Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Giá trị tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn đảng trong di chúc hồ chí minh và sự vận dụng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.54 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : NGUYỄN DANH TUYÊN
Lớp
: 10SGC
Giáo viên hướng dẫn : CN. NGUYỄN DUY QUÝ

Đà Nẵng, 05/2014


Lời cảm ơn
Em xin chân thành bày tỏ tấm lòng biết
ơn sâu sắc đến thầy giáo - CN. Nguyễn Duy
Quý, người đã dày công dạy dỗ em trong suốt
thời gian qua và nhất là đã động viên, khuyến
khích, giúp đỡ, hướng dẫn em hồn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Xin gửi đến q thầy giáo, cơ giáo khoa
Giáo dục Chính trị, trường Đại học Sư phạm
- Đại học Đà Nẵng đã cung cấp cho em
những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm
học vừa qua lời tri ân sâu sắc.
Với lượng thời gian có hạn và điều kiện


của một sinh viên, khóa luận khơng tránh
khỏi những hạn chế và sai sót. Em kính mong
nhận được lời góp ý chân thành của quý thầy
cô và các bạn.
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 05 năm 2014
Người thực hiện

Nguyễn Danh Tuyên


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. .................................................................................... 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................. 3
5. Bố cục đề tài. ..................................................................................................... 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu. .......................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................... 5
CHƢƠNG I: VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM DI CHÚC VÀ GIÁ TRỊ TƢ
TƢỞNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ
MINH .................................................................................................................... 5
1.1 Hồ Chí Minh và tác phẩm Di chúc .................................................................. 5
1.1.1 Hồ Chí Minh thân thế và sự nghiệp.............................................................. 5
1.1.1.1 Hoàn cảnh gia đình và tiểu sử Hồ Chí Minh ............................................. 5
1.1.1.2 Sự nghiệp và tư tưởng ............................................................................... 9
1.1.2 Tác phẩm Di chúc Hồ Chí Minh ................................................................ 17
1.1.2.1 Hồn cảnh ra đời ...................................................................................... 17
1.1.2.2 Nội dung chủ yếu trong tác phẩm Di chíc Hồ Chí Minh ........................ 20

1.2 Tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh ................ 26
1.2.1 Đoàn kết thống nhất trong Đảng ................................................................ 26
1.2.2 Thực hành dân chủ rộng rãi ........................................................................ 29
1.2.3 Thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình .......................... 31
1.2.4 Phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau ................................................ 34
1.2.5 Đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng ........................................ 35
1.2.6 Phải bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau ........................................... 38
1.3 Giá trị tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh ..... 40
1.3.1 Giá trị lý luận tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí
Minh ..................................................................................................................... 40


1.3.2 Giá trị thực tiễn tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí
Minh ..................................................................................................................... 42
CHƢƠNG II: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY ..................................................................................................................... 44
2.1 Thực trạng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm qua ........ 44
2.1.1 Những thành tựu đã đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng 44
2.1.2 Những hạn chế của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ........................... 55
2.1.3 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế........................................... 57
2.2 Vận dụng tư tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay............................................................................. 59
2.2.1 Tình hình thế giới và trong nước ................................................................ 59
2.2.1.1 Tình hình thế giới và khu vực ................................................................. 59
2.2.1.2 Tình hình trong nước ............................................................................... 60
2.2.2 Những giải pháp phát huy tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di
chúc Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ....................................................... 61
2.2.2.1 Củng cố xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng phù hợp với tình
hình mới của Đất nước ........................................................................................ 61

2.2.2.2 Xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ Đảng viên của Đảng đáp ứng yêu cầu công
cuộc đổi mới ........................................................................................................ 64
2.2.2.3 Phát huy dân chủ trong xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng ..................................................................................................................... 67
2.2.2.4 Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng ...... 70
2.2.2.5 Làm tốt công tác phát triển Đảng ............................................................ 73
KẾT LUẬN......................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 77


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh suốt cả cuộc đời mình cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng, Người từng nói: “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước tơi được hồn tồn độc lập, dân tơi được hồn tồn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [Hồ Chí Minh, Toàn
tập, 2011, t.4, NXB CTQG, tr.187]. Ham muốn tột bậc, khát vọng cháy bổng đó là
mục tiêu, là động lực thúc đẩy Người vượt bao gian khổ để tìm ra con đường giải
phóng dân tộc, giải phóng nhân dân thốt khỏi ách nơ lệ. Cả cuộc đời Người đã
cống hiến cho sự nghiệp cách mạng Viêt Nam, Người đã sáng lập, rèn luyện, dẫn
dắt Đảng ta bước qua bao thăng trầm lịch sử hào hùng của cách mạng Việt Nam.
Trước lúc đi xa, Người đã “đ sẵn mấy lời” để đồng bào cả nước, đồng chí
trong Đảng và bầu bạn khắp nơi khỏi cảm thấy đột ngột, đó chính là bản Di chúc
lịch sử của Người. Di chúc chứa đựng những tư tưởng và tình cảm lớn của một lãnh
tụ thiên tài, một người thầy vĩ đại, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào cộng sản Quốc tế, một chiến sĩ đấu tranh khơng mệt
mỏi cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Di chúc là bản tổng
kết hết sức cô đọng về cuộc đời của một con người, anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại.

Di chúc của Người là một án văn tuyệt bút chứa đựng những tư tưởng lớn,
tầm nhìn xa trơng rộng, đó là những lời dặn dị hết sức giản dị nhưng vơ cùng ý
nghĩa, định hướng cho sự phát triển của đất nước. Hơn ai hết, Người thấy rõ vai trị
cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đối với sự tồn vong của một chế độ nên lời dặn
đầu tiên trong Di chúc mà Người nhắn nhủ là lời căn dặn về Đảng: “Trước hết nói
về Đảng. Nhờ đồn kết chặc chẽ một lịng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân
dân, phục vụ tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức lãnh đạo nhân dân hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.15, tr.621- 622]. Ngày
nay toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hơn lúc nào hết vai trị lãnh đạo của Đảng cần được phát huy mạnh mẽ hơn
nữa.
1


Trước những biến đổi của tình hình thế giới, âm mưu diễn biến hịa bình, bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch hịng chống phá cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách
mạng nước ta. Đặc biệt, hiện nay đang tồn tại một thực trạng đau lịng là một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ, Đảng viên ngày càng sa sút, suy thối đạo đức tư tưởng
làm ảnh hưởng khơng nhỏ tới truyền thống tốt đẹp của Đảng ta.
Ngày nay, toàn Đảng, tồn dân đang tích cực học tập, qn triệt, làm theo
nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011)
càng cho ta thấy vai trị, ý nghĩa cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và ý nghĩa to
lớn, thiết thực lời căn dặn của Bác trong Di chúc đối với Đảng ta cách đây hơn 45
năm.
Bản thân nhận thấy rõ vai trò ý nghĩa và mong muốn làm rõ thêm giá trị tư
tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Hồ Chí Minh đã thơi thúc
tơi chọn đề tài: “Giá trị tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” để làm đề tài khóa

luận tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
Làm rõ giá trị, tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí
Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên thì nhiệm vụ phải làm sáng tỏ những vấn đề sau:
+ Tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh và giá trị
của nó đối với cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
+ Đảng ta vận dụng tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng:
Tư tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu:

2


Giá trị, tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh và
sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp như phân
tích, tổng hợp, hệ thống hóa… để làm rõ nội dung vấn đề nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, khóa luận gồm
có 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Về tác giả, tác phẩm Di chúc và giá trị tư tưởng xây dựng, chỉnh
đốn Đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh

Chương 2: Vận dụng tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng ln là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu
trong công tác xây dựng Đảng. Làm tốt công tác xây dựng Đảng góp phần khẳng
định vai trị vị trí lãnh đạo của Đảng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tư tưởng xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và tư tưởng xây dựng chỉnh đốn
Đảng trong Di chúc Hồ Chí Minh nói riêng đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu. Trên nhiều phương diện khác nhau, điều kiện thực tiễn khác
nhau, các nhà khoa học có những cách nhìn nhận, đánh giá với những mức độ khác
nhau, từ đó các nhà khoa học đưa ra hệ thống các giải pháp góp phần xây dựng,
chỉnh đốn Đảng dựa trên nền tảng tư tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di
chúc Hồ Chí Minh. Cho đến nay đã có những cơng trình nghiên cứu cụ thể như:
Di chúc Bác Hồ và công tác nghiên cứu tuyên truyền của Bảo tàng Hồ Chí
Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002 của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Cuốn sách là hệ
thống các bài viết về Di chúc đề cập tới nhiều vấn đề nổi bật trong Di chúc như:
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vấn đề con người và giải phóng con người, tư
tưởng đồn kết, cơng tác đào tạo bồi dưỡng nhân tài… Cuốn sách đã góp phần làm
sáng tỏ nhiều vấn đề mà Bác Hồ đề cập trong Di chúc trong đó có cơng tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng.

3


Chuyên đề giới thiệu về Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh của Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương, 2007. Chuyên đề góp phần làm sáng tỏ nội dung Di
chúc Hồ Chí Minh như: Bác Hồ nói về nói về cuộc kháng chiến chống Mỹ, lời căn
dặn của Bác về Đảng, đoàn viên thanh niên, nhân dân lao động, về phong trào cộng
sản, công việc sau khi đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và công việc lo hậu sự của
Người. Tác phẩm trình bày một cách có hệ thống, phân tích các nội dung trong Di

chúc giúp người đọc dễ dàng tiếp cận tư tưởng của Người trong Di chúc.
Mấy vấn đề xây dựng chỉnh, chỉnh đốn Đảng, Nxb chính trị Quốc gia, Hà
Nội của tác giả Lê Đức Bình đã trình bày những vấn đề cơ bản của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nêu bật sự cần thiết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong
giai đoạn hiện nay.
Ngồi ra cịn nhiều bài viết đăng lên trên các tạp chí, báo của các cơ quan
chính phủ như: “Tiếp tục thực hiện Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh về chỉnh đốn
Đảng” của PGS -TS Phạm Hồng Chương. “Tư tưởng về xây dựng Đảng trong Di
chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh” của Đại tá, TS. Nguyễn Duy Thơng, khoa triết
học, Trường Sĩ quan Chính trị. “Xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Di chúc của
chủ tịch Hồ Chí Minh” của ThS. Đỗ Thanh Bình - Phó hiệu trưởng trường chính trị
Lâm Đồng. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện
Đảng cầm quyền” của TS. Dương Trung Ý, tạp chí Xây Dựng Đảng, 08-12-2011…
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả hết sức phong phú, đa dạng, mang tính
tổng hợp cao. Đây cũng là điều kiện thuận lợi, nguồn tài liệu tham khảo q báu
giúp tơi nghiên cứu hồn thiện hơn khóa luận này.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM DI CHÚC VÀ GIÁ TRỊ TƢ TƢỞNG
XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH

1.1 Hồ Chí Minh và tác phẩm Di chúc
1.1.1 Hồ Chí Minh thân thế và sự nghiệp
1.1.1.1 Hồn cảnh gia đình và tiểu sử Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho cấp
tiến, gần gũi với nhân dân. Tấm gương hiếu học, giản dị, giàu lòng bác ái của người
cha cùng với đức hi sinh của người mẹ đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành

nhân cách của Người. Được sinh ra ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị
của thực dân phong kiến tiêu biểu như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung,
Phan Bội Châu... Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu
sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính
trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào
yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Tháng 06 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, đến nước Pháp và các nước
khác. Người muốn biết ở đấy họ sống và lao động ra sao, rồi sau đó sẽ trở về nước
để giúp đỡ đồng bào mình, suốt 30 năm hoạt động, Người hịa mình với những
phong trào của cơng nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm
sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ
đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào
công nhân Pháp. Tháng 06 năm 1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân
An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng
của dân tộc Việt Nam .

5


Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Nguyễn Ái Quốc
được đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin. Sau
này nhớ lại niềm sung sướng khi đọc Luận cương của V.I. Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Luận cương của V.I. Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng

mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa
đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta”” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.12, tr.562]. Từ đó Người
đã có một sự lựa chọn tán thành Quốc tế thứ III. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con
đường cứu nước, Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nơ lệ” [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.12, tr.563].
Cũng từ đây Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ III.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành
phố Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ
nghĩa cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc
thuộc địa, nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Người
viết nhiều bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”, “Đời sống thợ thuyền”... Đặc
biệt, Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ
thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài
viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong mọi tầng lớp
nhân dân.
Ngày 30/06/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học
tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên
đất nước Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người
được bầu vào Đồn Chủ tịch Quốc tế Nơng dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần
thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban Phương Đông của Quốc tế

6


Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc

được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á .
Năm 1925 - 1927, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đồng chí hội, ra báo Thanh Niên. Cũng trong thời gian này Người
trực tiếp mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Đầu năm
1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp học ở Quảng Châu được Bộ
Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp lại và xuất bản thành
sách với tên gọi Đường cách mệnh. Tác phẩm là sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng trong nước và
quốc tế, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận
cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối của cách mạng Việt Nam.
Trong năm 1929, ở Việt Nam đã ra đời ba tổ chức cộng sản. Tháng 06-1929,
những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ. Tháng 07-1929 An Nam Cộng sản Đảng được
thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 09-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành
lập ở Trung Kỳ. Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng
sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động
biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của
cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Trước tình hình trên, mùa xuân
năm1930, tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc (Hồng Kông), Người triệu tập
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng cộng
sản Việt Nam.
Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản
ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những
chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, mùa xuân năm 1941 Người về nước,
triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường
lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực


7


lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao,
thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 08 năm 1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị tồn
quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã
phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tồn dân tộc Việt Nam đã
nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân lao
động. Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả
nước và nhân dân thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn th dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải đ giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.4, tr.3].
Tháng 09 năm 1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực
lượng phản động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần
nữa. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân
đánh chiếm miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Ngày 09/01/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người
được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi tồn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương
Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tháng 07 năm 1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm
lược biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng

8


lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 09 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao
động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 02/09/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa
nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một
người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc,
đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân,
vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hịa bình và
cơng lý trên thế giới.
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học
của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh
hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại”.
1.1.1.2 Sự nghiệp và tƣ tƣởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách
mạng Việt Nam. Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Người đã nắm bắt
sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học, tinh thần biện chứng và nhân đạo của học
thuyết Mác - Lênin, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết ấy phù hợp với hoàn

cảnh thực tế nước ta, đồng thời Người đã kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành từ những nguồn gốc đó. Việc Đại hội VII khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam
cho hành động là một bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức và tư duy
lý luận của Đảng ta.
Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan
9


trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Tư tưởng của Người đã và đang soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền
vững của dân tộc Việt Nam và lan toả ra thế giới.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm của tư
tưởng Hồ Chí Minh, nó thâm nhập và xun suốt tồn bộ hệ thống tư tưởng của
Người trong các thời kỳ và trên các lĩnh vực.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ phát huy tác dụng trong giai đoạn Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (1945 - 1954) mà cịn xun suốt quá trình tiến
hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau, nhưng có quan hệ khăng khít
với nhau: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc (giai đoạn 1954 - 1975) cũng như trong nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vơ sản”.
Đó là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của
giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành
độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã

hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Đó cũng là nội dung tổng qt của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
“Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do” [ Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB
CTQG, HN, 2011, t.15, tr.130] là điểm xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới
ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và tấm
gương Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường giải phóng cho
dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc thuộc địa. Người khẳng định: “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
10


những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB
CTQG, HN, 2011, t.12, tr.563]. Người đưa ra hình ảnh so sánh nổi tiếng: Chủ
nghĩa đế quốc là “con đỉa hai vịi”, do đó cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vơ
sản ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một con chim. Vì bóc lột thuộc địa
là một trong hai nguồn sống của chủ nghĩa tư bản, cho nên muốn đánh đổ chủ nghĩa
đế quốc, trước hết phải xoá bỏ thuộc địa của chúng đi. Do đó, cách mạng thuộc địa
khơng chỉ trơng chờ vào kết quả của cách mạng vơ sản ở chính quốc mà phải tiến
hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có
thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự
nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Người viết: “Ngày mà hàng trăm
triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh đ gạt bỏ sự bóc lột đê tiện
của một bọn thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng
lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là
chủ nghĩa đế quốc, họ có th giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây

trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN,
2011, t.1, tr.48].
Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Trên nền tảng lý luận đó, Người đã cùng với Đảng ta đề ra và giải quyết
đúng đắn nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của
cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc thầy về phương pháp cách mạng Việt Nam.
Phương pháp cách mạng của Người là sự vận dụng một cách sáng tạo
phương pháp luận phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện
cụ thể của cách mạng nước ta để tìm ra những con đường, hình thức, biện pháp...
nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Phương pháp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hệ thống được
thể hiện đa dạng và phong phú ở các thời kỳ, các giai đoạn khác nhau, trên tinh
thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy mục tiêu không thay đổi là độc lập, thống
nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân làm gốc.
11


Điểm nổi bật của phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, như Đảng ta đã
tổng kết tại Đại hội lần thứ IV, đó là phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng, bao
gồm lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân, tiến
hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; lợi dụng triệt để những mâu thuẫn nội
bộ của địch, phân hố và cơ lập cao độ kẻ thù, giành thắng lợi từng bước, đánh đổ
từng bộ phận, cuối cùng đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản lãnh đạo, đặc biệt trong điều kiện
Đảng đã nắm chính quyền, là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng chính đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân. Là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng cộng sản thành một Đảng cách mạng

chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam, để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc,
thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập
Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB
CTQG, HN, 2011, t.12, tr.406]. Người nói, Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp
công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở chỗ nó được vũ
trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kiên
quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả
khuynh. Người cũng nói rõ: “Đảng ta đại bi u cho lợi ích chung của giai cấp cơng
nhân, của tồn th nhân dân lao động chứ khơng phải mưu cầu cho lợi ích riêng
của một nhóm người nào, của cá nhân nào” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG,
HN, 2011, t.11, tr.607].
Lần đầu tiên trong các Đảng cộng sản cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu lên tư tưởng: Đảng phải xứng đáng vừa là người lãnh đạo sáng suốt, vừa là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Muốn thế, Người đòi hỏi Đảng ta một
mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, mặt khác phải trau
dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân
dân.
12


Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh cùng với đạo đức và nhân cách vô
cùng cao thượng và trong sáng của Người đã quy tụ được khối đại đồn kết dân tộc,
đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người cho rằng: “Hễ là người Việt
Nam thì ai cũng có lịng u nước, ghét giặc”, nên ngay sau khi thành lập Đảng,
Người đã đề ra chủ trương thành lập Hội phản đế đồng minh, một hình thức mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc. Góp ý kiến về đường lối, chủ
trương của Đảng.

Thời kỳ 1936 - 1939, Người đã bổ sung vào tên gọi mặt trận thành Mặt trận
dân tộc dân chủ rộng rãi, khơng những chỉ có nhân dân lao động mà gồm cả giai
cấp tư sản dân tộc và nhắc nhở phải tránh hết sức để họ ở ngoài Mặt trận. Ngay sau
khi về đến Cao Bằng năm 1941, Người đã cho tổ chức thí điểm các hội quần chúng
để rút kinh nghiệm tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh.
Nguyên tắc nhất quán trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là: lấy liên
minh cơng - nơng làm nền tảng, tập hợp rộng rãi nhất mọi tổ chức và cá nhân yêu
nước, vừa đoàn kết, vừa đấu tranh; lấy lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ
bản của nhân dân lao động làm nền tảng, trên cơ sở đó bảo đảm có sự kết hợp hài
hồ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc
gia và quốc tế.
Phương pháp đi tới đại đoàn kết của Người là vận động, giáo dục, thuyết
phục, nêu gương,... lấy thẳng thắn chân thành để đối xử, lấy tin yêu giúp đỡ để cảm
hoá, trân trọng phát huy nhân tố tích cực, hạn chế, đẩy lùi nhân tố tiêu cực, giúp
cho mọi tổ chức và cá nhân đều tiến bộ và trưởng thành, đóng góp có hiệu quả vào
sự nghiệp cách mạng chung.
Đại đồn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến lược cơ bản, lâu dài
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh mãi mãi là một sức mạnh làm nên thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng về kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được thể hiện đặc sắc ở vấn đề
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến
đấu” với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; vấn đề
13


xây dựng căn cứ địa cách mạng, vấn đề khởi nghĩa tồn dân và chiến tranh nhân
dân. Chính tư tưởng quân sự ấy đã chỉ đạo nhân dân ta đi tới thắng lợi lịch sử của
cuộc Cách mạng Tháng Tám và tiếp đến tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh lâu

dài nhất trong lịch sử. Để chống lại những kẻ thù có sức mạnh kinh tế và quân sự
lớn hơn mình nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; chủ trương vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc, xây dựng thật tốt mối quan hệ tiền tuyến - hậu phương. Tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh lấy sức mạnh chính trị, tinh thần của tồn dân làm nền tảng.
Trên cơ sở đó mà phát huy tài thao lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự kế thừa truyền thống quân sự quý báu của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa quân sự của thế giới. Chính Người đã cùng với Đảng ta
nâng nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân ở thời
đại Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự
vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin, chọn lọc, kế
thừa cả những tinh hoa trong việc xây dựng nhà nước đã có trong lịch sử dân tộc và
nhân loại.
Vấn đề cơ bản của nhà nước là quyền lực thuộc về ai, phục vụ quyền lợi của
ai. Đảng ta lãnh đạo nhân dân làm cách mạng là để giành quyền lực về tay nhân
dân. Người khẳng định “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương
do dân cử ra” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.6, tr.232]. “Tất
cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân”
[Điều 4, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, 1959, Hồ Chí Minh, Toàn
tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.12, tr.375].
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà
nước ta, đồng thời, Người cũng nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của
Nhà nước.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một Nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là
một Nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, mặt khác Nhà nước đó “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
14



nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự ki m sốt của nhân dân” [Hồ Chí Minh,
Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.12, tr.375]. Một trong những mối quan tâm của
Người là lo làm sao đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ chính quyền
phù hợp với bản chất của Nhà nước ta, thấm nhuần tinh thần “dân là chủ, cán bộ là
đầy tớ trung thành của nhân dân”. Rất đề cao pháp quyền, nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh khơng lúc nào coi nhẹ vai trị của giáo dục đạo đức. Trong tư tưởng của
Người, nhà nước pháp quyền chỉ phát huy được đầy đủ hiệu lực khi nó biết coi
trọng kết hợp giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, đồng thời là nhà quốc tế chủ
nghĩa trong sáng, hiện thân của tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại. Người nói: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh
thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả” [Hồ
Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.2, tr.329]. Vì vậy, trong đấu tranh
giành độc lập dân tộc, một mặt Người nhấn mạnh tư tưởng phải “lấy sức ta mà giải
phóng cho ta”, mặt khác Người luôn luôn kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết,
giúp đỡ và phối hợp nhịp nhàng cuộc đấu tranh của vơ sản ở chính quốc với vô sản
ở thuộc địa, như hai cái cánh của một con chim. Ngay đối với các nước tư bản phát
triển, từ rất sớm, Người đã tuyên bố: Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả mọi nước
dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG,
HN, 2011, t.5, tr.256], vì mục tiêu độc lập, hồ bình, hữu nghị và tiến bộ xã hội.
Một mặt ra sức tranh thủ sức mạnh của thời đại có lợi cho cách mạng Việt
Nam, mặt khác, Người khơng qn nhắc nhở nhân dân ta hết lịng, hết sức làm trịn
nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình đối với phong trào giải phóng dân tộc và phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế, coi “giúp bạn là tự giúp mình”. Hồ Chí Minh
chính là biểu tượng của tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một thể thống nhất giữa đạo đức với
chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo
đức đời thường, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân. Trong khi sử dụng lại một số khái niệm và thuật ngữ của đạo đức truyền

thống vốn đã phổ biến và quen thuộc trong nhân dân, Người đã đưa vào đó những
nội dung mới, mang ý nghĩa nhân văn và cách mạng của đạo đức mới. Tư tưởng
15


đạo đức Hồ Chí Minh là bộ phận rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có
sức sống mãnh liệt, đã sớm đi vào nhân dân, được nhân dân tiếp nhận, vận dụng và
nêu cao. Nó đã trở thành một bộ phận của văn hoá dân tộc, thành vũ khí của nhân
dân trong cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tha hoá về đạo đức của xã hội
như quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, ức hiếp quần chúng...
Cùng với tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một đóng
góp rất có giá trị vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, 2011, t.4, NXB
CTQG, tr.187]. Đó là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và cũng là lý tưởng nhân
văn của Người. Đối với Hồ Chí Minh, giải phóng con người trước hết là giải phóng
họ khỏi những tai họa do cái đói, cái rét, cái dốt gây nên. Cuộc chiến đấu đó khơng
thể tách rời cuộc chiến đấu để giải phóng dân tộc. Chỉ có thốt khỏi thân phận nô
lệ, mỗi con người mới lấy lại được phẩm giá làm người. Hơn nữa, đó cịn là cuộc
chiến đấu vì hồ bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc, vì sự giải phóng của tồn
nhân loại. Đó chính là giá trị của nhân văn, một chủ nghĩa nhân văn hành động, chủ
nghĩa nhân văn chiến đấu, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện vô cùng đa dạng và phong
phú, nó thấm đậm trong tồn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người, được toả sáng
trong từng việc làm, từng cử chỉ, từng mối quan tâm ân cần đối với mỗi con người,
tất cả đều tốt lên tình u thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin vào
khả năng cải tạo của con người, dù cho họ có nhất thời lầm lạc. Bằng hành động và
ứng xử của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm
người là phải biết yêu thương và sống với nhau có tình có nghĩa.

Chủ nghĩa nhân văn là bản chất cốt lõi, là kết tinh của văn hố. Chủ tịch Hồ
Chí Minh được lồi người tiến bộ suy tơn là một nhà văn hố lớn cịn vì những
thành tựu xuất sắc của Người trong lĩnh vực hoạt động và sáng tạo văn hoá. Tư
tưởng văn hố Hồ Chí Minh được biểu hiện ở chỗ Người thấy rõ và khẳng định rất
sớm vai trò quyết định của văn hoá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Đất nước. Người coi dốt nát cũng là một thứ giặc, xem thói quen và những tập tục
16


lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Người khẳng định văn hoá là tinh hoa của dân tộc,
văn hoá phải góp phần khẳng định dân tộc và bản sắc dân tộc.
Tư tưởng văn hố Hồ Chí Minh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa kỳ thị
- độc tôn về văn hố. Là người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn văn hố
phương Đơng và phương Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra chủ trương kế
thừa truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc phải đi đôi với việc học tập và tiếp
thu có chọn lọc tinh hoa văn hố của nhân loại. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về văn hoá đang là kim chỉ nam cho chúng ta trong việc xây dựng
một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời không
ngừng mở rộng sự giao lưu văn hố với thế giới.
Tính khoa học đúng đắn và tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí
Minh đã được lịch sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, Tư
tưởng Hồ Chí Minh càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào vô hạn của mỗi
chúng ta.
1.1.2 Tác phẩm Di chúc Hồ Chí Minh
1.1.2.1 Hồn cảnh ra đời
Ngày 15-5-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc đầu tiên. Bản Di
chúc này do Người tự đánh máy, gồm 3 trang, có chữ ký của Người và chữ ký
chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn, khi đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Đây là bản Di chúc hồn chỉnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 1966, 1967 khơng có bản viết riêng, chỉ có hai bản bổ sung vào Di
chúc năm 1965 do chính Hồ Chí Minh viết thêm ở phần nội dung Người viết về
Đảng. Ở khổ văn thứ nhất có nội dung này, Người viết: “Nhờ đồn kết chặt chẽ,
một lịng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân”. Đến đây, Người thêm các
chữ “phục vụ Tổ quốc”. Ở khổ văn thứ ba trong nội dung viết về Đảng, Người viết:
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất đ củng cố và phát tri n sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng”. Đến đây, Người thêm câu: “Phải có tình đồng chí thương u lẫn
nhau” vào cuối khổ văn.

17


Năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bổ sung một đoạn gồm 6 trang viết
tay. Năm 1969, vào ngày 10-05, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lại tồn bộ phần mở
đầu Di chúc gồm một trang viết tay.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cơng bố năm 1969, có đề ngày 10-05
gồm 4 trang in khổ 14,5 x 22 cm. Bản Di chúc này chủ yếu dựa vào bản Người viết
năm 1969, trong đó có đoạn mở đầu là bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là
phần đầu bản viết năm 1968.
Các bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI công bố năm 1989, vào
dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Người.
*Về chủ quan
Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của
Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75, Người
thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “Tinh thần vẫn sáng suốt, thân th
vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo: “Ai đốn biết tơi sẽ sống và phục vụ Tổ
quốc, phục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa”. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã dự
cảm được thời khắc quan trọng của thời gian cịn lại. Từ dự cảm đó, Người viết:

“Vì vậy, tơi đ lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thơi. Phịng khi tơi sẽ đi gặp
cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và
đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột” [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB
CTQG, HN, 2011, t.15, tr.611].
Đến năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự cảm thấy “sức khoẻ có kém so với
vài năm trước đây”. Chủ tịch Hồ Chí Minh bình tĩnh, chủ động nhận biết quy luật
của tự nhiên, khi Người viết: “Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay
hiếm”… Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp.
Điều đó cũng khơng có gì lạ” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011,
t.15, tr.621].
Vì vậy, Người đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn
dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút,
nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách

18


nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, tồn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và với
cách mạng thế giới.
*Về khách quan
Tháng 05-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc. Đúng thời điểm
này, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta bị thất
bại hoàn toàn. Ngoan cố và liều lĩnh, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ đổ bộ vào
miền Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực
của Quân giải phóng miền Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng
không quân và hải quân của Mỹ đánh phá huỷ diệt miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta không bất ngờ trước việc đế
quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ở Việt Nam. Ngay tháng 3-1964, căn cứ Điều 67 của
Hiến pháp và trước âm mưu của đế quốc Mỹ đang đẩy mạnh và mở rộng chiến
tranh xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị

chính trị đặc biệt tại Hà Nội. Người khẳng định: nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh đụng đến
miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại thảm hại. Người kêu gọi đồng bào miền
Bắc ra sức thi đua “mỗi người làm việc bằng hai đ đền đáp cho đồng bào miền
Nam ruột thịt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt tồn dân thể hiện ý chí của tồn
dân tộc ta sẵn sàng chiến đấu chống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh để bảo vệ
miền Bắc và chi viện tích cực cho cách mạng miền Nam. Đến tháng 3-1965, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá III họp Hội nghị lần thứ 11 đã hạ quyết tâm:
quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc chiến tranh cục bộ mà quân Mỹ là nòng cốt diễn ra ở miền Nam qua
hai mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không
quân, hải quân Mỹ đã đứng trước nguy cơ phá sản hồn tồn. Trong thế thắng đó,
Đảng ta chủ trương đánh một đoàn chiến lược vào ý đồ xâm lược của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chủ trương chiến lược này, Tết Mậu Thân 1968, ta mở cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng
tiến công đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc
Mỹ, buộc chúng phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với
ta tại Pari. Tuy nhiên, do bản chất xâm lược và hiếu chiến, ngoan cố, chúng bắt đầu
áp dụng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam.
19


Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hồ bình, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân
dân thế giới và nhất là phong trào phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt
Nam, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đến thời điểm đó, mặc dù
cịn nhiều khó khăn gian khổ, nhưng khả năng thắng lợi “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho nguỵ nhào” đã thể hiện rõ. Trong bài thơ mừng Xuân 1969, Bác đã viết:
“Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào.

Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào,
Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!” [Hồ Chí Minh, Toàn
tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.15, tr.532].
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong thời điểm bản lề của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; cách mạng dù cịn khó khăn, song đang trên đà
thắng lợi, địi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.
1.1.2.2 Nội dung chủ yếu trong tác phẩm Di chíc Hồ Chí Minh
* Lời dặn của Hồ Chí Minh về Đảng
Nói về Đảng là lời dặn đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người khẳng định: “Vấn đề đồn kết có tầm quan trọng hàng đầu của cơng
tác xây dựng Đảng”. Đồn kết là ngun nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam là do sự
đoàn kết trong Đảng đem lại. Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ mà Đảng ta đã
đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.15, tr.621].
Người khẳng định, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Người tâm huyết căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi
bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.15, tr.622].
Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng ta thật sự
20


trong sạch, vững mạnh. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” [Hồ Chí Minh, Tồn tập,
NXB CTQG, HN, 2011, t.15, tr.622]. Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố
và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
Bằng chính tấm gương sáng ngời của đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

khẳng định tình cảm giai cấp và đồng chí trong Đảng, coi đó là một nhân tố quan
trọng để đồn kết trong Đảng. Người u cầu, trong Đảng “phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau”.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhân tố đạo đức khi Đảng trở
thành Đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng cầm quyền là bước chuyển trọng đại
trong sinh hoạt Đảng. Đảng cầm quyền có sứ mạng lãnh đạo giai cấp và dân tộc
xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Để hồn thành xứ mạng
đó, Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”.
* Về đoàn viên thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu thương, sự
quan tâm và niềm tin sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn viên, thanh niên là
đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước. Trải qua thực tiễn cách
mạng, Người nhận xét: “Đồn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều
hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”. Người nhấn mạnh, thế
hệ trẻ mới là người xây dựng thành công xã hội mới ở Việt Nam. Để họ hồn thành
vai trị lịch sử của mình, Người yêu cầu “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức
cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng” vừa “chun”” [Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, HN, 2011,
t.15, tr.622].
* Về nhân dân lao động
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tình cảm đặc biệt và niềm tin mãnh liệt vào
nhân dân. Người nêu rõ: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi,
đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột,
lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm,
hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta ln ln đi theo Đảng, rất trung
thành với Đảng” [Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 2011, t.15, tr.622].
21



×