc thành và Gia Định thành cũng các chức Tổng trấn (thời Gia Long),
chia lại cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ (Thừa Thiên). Các tỉnh đều do Tổng đốc hay
Tuần phủ đứng đầu, nhưng đều thuộc chính quyền Trung ương. Dưới tỉnh là phủ,
huyện, châu, tổng và xã, thôn. Ở vùng miền núi, về cơ bản vẫn duy trì mơ hình tổ chức
quản lí thời vua Lê Thánh Tơng (1490), đứng đầu các miền Thượng vẫn là các tù
trường, già làng hay quan do nhà nước cử.
Để bảo vệ uy quyền tuyệt đối của Hồng đế, triều Nguyễn khơng đặt chức Tể
tướng, khơng lấy đỗ Trạng ngun, khơng lập Hồng hậu và khơng phong tước Vương
cho người ngồi họ. Triều Nguyễn cũng rất coi trọng pháp luật. Năm 1815, bộ Hoàng


7

Việt luật lệ (hay còn gọi là Luật Gia Long) gồm 398 điều, chia làm 7 chương, được

chính thức ban hành.
Cũng như các triều đại phong kiến khác, việc xây dựng quân đội luôn là mối
quan tâm và ưu tiên lớn của các nhà nước. Triều Nguyễn chủ trương xây dựng quân
đội thường trực mạnh với khoảng trên 20 vạn quân, chia làm 4 binh chủng: Bộ binh,
thủy binh, pháo binh và tượng binh.
Trong ngoại giao, triều Nguyễn chủ trương thuần phục nhà Thanh, trong khi đó,
lại sử dụng lực lượng quân sự bắt Cao Miên và Lào thuần phục. Đối với các nước
phương Tây, ngay từ đầu triều Nguyễn đã thấy được âm mưu xâm lược của chúng, vì
vậy triều Nguyễn rất đề phòng và cảnh giác. Trong giai đoạn đầu, do sự giúp đỡ của
Pháp mà triều Nguyễn được thành lập nên vua Gia Long thi hành chính sách tương đối
cởi mở với Pháp và đạo Thiên Chúa, nhưng đến thời Minh Mạng, triều Nguyễn khước
từ dần mối quan hệ với các nước phương Tây, bắt đầu thi hành chính sách đàn áp
Thiên Chúa giáo và “đóng cửa” ngăn cản ảnh hưởng của người phương Tây trên đất
Việt Nam.
Triều Nguyễn thành lập trong hoàn cảnh như vậy đã đặt ra yêu cầu củng cố, xây
dựng và phát triển đất nước. Để đưa đất nước phát triển đi lên trong bối cảnh họa xâm
lăng đang đến gần, vấn đề hoạch định các chính sách nội trị trở thành mối quan tâm
hàng đầu của triều Nguyễn.
1.1.2. Kinh tế, xã hội
Vào nửa đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn ra sức phục hồi nền kinh tế trên cơ sở coi
trọng ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Năm 1803, ngay khi mới lên ngơi, Gia Long
đã ra lệnh đo đạc lại tồn bộ ruộng đất, lập địa bạ cho từng xã, thôn ở Bắc Hà. Đến
năm 1839, dưới thời Minh Mạng việc lập địa bạ các thơn, xã trên phạm vi tồn quốc
được hồn thành. Năm 1804, Gia Long ban hành chính sách quân điền. Mặc dù triều
Nguyễn đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn khơng thốt khỏi lối mịn của các triều đại
phong kiến trong chính sách bảo vệ cơng điền, khi ruộng đất cơng chỉ cịn 20% tổng
diện tích ruộng đất cả nước. Chính sách quân điền của triều Nguyễn, do đó, chỉ mang
ý nghĩa tượng trưng; về thực chất, chỉ là một hình thức cấp ruộng đất cho quan lại và
binh lính.



8

Trong các biện pháp trọng nơng, chính sách khai hoang dưới hình thức doanh
điền là có hiệu quả hơn cả. Ngay cả những người lưu tán và khơng có ruộng đất cày
cấy đều được tập hợp lại dưới sự chỉ đạo của một quan chức Nhà nước, được Nhà
nước cấp vốn để tiến hành khai hoang, lập làng trên những vùng đất mới bồi lấp ở ven
biển. Đối với vùng miền núi, thời Gia Long, Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khắc Tuân
được giao phó thực hiện một số chủ trương như: Tổ chức các khu dinh điền và đồn
điền, di dân các tỉnh miền xuôi lên khai hoang; hướng dẫn đồng bào thiểu số sử dụng
trâu bò để cày bừa; khuyến khích trao đổi hàng hóa giữa người kinh và người miền
núi.
Tuy số ruộng đất khai khẩn thêm là khá lớn, nhưng vẫn không thể bù đắp được
số ruộng đất để hoang hóa. Chính sách doanh điền, khai hoang của triều Nguyễn
không thể giải quyết được những mâu thuẫn đang đặt ra cho nông nghiệp Việt Nam.
Đối với thủ công nghiệp, cùng với sự phát triển của các nghề thủ cơng truyền thống
trong dân gian, triều Nguyễn có khuynh hướng tăng cường xây dựng các quan xưởng,
chủ yếu tập trung ở Huế. Trong chính quyền hình thành những cơ quan chức năng
chuyên trách về từng loại sản phẩm. Quản lí chung các ngành, nghề thủ công của nhà
nước là ti Vũ khố chế tạo, gồm 57 cục trông coi từng ngành cụ thể như đúc súng, làm
đồ trang sức, làm gạch ngói, khắc in… Làm việc trong những quan xưởng đều là
những người thợ giỏi, được trưng tập từ các địa phương nên sản phẩm làm ra đều có kĩ
thuật cao.
Một trong những hoạt động kinh tế có ý nghĩa trong giai đoạn này là khai
khoáng. Phần lớn số mỏ được giao cho các thương nhân, các tù trưởng miền núi lĩnh
trưng, hằng năm nộp thuế cho nhà nước. Đối với một số mỏ quan trọng, triều Nguyễn
trực tiếp tổ chức khai thác. Các mỏ lớn thường nằm ở vùng miền núi, vì vậy triều
Nguyễn đặc biệt quan tâm đến cơng tác khai thác và tận thu khống sản ở những vùng
này.
Sang thế kỉ XIX, thương nghiệp có chiều hướng suy thối. Triều Nguyễn thi

hành chính sách thuế khóa phức tạp và chế độ kiểm soát ngặt nghèo đối với các hoạt
động buôn bán. Về ngoại thương, triều Nguyễn thi hành chính sách độc quyền và hết
sức dè dặt với các tàu buôn phương Tây.


9

Cũng như các triều đại trước, dưới triều Nguyễn, xã hội Việt Nam cũng chia
thành hai giai cấp lớn: thống trị và bị trị. Giai cấp thống trị bao gồm vua, quan, thơ lại
trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ. Vua và Hoàng tộc giờ đây đã trở thành
một lực lượng đơng đảo, có đặc quyền. Họ có dinh thự, ruộng vườn rộng rãi và được
một hệ thống cơ quan, đứng đầu là phủ Tôn nhân, chăm lo, bảo vệ. Các quan chức
xuất thân từ nhiều tầng lớp, xã hội khác nhau nhưng do vị thế của mình trở thành
người đối lập với quần chúng nhân dân, hạch sách, bóc lột nhân dân. Ở họ, hệ tư tưởng
Nho giáo được củng cố, họ vừa có thế trong quan trường, vừa có uy quyền trong làng
xã. Xu thế phát triển của chế độ sở hữu ruộng đất Việt Nam khơng tạo ra những địa
chủ lớn có ruộng đất tập trung ở bắc cũng như nam. Do đó, giai cấp địa chủ vừa là cơ
sở xã hội của nhà nước, vừa luôn luôn phải dựa vào lực lượng hào lí ở xã và quyền lực
chính trị của Nhà nước để tồn tại. Giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân, thợ thủ
công, thương nhân, một số dân nghèo thành thị. Lớp người bị lưu đày, nơ tì cùng gia
quyến sống ở các đồn điền cũng tăng lên đáng kể.
1.1.3. Văn hóa, giáo dục
Cũng như các triều đại phong kiến khác, triều Nguyễn rất đề cao và chú trọng
việc phát triển văn hóa, giáo dục, đặc biệt là giữ gìn những lề thói truyền thống vốn có
từ lâu đời. Nhờ sự quan tâm của nhà nước, giáo dục, văn học nghệ thuật đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Đồng thời, triều Nguyễn khơng ngừng đề ra các chính
sách xã hội, tạo điều kiện cho dân chúng ổn định, chăm lo phát triển kinh tế, củng cố
lòng tin đối với nhân dân.
Gia Long, vị vua khai sáng triều Nguyễn, đã nhận thức được tầm quan trọng
của việc lựa chọn nhân tài, ông quan niệm: “Nhà nước cầu nhân tài, tất đo đường khoa

mục” ông từng ra chiếu dụ: “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trị, thực
khơng thiếu được. Phải nên giáo dục thành tài, rồi sau thi Hương, thi Hội lần lược cử
hành, thì người tài sẽ nói nhau giúp việc" [16; tr.78] và để tuyển chọn quan lại, vào
đầu năm 1807, ông ban hành quy chế thi Hương và thi Hội. Theo quy định này, tháng
10 - 1807, triều Nguyễn bắt đầu mở khoa thi Hương từ Nghệ An ra Bắc. Đến năm
1822, Minh Mạng cho khơi phục các kì thi Hội và thi Đình. Cũng bắt đầu từ thời Minh
Mạng, việc tổ chức học tập và thi cử được chấn chỉnh và đi vào nề nếp. Thành tựu lớn
nhất trong giáo dục của triều Nguyễn đó chính là việc xây dựng trường Quốc học


10

(1803) ở Huế, sau đổi thành Quốc tử giám. Năm 1808, Văn Miếu cũng chính thức
được xây dựng để thờ Khổng Tử và 72 vị tiên hiền Nho học. Từ năm 1822, Văn Miếu
- Quốc tử giám Huế bắt đầu thực hiện chế độ dựng bia đề danh tiến sĩ.
Trong thời trị vì của các vị vua đầu triều Nguyễn đã đưa ra rất nhiều chính sách
nhằm khuyến khích việc học hành và phát triển giáo dục thông qua nhiều hình thức
khác nhau như củng cố, mở rộng hệ thống trường lớp, phát triển đội ngũ học quan và
ban thưởng xứng đáng cho sĩ tử chăm chỉ cũng như trách phạt nghiêm khắc đối với
những học trị lười biếng… Chính vì vậy, dưới thời kì này, giáo dục đã có nhiều tiến
bộ và phát triển hơn so với các thời kì trước.
Bên cạnh đó, để củng cố bệ đỡ tư tưởng cho chính quyền chuyên chế, triều
Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, phục hồi Nho giáo vốn đã bị suy đồi
trong những thế kỉ trước. Đồng thời, triều Nguyễn tìm mọi cách hạn chế Phật giáo và
các tín ngưỡng dân gian khác, nhưng Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian vẫn tiếp tục
phát triển, nhất là ở nông thôn. Tục thờ cũng tổ tiên và tôn thờ các anh hùng dân tộc,
những người có cơng với làng, với nước trở nên phổ biến trong xã hội. Đình, đền, chùa
được tơn tạo hoặc xây mới ở khắp nơi. Đối với Thiên Chúa giáo, bắt đầu từ thời Minh
Mạng, triều Nguyễn thi hành những biện pháp cấm đoán gắt gao, thậm chí cịn thẳng
tay đàn áp.

Trong lĩnh vực văn học, khoa học, nghệ thuật cũng đạt được nhiều thành tựu
rực rỡ. Về văn học, trong thế kỉ XIX, dòng văn học chữ Hán tiếp tục phát triển với
nhiều nhà thơ, nhà văn tiểu biểu như: Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Minh Mạng, Tự Đức, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương… Văn học dân gian tiếp tục
được duy trì. Thành tựu khoa học chủ yếu trong thời kì này là sự ra đời của các bộ sử,
địa lí và bách khoa thư lớn như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam
thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú, Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hoài Đức… Kĩ thuật vẽ bản đồ đạt
được những thành tựu mới, đặc biệt là Đại Nam nhất thống toàn đồ được vẽ cuối đời
Minh Mạng thể hiện tương đối chính xác hình ảnh nước Đại Nam thống nhất, bao gồm
cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngoài Biển Đơng. Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc
với nhiều cơng trình thành quách và lăng tẩm được xây dựng, trong đó tiêu biểu là


11

kiến trúc kinh đơ Huế, Hồng thành, Ngọ Mơn, lăng các vua… Những thành tựu đó
góp phần đưa nền văn hóa nước ta tiếp tục phát triển.
Những thành tựu văn hóa, văn học, nghệ thuật,... có vai trị quan trọng góp phần
làm cho đất nước phát triển vững mạnh. Vì vậy, trên cơ sở tình hình kinh tế, chính trị
như trên đặt ra yêu cầu cho nhà nước phong kiến là khơng chỉ hoạch định các chính
sách về kinh tế chính trị mà cịn phải có những biện pháp thiết thực để củng cố và phát
triển nền văn hóa nước nhà.
1.2. Chính sách khuyến học của các triều đại phong kiến trước triều Nguyễn
Giáo dục là một trong những nhiệm vụ chiến lược cho bất kì quốc gia nào trên
thế giới. Ở nước ta sau 1000 năm Bắc thuộc, việc học hành thi cử tuy đã có nhưng
chưa hồn thành một hệ thống hoàn chỉnh nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Có thể
nói, trước khi vua Gia Long hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước với một quốc
gia có cương vực rộng lớn, với bộ máy trung ương tập quyền vững mạnh, thì các triều
đại trước đó: Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Lê trung hung… đã hình thành cơ bản hệ thống giáo

dục và có nhiều chính sách quan tâm khuyến khích việc học hành bằng nhiều hình
thức khác nhau như xây dựng trường học, cử người trơng nom việc học và đồng thời
có nhiều chế đỗ đãi ngộ đối với người đỗ đạt cao… Ở dưới một góc độ nhất định,
chính sách này đã đem lại hiệu quả và khuyến khích được việc học hành thời bấy giờ,
đồng thời nó là cơ sở để sau này các vị vua đầu triều Nguyễn thi hành các chính sách
khuyến học.
1.2.1. Thời Lý, Trần, Hồ
Xuất phát từ nhu cầu xây dựng quốc gia phong kiến Đại Việt, nhà Lý đã ý thức
được vai trò của giáo dục và việc tuyển chọn nhân tài nên đã rất quan tâm đến giáo dục
và có chính sách khuyến khích việc học. Dưới thời kì này, việc học được triều đình
đứng ra tổ chức và đặt dưới quyền giám đốc của bộ Lễ. Việc làm đầu tiên của triều Lý
nhằm thúc đẩy việc học hành là xây dựng trường học và ban hành chiếu Khuyến học.
Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) dựng Văn Miếu đầu tiên ở kinh đô
Thăng Long làm nơi dành riêng để dạy học cho Hoàng Thái tử. Đến năm 1076, dưới
thời Lý Nhân Tông, nhà vua mở trường Quốc Tử Giám, đồng thời kén chọn các quan
văn học bổ vào lo việc giảng dạy. Bên cạnh đó, để khuyến khích việc học tập, triều
đình cịn cho mở các khoa thi nhằm tạo điều kiện cho các sĩ tử có cơ hội dự thi và đỗ


12

đạt: Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên, sau đó nhà Lý mở thêm một
số kì thi: năm 1077 mở thêm kì thi viết, thi tính, thi Hình luật, người nào đỗ đạt mới bổ
làm quan. Ngồi ra cịn có kì thi Điện được tổ chức vào tháng 10 năm Nhâm Thân
1152, theo như Đại Việt sử kí tồn thư ghi lại là Đại Điện Thí – Thi Đình. Đến năm
1195, mở thêm khoa thi tam giáo: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Tuy nhiên, chế độ
thi cử thời Lý chưa được xây dựng quy củ, nề nếp về cả nội dung, hình thức và thời
gian mở khoa thi, chỉ khi nào có nhu cầu nhà nước mới mở khoa thi.
Như vậy, qua một chuỗi các sự kiện như năm 1070 cho dựng Văn Miếu, tiếp đó
đến năm 1075, mở khoa thi đầu tiên và đến năm 1076, cho xây dựng trường Quốc Tử

Giám cho ta thấy nhà Lý đã quan tâm đến giáo dục và khuyến khích việc học tập mà
trước hết là cho con em hồng tộc. Tuy nhiên, nhìn chung các chính sách khuyến học
cịn ít về hình thức và quy mơ, bó hẹp trong phạm vi triều đình, chưa quan tâm đến
việc học trong dân gian, vì vậy giáo dục triều Lý còn nhiều hạn chế.
Kế tục sự nghiệp của nhà Lý, nhà Trần cũng đã nhận thức được yêu cầu bức
thiết của việc xây dựng phát triển nền giáo dục nước nhà, vì vậy đã đề ra các chính
sách khuyến học tương tự như thời nhà Lý. Năm 1236, mở rộng Quốc học ở kinh đô
gọi là Hạ viện. Năm 1291, lập thêm nhà Quốc học ở phủ Thiên Trường. Đây là nhà
“quốc lập” đầu tiên trong lịch sử được tổ chức ở địa phương. Tại nhà Quốc học, mở
rộng đối tượng học tập, ngoài con em quý tộc, quan lại, còn cho con em thường dân
nhưng phải là loại tuấn tú đến học. Năm 1253, Nhà nước sửa sang Quốc học viện,
xuống chiếu mời Nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng Tứ thư lục kinh. Năm
1272, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thơng hiểu kinh sách làm tư nghiệp
Quốc Tử Giám.
Ngoài Quốc tử viện là trường học cấp cao ở Kinh đơ, thời Trần cịn có nhiều
nhà học dân lập ở địa phương như: trường phủ Thiên Trường, trường Lạn Kha thư
viện (ở chùa Phật Tích), trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc và trường của
Chu Văn An.
Đến năm 1397, triều đình chính thức sai đặt nhà học và chức học quan (được
nhà nước trợ cấp phần ruộng công thu hoa lợi) ở các lộ phủ địa phương như Sơn Nam,
Kinh Bắc, Hải Đông với chức năng “giáo hóa dân chúng, giữ gìn phong tục, dạy bảo
học trò thành tài nghệ, chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình” [2; tr.33].


13

Đồng thời cùng với việc mở rộng đối tượng học tập, mở rộng trường lớp việc tổ
chức các kì thi cử cũng đều đặn hơn, quy củ hơn: Năm 1232, mở kì thi Thái học sinh
đầu tiên, các kì thi Thái học sinh được tổ chức với niên hạn 7 năm một kì. Cả thời Trần
có tất cả 14 khoa thi. Khoa thi cuối cùng vào năm Bính Tý (1369). Dưới thời Trần, từ

năm 1427, bên cạnh Kinh trạng nguyên (Trạng ngun của vùng Kinh đơ) cịn có Trại
trạng ngun (Trạng nguyên của vùng trại từ Thanh Hóa trở vào). Điều này chứng tỏ
nhà Trần đã mở rộng quy chế tuyển sinh chọn nhân tài cho đất nước, khuyến khích
việc học ở vùng xa kinh thành. Đồng thời, các vị tân khoa được nhà vua trọng đãi: ban
mũ áo, dự yến tiệc, được dẫn đi thăm kinh thành Thăng Long trong 3 ngày.
Như vậy, qua đây ta thấy dưới thời Trần đã có sự quan tâm đến việc phát triển
giáo dục, khuyến khích việc học tập hơn so với thời Lý, việc học khơng chỉ dành cho
con em hồng tộc, mà đã mở rộng ra trong dân gian, trường lớp cũng được mở mới
nhiều, có nhiều chính sách ưu đãi cho người đỗ đạt hơn trước.
Đến thời nhà Hồ, cùng với việc đề ra các cải tổ về chính trị, kinh tế, Hồ Quý Ly
cũng rất quan tâm đến việc học hành thi cử. Ngay từ khi còn làm quan dưới thời Trần
vào năm 1383, ông xin cho lập thư viện, cử Trần Tôn làm Viện trưởng để dạy học trị
và khuyến khích người học mở rộng kiến thức cho phong phú. Ông chú ý lập ra các
trường học, tờ chiếu năm 1397 ra lệnh: “Ba phủ châu thuộc các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc
Đông đều đặt một viên quan giáo thụ giữ về việc học, cấp cho việc công tùy thứ bậc:
phủ châu lớn 15 mẫu, vừa 12 mẫu, nhỏ 10 mẫu để cung vào việc học” [10; tr.14]. Theo
tờ chiếu này, Hồ Quý Ly chủ trương ở các trường học đều đặt ra các vị học quan để
trông nom đơn đốc việc học, bên cạnh đó cịn cấp ruộng cho các châu, huyện, để chi
dùng cho việc học tập. Châu, huyện lớn được cấp 15 mẫu, châu huyện vừa 12 mẫu;
các châu, huyện nhỏ 10 mẫu.Tuy nhiên, do hạn chế của thời đại, xã hội có nhiều biến
động nên các chính sách của Hồ Quý Ly cũng chưa được thi hành một cách hiệu quả.
1.2.2. Thời Lê sơ
Dưới thời Lê sơ, chế độ phong kiến đạt đến thịnh trị, vì vậy, giáo dục cũng rất
được quan tâm, nhà nước tích cực thi hành nhiều chính sách khuyến học. Đầu tiên,
cũng giống như các triều đại trước, nhà Lê đã quan tâm đến việc xây dựng mới và tu
sửa trường học. Dưới thời Lê sơ, hệ thống trường lớp bao gồm trường công và trường
tư. Trường công là hệ thống trường do nhà nước tổ chức và quản lí, bao gồm 2 cấp


14


Trung ương và địa phương, đặt dưới sự quản lí của bộ Lễ. Ở Trung ương có trường
Quốc Tử Giám, đây là trường học lớn nhất và duy nhất ở kinh đơ, có hai chức năng
chính là dạy dỗ, bồi dưỡng và đào tạo tầng lớp nho sinh để cung cấp cho bộ máy quan
liêu nhà nước đồng thời quản lí việc bồi dưỡng và đào tạo, tức Quốc Tử Giám là cơ
quan giáo dục cao nhất trong nước. Quốc Tử Giám được xây dựng từ thời Lý Nhân
Tông (1076) và qua nhiều lần tu sửa, đợt trùng tu lớn nhất là dưới thời vua Lê thánh
Tông (1483) đã cho sửa sang tu bổ lại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Ở Quốc tử Giám có
giảng đường, kí túc xá và kho tàng trữ phục vụ cho việc dạy và học. Nhà vua cho dựng
ở Văn Miếu các cơng trình Đại Thành môn, nhà Giải vũ Đông Tây, điện Canh Phục,
kho Tế khí, nhà bia Tiến sĩ. Đối với Quốc Tử Giám, cho dựng nhà Minh Luân, giảng
đường Đông Tây, kho Bí thư, nhà nghỉ cho Giám sinh. Về tổ chức, nhà nước cho đặt
các chức Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám, trong đó, Tế tửu là quan đứng đầu Quốc
Tử Giám, có nhiệm vụ phụ trách chung và kiêm chủ tế ở Văn Miếu; Tư nghiệp là cấp
phó đặc trách việc giảng dạy và học tập. Hệ thống giảng dạy có Giáo thụ, Trực giảng,
Trợ giáo và Bác sĩ.
Quốc Tử Giám thời Lê sơ đã mở rộng đối tượng tuyển sinh và học tập, nhiều
con em học giỏi xuất thân từ các gia đình bình dân cũng được tham gia học tập. Giám
sinh thời Lê sơ được chia làm 3 loại (thượng, trung, hạ) được cấp học bổng và học
phẩm như sau:
Thượng xã sinh là những người đã đỗ cả ba trường trong kì thi Hội được tuyển
vào học, mỗi tháng được cấp 1 quan tiền.
Trung xã sinh là những người đã đỗ hai trường trong kì thi Hội được tuyển vào
học Quốc Tử Giám, mỗi tháng được cấp 9 tiền.
Hạ xã sinh là người đã đỗ một trong ba trường thi Hội, được tuyển vào học
Quốc Tử Giám và nhận mỗi tháng 8 tiền.
Ở các địa phương, hệ thống trường học có đến cấp phủ huyện, các lớp học có
đến cấp xã, cử người trơng coi việc học. Hệ thống quản lí các trường cơng từ Trung
ương đến địa phương rất chặt chẽ. Ở Thái học viện có Tế tửu đứng đầu, sau đó là đội
ngũ học quan gồm Tư nghiệp, Giáo thụ, Bác sĩ năm kinh… Các học quan được tuyển

vào giảng ở Thái học viện phải là những người có năng lực, khơng nhất thiết phải có


15

bằng cấp cao và phải từ 35 tuổi trở lên. Trường công ở các lộ, phủ do viên Huấn đạo
trông coi việc giảng dạy, khảo hạch để chọn người đi thi Hương.
Hệ thống trường tư: Đến thời Lê sơ, hệ thống trường tư đã phổ biến vì lúc này
việc học đã phát triển, đồng thời việc mở trường học cũng rất thuận lợi, không bị rằng
buộc bởi những quy định của nhà nước, bất kì nhà nho nào cũng có quyền mở trường
học, lớp học, hoặc những gia đình có điều kiện, coi trọng sự học của con cái thì đón
thầy về dạy tại gia cho con cái, sau đó mở rộng thành trường lớp của thơn xóm. Những
trường hợp này gọi là Hương học, nhằm giúp các con em vùng xâu xa, con nhà nghèo
học tập. Gọi là Hương học nhưng học sinh vẫn được dạy đầy đủ các chương trình từ
thấp đến cao, có đủ trình độ để dự thi. Có nhiều người đỗ đại khoa (tiến sĩ) mà chỉ học
ở trường làng. Như vậy cùng với hệ thống trường cơng, trường tư đã đóng góp một
phần khơng nhỏ vào việc khuyến khích học hành cho sĩ tử, đặc biệt cho những người
khơng có điều kiện đi học ở phủ, huyện.
Chế độ thi cử cũng đi vào quy củ, ở địa phương có thi Hương, ở kinh đơ có thi
Hội, cứ 3 năm một kì. Nhà Lê cũng đặt trách nhiệm cho các địa phương, ngay từ xã
thôn phải chú ý đến việc học tập, thi cử, đóng góp cho các kì thi, trích ruộng cơng để
lấy hoa lợi chi tiêu cho việc học. Lại có lệ “bảo kết hương thí” bắt các xã phải chịu
trách nhiệm về tư cách và đạo đức của người đi thi. Học trị vào trường thi mà khơng
làm được bài, xã trưởng cũng bị trách phạt.
Nhà Lê sơ đã thi hành nhiều chính sách trọng sĩ, trong các lễ xướng danh, ban
mũ áo, thiết yến tiệc, vinh quy. Mọi tiến sĩ đều được khắc tên vào văn bia đặt ở Văn
Miếu. Nền giáo dục thời Lê sơ mang tính thế tục, phổ cập và bình đẳng, nó đã trí thức
hóa mọi tầng lớp quan liêu. Chính vì những chính sách trên mà việc học dưới thời Lê
sơ đã có nhiều tiến bộ và khuyến khích được nhiều thành phần trong nhân dân theo
học. Như Phan Huy Chú đã nhận xét: “Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức,

cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp” [4;
tr.160].
1.2.3. Thời Lê trung hƣng và Tây Sơn
Bước sang thế kỉ XVI - XVII, triều Lê đã bước vào giai đoạn khủng hoảng, suy
sụp và sự phân chia đất nước với sự tồn tại của chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngồi
và chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong, do đó, giáo dục có phần đi vào suy thoái.


16

Nhà Lê trung hưng cho đặt các quan Tế tửu và Tư nghiệp để chăm lo cho việc học
hành và giảng dạy ở Quốc Tử Giám ở kinh đô. Bên cạnh đó, mặc dù chúa Trịnh đã có
nhiều cố gắng chấn chỉnh, đề ra nhiều biện pháp nhằm khuyến khích việc học trong
nhân dân như: Tổ chức lại các kì thi, cho phép các quân nhân đi thi, cấp ruộng cho các
trường học… Tuy nhiên, việc học dưới thời kì này cũng khơng có nhiều khởi sắc, giáo
dục rơi vào suy thoái.
Đến cuối thế kỉ XVIII, giáo dục nước nhà được chứng kiến một sự kiện mới do
phong trào Tây Sơn tạo nên. Vua Quang Trung đã đưa ra nhiều chính sách nhằm phát
triển giáo dục, thúc đẩy việc học tập được đẩy mạnh. Vua Quang Trung chủ trương
cần đặc biệt quan tâm, coi sóc việc học trong nước, tiến cử nhân tài, tuyên truyền đạo
đức để rèn luyện đức tâm. Sử dụng Nguyễn Thiếp, người khơng có học vị cao, cầm
đầu một tổ chức gồm nhiều khoa bảng, là điểm khác biệt so với các triều vua trước.
Ngay khi mới lên ngôi, Quang Trung đã ban chiếu “lập học” (xây dựng việc học):
“Chiếu này ban xuống, dân các xã nên lập nhà học của xã mình. Chọn những nho sĩ
có học, có đức hạnh trong xã, đặt làm chức giảng dụ trong xã, để dạy dỗ học trò trong
xã. Còn như từ vũ (miếu văn thánh) của các phủ, sai dân địa phương đó trơng nom.
Đợi đến khi được chọn, sẽ sai quan huấn đạo của phủ đến đặt làm trường giảng tập
của phủ. Hạn trong năm nay, mở khoa thi hương, lấy những tú tài hạng ưu sung vào
trường quốc học, hạng thứ thì đưa vào trường học phủ. Những người đỗ hương cống
của triều cũ, chưa được bổ nhiệm thì đợi đến tại triều để sung bổ vào các chức huấn

đạo, tri huyện. Từ nay về sau, các xã có đặt chức giảng dụ thì phải nộp danh sách cho
quan huyện, để chuyển di lên cho quan ở triều đình cấp bằng, khiến cho họ biết sự
khích lệ của Trẫm…” [10; tr.19]. Như vậy, cũng giống như các triều đại trước, triều
Tây Sơn đã rất quan tâm đến việc đề ra các chính sách khuyến học nhằm khuyến khích
tinh thần cho sĩ tử, mở rộng đối tượng học tập, trưng dụng người có tài mà khơng cần
thơng qua thi cử, không coi trọng học vị, mở rộng cơ quan trông coi việc học tới địa
phương: “Tổ chức cấp học tận cấp xã, giao cho xã chọn lấy thầy để triều đình bổ
dụng, bãi bỏ bọn lấy tiền để chạy chọt học vị”[10; tr.20].
Như vậy, không chỉ đến thời nhà Nguyễn mà các triều đại phong kiến trước
triều Nguyễn cũng đã sớm ý thức được vai trò của giáo dục, vì vậy, đã đề ra nhiều biện
pháp nhằm khuyến khích việc học hành phát triển. Trải qua các thời kì từ Lý, Trần, Lê


17

sơ đến Lê Trung hưng và Tây Sơn, các chính sách khuyến học ngày càng được hoàn
thiện và tiến bộ hơn, đặc biệt dưới thời Lê sơ nó đã mang lại hiệu quả lớn lao góp phần
đem nền giáo dục nước nhà phát triển tới đỉnh cao. Đồng thời, những mặt hạn chế và
tích cực của các chính sách khuyến học ở các triều đại trước thời Nguyễn chính là cơ
sở và là bài học để cho các vua đầu triều Nguyễn sau này rút kinh nghiệm, từ đó đề ra
các chính sách khuyến học một cách chặt chẽ, quy củ trong điều kiện khó khăn của đất
nước.


18

Chƣơng 2
C ÍN

SÁC


K UYẾN

ỌC DƯỚ TR ỀU N UYỄN

Nhà Nguyễn cũng như các triều đại phong kiến trước đó của Việt Nam đã ý
thức sâu sắc vai trò của giáo dục: Giáo dục nhằm đào tạo con người làm chính sự mà
quan lại là một công cụ đắc lực trị quản lí xã hội giúp giai cấp thống. Do đó, ngay sau
khi thành lập vương triều (1802) Gia Long đã cho xây dựng kinh đô Huế, ổn định việc
nội trị, ngoại giao, đồng thời tổ chức lại việc giáo dục và thu dụng người tài. Vua Gia
Long đã ra chiếu dụ: “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trị, thực khơng
thiếu được. Phải nên giáo dục thành tài, rồi sau thi Hương, thi Hội lần lượt cử hành,
thì người tài sẽ nối nhau giúp việc” [16; tr.78]. Minh Mạng cũng từng khẳng định:
“Đạo trị nước phải lấy việc gây dựng nhân tài làm ưu tiên” [17; tr.212]. Tinh thần đó
cũng được thể hiện qua lời nói của Thiệu Trị với các đình thần: “Việc dạy học là chính
sự trọng đại của triều đình” [17; tr.301]. Hay như lời dụ của Tự Đức: “Làm việc nước
cốt phải được nhân tài, được nhân tài cốt phải mở khoa thi để chọn lọc học trò” [20;
tr.342]. Xuất phát từ quan điểm trên, các vua đầu triều Nguyễn đã rất quan tâm đến
giáo dục, tích cực đặt ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích việc học ở trong triều
đình cũng như trong dân chúng.
2.1. Xây dựng và mở rộng hệ thống trường lớp
2.1.1. Xây dựng hệ thống trƣờng lớp ở Kinh đô
Để đặt cơ sở vững vàng cho việc phát triển Nho học, năm 1814, Gia Long ban
chỉ dụ về lập các trường học, trong đó khẳng định: “Học hiệu là nơi chứa nhân tài, tất
phải giáo dục có căn bản thì mới có thể thành tài. Trẫm muốn bắt chước người xưa,
đặt nhà học ni học trị, ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi để cho nhà nước
dùng” [15; tr.212]. Thực hiện chủ trương này, vua Gia Long cho xây dựng nhà Đốc
học ở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho tôn sinh – ấm sinh. Đến thời Minh Mạng,
nhà vua cho tôn sửa và dựng lại nhà Quốc Tử Giám trên nền cũ với quy mô to đẹp
hơn, đồng thời mở rộng số lượng học viên bao gồm: Giám sinh (người đỗ Hương

cống), Cống sinh (do các phủ huyện cử lên), Tôn sinh (người trong họ vua), Ấm sinh
(con quan lại từ tứ ngũ phẩm trở lên), Học sinh (con em thường dân học giỏi). Với tư
cách là trung tâm giáo dục đầu não, hàng năm vào dịp mùa xuân – thu, vua và các
quan đại thần tới dự lễ tế lễ ở đây. Minh Mạng từng răn rằng: “Nhà thành quân trường


19

học cao nhất (chỉ Quốc Tử Giám) là chỗ đầu phong hóa, mơ phạm quan hệ ở đây”
[15; tr.342].
Ngồi ra, ở kinh đơ, triều đình cịn cho thành lập một số loại hình trường lớp
khác dành cho các vua và tôn thất, con em quan lại trong triều. Năm 1807, Gia Long
cho đặt nhà Kinh Diên làm nơi giảng sách (3 ngày trong tháng) cho vua và các quan
văn võ từ tam phẩm trở lên. Bên cạnh đó, một số lớp học như Tập Thiện Đường
(1823), Dục Đức Đường (1869)… cũng được mở dành cho hoàng tử, hoàng đệ. Năm
1850, Tự Đức cho đặt nhà Tôn học để dạy cho con em hoàng thân tuổi từ 12 đến 25:
“Dựng nhà học, đặt thầy dạy,(chọn đất ở ngoài kinh thành dựng một nhà học, bên tả,
bên hữu đều có phịng. Con cháu các hoàng thân trừ ra những người đã được phong
tước ấm thì khơng kể, cịn ai tuổi từ 12 đến 25 muốn vào học thì chuẩn cho sung vào
học sinh nhà Tơn học, lấy một vị hồng thân kiêm coi công việc nhà Tôn học” [20;
tr.172 - 173].
Các trường học ở Kinh đô cũng đặt ra một số quy định đối rất nghiêm nghặt:
Thứ nhất, đối tượng học tập trong những trường này chủ yếu là Tôn sinh (con
em hoàng tộc), Ấm sinh (con quan lớn từ tứ ngũ phẩm trở lên) và một phần là Cống
sinh (những học trò được phủ huyện cử lên), Giám sinh (những người đỗ hương cống)
hoặc là Học sinh (con thường dân học giỏi).
Thứ hai, Học sinh phải tuân thủ các quy định chặt chẽ do nhà trường đặt ra: Cứ
đến ngày mùng 1, ngày Rằm hằng tháng, phải mặc áo mũ điểm mục đúng như phép
thường và phải tuân thủ nội quy, học tập nghiêm túc để thành tài để giúp đất nước,
người nào ham chơi, trễ bỏ việc học, thiếu điểm mục 3 lần thì kiểm xét tâu lên, giao

cho nội Hình xét hỏi, thiếu điểm mục 5 lần bị bắt sung quân… Đến kỳ giảng sách bình
văn, các học quan sẽ chấm bài. Mỗi kỳ đều lấy những bài tiêu biểu đạt điểm cao đem
ra bình đọc cho mọi người cùng nghe và đích thân do quan Tư nghiệp giảng hoặc mời
các nhà khoa bảng có danh tiếng làm quan trong triều đến bình. Hay nhà nước quy
định việc thưởng phạt rõ ràng đối với học sinh trường Giám (Quốc Tử Giám): “Cử
nhân, Giám sinh, Ấm sinh qua kì hội đồng hạch, người nào hạng ưu, thì mỗi tháng
thưởng 4 quan, gạo 3 phương, hạng bình tiền 3 quan…Nếu người nào hạng liệt 1, 2
lần phạt lương, lần 3 thì đuổi về” [20; tr.288]. Theo quy định này, học trò ở trường
Quốc Tử Giám được chia làm 4 hạng: ưu, bình, thứ, liệt, họ trải qua kì xét hạch của


20

các học quan, nếu ai xếp vào hạng liệt sẽ bị phạt lương hoặc đuổi về quê. Chính quy
định này đã tạo ra khơng khí tranh đua và cố gắng trong học tập, các sĩ tử chăm chỉ
học hành hơn vì danh dự của bản thân.
Như vậy, dưới thời phong kiến, việc học hành của con em trong hoàng thất và
con em của quan lại được đề cao và quan tâm hơn cả, chính vì thế triều Nguyễn đã rất
coi trọng việc xây dựng trường lớp ở kinh đô nhằm tạo điều kiện học tâp tốt nhất cho
học trò. Trong những trường này, nội quy học tập cũng rất quy củ, khắt khe và ngày
càng có nhiều loại hình lớp học được mở thêm như Tập Thiện Đường, Kinh Diên, Dục
Đức Đường… Đồng thời trên cơ sở đã có, Quốc Tử Giám cũng được mở rộng hơn về
quy mô, điều này đã có tác dụng tích cực đối với việc khuyến khích học tập cho các sĩ
tử.
2.1.2. Mở rộng hệ thống trƣờng lớp tới địa phƣơng
Cùng với việc thành lập, tổ chức học đường ở kinh đô, nhà Nguyễn cũng thực
hiện chích sách mở rộng hệ thống trường học tới các phủ, huyện. Trong thời Gia Long,
về cơ bản nhà học đã được đặt tới dinh trấn. Năm 1812, triều đình cho phép các dinh
trấn ở Bắc thành lập các lớp sơ học do Tổng giáo phụ trách. Năm Minh Mạng thứ nhất
(1820), khi vua mới lên ngôi, ông cũng đã sai đình thần bàn bạc để thực hiện việc đặt

nhà học ở dinh, trấn, châu, huyện: “Đặt nhà học ở phủ huyện, sai bộ Công gửi quy
thức cho mà làm, nhà học ở phủ 3 gian 2 chái, chi tiền 300 quan, nhà học ở huyện các
bề cao rộng dài ngang có hơi giảm, chi tiền 250 quan” [15; tr.300]. Đến năm Minh
Mạng thứ 5 (năm 1824), vua cho xây dựng các trường của các trấn phủ, huyện theo
quy cách thống nhất, quy mô rộng rãi: “Một nhà giảng đường 3 gian 2 chái, một nhà
vuông 1 gian hai chai” [15; tr.342]. Đến năm 1838, các lớp sơ học được mở tới các
huyện miền núi vùng Tây Bắc và các vùng có nhiều có nhiều người theo đạo Thiên
Chúa nhằm làm cho những người này “Bỏ tà giáo chưa khỏi mờ mịt chẳng biết theo
vùng đâu, nên phải dạy học thêm, khiến cho lấy chính đạo làm chỗ dựa theo” [7;
tr.294]. Mỗi phủ, mỗi huyện như vậy có từ hai đến ba lớp sơ học, không cần thiết phải
làm nhà học và được nhà nước hỗ trợ một phần tiền, gạo trả cho người dạy, đây là mơ
hình trường học do nhà nước và nhân dân cùng làm. Đến năm 1853, Tự Đức cịn
khuyến khích các địa phương mở rộng các trường học ở thơn xóm, hương ấp "Để
ruộng công tư làm trường hương học để dạy cho con em trong làng" [20; tr.546]. Năm


×