Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

Nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa gia đình ở huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.77 KB, 142 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ HỒNG TỨ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG VĂN
HÓA GIA ĐÌNH Ở HUYỆN BỐ TRẠCH TỈNH
QUẢNG BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Chính trị
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

NGHỆ AN - 2013


2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc đến: phòng Sau Đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trường
Đại học Vinh, Quý thầy, cô trực tiếp giảng dạy lớp Cao học Lý luận và
phương pháp dạy học Chính trị khóa XIX tổ chức tại trường Đại học Vinh và
Phó Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Lương Bằng đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi hoàn


thành Luận văn này.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn: Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức và
Văn phòng Huyện ủy Bố Trạch; Văn phòng Ủy Ban nhân dân; lãnh đạo Hội
Liên hiệp Phụ nữ; Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Liên đoàn lao động
huyện Bố Trạch;Hội người Cao tuổi; Hội Liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở; bạn bè
trong và ngoài lớp, đồng nghiệp, gia đình đã nhiệt tình hỗ trợ, tạo điều kiện
thuận lợi và động viên trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện Luận văn, song
không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến
đóng góp và sự chỉ dẫn quý báu của Thầy, Cô và các bạn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả


3
MỤC LỤC


4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNVC

:

Công nhân viên chức

CLB

:


Câu lạc bộ

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

LHPN

:

Liên hiệp phụ nữ

Nxb

:

Nhà xuất bản

tr.c.n

:


Trước Công nguyên

THCS

:

Trung học cơ sở

UBMTTQ

:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

UBND

:

Ủy ban nhân dân


5
DANH MỤC CÁC BIỂU


6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình phát triển của lịch sử, gia đình có một vị trí và vai trò

đặc biệt. Gia đình là nơi con người sinh ra và lớn lên, có vai trò to lớn đối với
sự phát triển của cá nhân và xã hội. Gia đình là “cái nôi” nuôi dưỡng và giáo
dục con người có ích cho xã hội, là nơi bảo tồn nòi giống, duy trì và phát triển
đời sống hiện thực của con người. Gia đình có quan hệ gắn bó với xã hội, vừa
là tế bào và vừa là hạt nhân của xã hội. Gia đình là nhân tố tác động đến sự
vận động và phát triển của từng chế độ xã hội nhất định. Vì vậy, Liên Hợp
Quốc đã lấy năm 1994 là "Năm quốc tế gia đình” với chủ đề: “Gia đình
trong thế giới đổi thay - nguồn lực và trách nhiệm”. Các quốc gia trên thế
giới cũng nhận thức rõ rằng: củng cố sự vững chắc của gia đình là nhân tố
quan trọng để ổn định và phát triển đất nước.
Ở Việt Nam, vấn đề gia đình đã và đang được đặt ra với vị trí mang
tầm chiến lược quốc gia. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng ta khẳng định: Gia đình là
tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường
quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của
Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng
cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) đã chỉ rõ “trách nhiệm của gia đình trong việc giữ gìn và phát huy
những đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, nêu cao vai trò gương mẫu của
các bậc cha mẹ, coi trọng xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng mối quan hệ
khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội”. Đến Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, giá trị gia đình một lần nữa được Đảng nhấn mạnh: “Nâng


7
cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên
của mình có lối sống văn hoá, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi
người và là tế bào lành mạnh của xã hội”. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày
21/02/2005 của Ban Bí thư "Về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước" cũng đã khẳng định “Cần nhận thức rõ gia đình là một
trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi đầu tư
cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững”. Sở dĩ gia đình có vai trò
quan trọng đối với mỗi cuộc đời con người cũng như đối với sự trường tồn và
phát triển của xã hội như vậy, chính là do những giá trị của văn hóa gia đình.
Chính vì vậy, từ năm 2001 Chính phủ đã quyết định lấy ngày 28 tháng 6 hàng
năm là ngày gia đình Việt Nam và Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam chọn năm 2013 là năm gia đình Việt Nam. Điều đó không những thể
hiện sự nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về tầm quan trọng của gia đình và
văn hoá gia đình đối với vấn đề phát triển con người và xã hội, mà còn là định
hướng cho việc xây dựng gia đình, văn hóa gia đình phù hợp với xu thế phát
triển của đất nước.
Văn hóa gia đình là một bộ phận hợp thành của nền văn hóa Việt Nam.
Giữ gìn văn hóa gia đình cũng là góp phần bảo vệ truyền thống văn hóa Việt
Nam. Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng ngày nay,
cuộc sống của mỗi gia đình và của cả xã hội ngày càng được cải thiện. Nhịp
sống, và sự giao lưu văn hoá rộng mở, tác động thường xuyên, nhiều chiều đến
văn hóa gia đình và cộng đồng xã hội. Các giá trị văn hoá gia đình đứng trước
những câu hỏi: cần tiếp thu, lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống, chuẩn mực như thế nào?
Thành quả to lớn của sự nghiệp đổi mới mang lại đã làm cho bộ mặt
nông thôn huyện Bố Trạch ngày càng được khởi sắc và đổi thay; đời sống


8
nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao. Tuy nhiên đời sống văn hóa xã
hội, nhiều vấn đề về văn hóa gia đình có những biểu hiện lệch chuẩn. Mặc dù
chúng ta đã ra sức đấu tranh, ngăn chặn nhưng những tệ nạn xã hội và các loại
tội phạm về tham nhũng, ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm… vẫn diễn ra

phức tạp. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vừa đưa đến
những thời cơ, lại mang đến không ít thách thức.
Trước thực tế đó, việc tìm ra nguyên nhân, những yếu tố tác động, ảnh
hưởng đến gia đình và văn hóa gia đình cũng như đề xuất những biện pháp khắc
phục xây dựng văn hóa gia đình trong tình hình mới là đòi hỏi cấp bách hiện nay,
góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng để vận dụng tổ chức thực
hiện “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thực sự là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường quan trọng trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách”. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả xây dựng văn
hoá gia đình ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ với mong muốn góp phần nâng cao nhận thức và năng
lực hoạt động thực tiễn của bản thân và xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, trên phạm vi cả nước đã xuất hiện nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu khoa học về gia đình và văn hóa gia đình với những
cách tiếp cận khác nhau.
Thứ nhất, Những vấn đề chung về gia đình, văn hoá gia đình, xây
dựng văn hoá gia đình: Trong công trình Một vài nét nghiên cứu về gia đình
Việt Nam (1990), nhóm tác giả Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia đình
và Phụ nữ, thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia đã
nghiên cứu về vai trò, vị trí của gia đình trong xã hội, nhưng mới chỉ đặt vấn
đề và gợi ý là chủ yếu.
Tại công trình: Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam
(1991), của tập thể các nhà khoa học Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa


9
học xã hội và Nhân văn quốc gia phối hợp với Khoa xã hội học Trường Đại
học Gothenburg (Thụy Điển), Nxb Khoa học xã hội, các tác giả Việt Nam và
Thụy Điển đã tiến hành khảo sát thực tiễn ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước

về đặc điểm gia đình Việt Nam trước những năm 1990.
Công trình Văn minh phương Đông và gia đình Việt Nam truyền thống
(1994) (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia do Quỹ Toyota
Foundation tài trợ) đã có những khảo sát và nghiên cứu, đánh giá bước đầu về
gia đình truyền thống ở Việt Nam qua một số thời mốc lịch sử của Việt Nam.
Trong Từ điển văn hóa gia đình, tác giả Phạm Trường Khang, Hoàng
Lê Minh, Nxb Văn hóa - Thông tin, đã trình bày những điều cơ bản nhất về
văn hóa, giáo dục, ứng xử trong gia đình hiện đại, quan hệ giữa cha mẹ con
cái, tâm sinh lý các lứa tuổi…
Sách Văn hóa tâm lý gia đình (2001), của hai tác giả Vũ Hiếu Dân và
Ngân Hà, Nxb Văn hóa - Thông tin đã cung cấp một số tình huống, thông tin
về cách ứng xử của các thành viên trong gia đình với nhau và một số phương
pháp dạy dỗ con cái trong gia đình.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cấp tới những vấn đề lý luận và
thực tiễn về đặc điểm, chức năng gia đình Việt Nam, những nội dung cơ bản
nhất về văn hóa, giáo dục, ứng xử trong gia đình, quan hệ giữa cha mẹ con
cái... để hình thành nên những hệ giá trị về văn hóa gia đình.
Thứ hai, các đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu gia đình, xây dựng
gia đình văn hoá dưới các góc độ triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, văn
hóa học, có thể thống kế một số công trình sau: Vai trò của gia đình trong việc
giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, (2001), Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của Nghiêm Sĩ Liêm (Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh). Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ
nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay, (2003), Luận án tiến sĩ Triết học, Chuyên


10
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, của Dương Thị Minh (Học viện Chính trị-Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh). Gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em của
nước ta hiện nay, (2004), Luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa
xã hội khoa học của Phạm Thị Xuân (Học viện Chính trị-Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh). Phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia
đình văn hoá ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ Triết học,
chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học của Lê Cẩm Lệ... Văn hoá gia đình
với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam của Võ Thị
Hồng Loan. Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn hóa học của Nguyễn Thị
Nguyệt. Văn hóa gia đình trong việc giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường tiểu
học Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành văn hóa học của Lê Thị Hiền (Hưng Yên)…
Thứ ba, nhóm nghiên cứu về vai trò của văn hoá gia đình và sự biến đổi
của gia đình, giá trị văn hoá gia đình trong bối cảnh đổi mới của đất nước. Trong
thời gian vừa qua về lĩnh vực nghiên cứu này có một số công trình tiêu biểu
như sau: Văn hoá gia đình và sự phát triển xã hội (1994) của nhiều tác giả, do
nhà văn Lê Minh chủ biên, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Văn hoá gia đình
với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em (2001) của PGS.TS Lê
Như Hoa, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. Người phụ nữ trong văn hoá gia
đình đô thị (2003) của TS. Lê Quý Đức và Ths. Vũ Thị Huệ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá (1998) của tác
giả Lê Ngọc Văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Văn hoá gia đình Việt Nam (2007)
của GS. Vũ Ngọc Khánh, Nxb Thanh niên, Hà Nội. “Vai trò của gia đình
trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”, Nxb Phụ nữ, Hà Nội,
1997. Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2003) của GS. Lê
Thi (kết quả Cuộc điều tra về gia đình Việt Nam có quy mô lớn nhất từ trước
tới nay), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt
Nam (2012) của PGS.TS Lê Ngọc Văn, Nhà xuất bản khoa học xã hội.


11
Nhìn chung, đây là những công trình nghiên cứu một cách có hệ thống
nhiều nội dung quan trọng về gia đình và biến đổi gia đình trong bối cảnh xã
hội Việt Nam đương đại. Trên cơ sở những đặc điểm, xu hướng, nguyên nhân

biến đổi của gia đình Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đề xuất một số
phương hướng và những giải pháp giúp cho gia đình Việt Nam thích ứng, tồn
tại và phát triển trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
toàn cầu hóa hiện nay của đất nước.
Dưới những góc độ khác nhau, các luận án, luận văn nói trên đã đề cập
đến vai trò của giáo dục gia đình, đặc biệt giáo dục nhân cách; vai trò của phụ
nữ trong gia đình; các đặc điểm, vai trò văn hoá gia đình ở nước ta hiện nay.
Đồng thời, các đề tài cũng đưa ra được những phương hướng, giải pháp thiết
thực góp phần xây dựng gia đình Việt Nam, phát huy vai trò to lớn của gia
đình đối với sự phát triển con người, chủ thể của sự nghiệp đổi mới, phát triển
đất nước trong giai đoạn mới. Ngoài ra, ở nước ta hàng năm còn có hàng trăm
bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí nghiên cứu về văn hoá gia
đình. Nhưng, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu “Nâng cao hiệu
quả xây dựng văn hoá gia đình ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong giai
đoạn hiện nay”. Từ yêu cầu của thực tiễn khách quan, chúng tôi thực hiện luận
văn này với mong muốn bước đầu nhìn nhận một cách toàn diện và hệ thống
về vấn đề văn hoá gia đình ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tổng hợp những vấn đề lý luận chung về văn hoá gia đình và
khảo sát, đánh giá thực trạng việc xây dựng văn hóa gia đình ở huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả văn hóa gia đình tại địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.


12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về văn hoá gia đình

- Phân tích làm rõ vai trò của văn hóa gia đình đối với sự phát triển của
xã hội.
- Khảo sát, phân tích thực trạng văn hoá gia đình và những vấn đề đặt
ra đối với văn hóa gia đình ở huyện Bố Trạch hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây
dựng văn hóa gia đình ở huyện Bố Trạch trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các phương diện lý luận về văn hoá gia đình,
tập trung khảo sát về tình hình văn hoá gia đình và những vấn đề đặt ra
đối với văn hoá gia đình ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay (Từ
năm 2003 – 2013).
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về văn hóa gia đình.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng
hợp, phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp nghiên cứu điều tra xã
hội học, phương pháp thống kê... để tiếp cận, giải quyết những yêu cầu
đặt ra của đề tài.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nhìn chung, hiệu quả xây dựng văn hoá gia đình ở huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay chưa cao. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến thực trạng này, trong đó nhận thức của các gia đình chưa chú trọng
lắm, còn nhiều vấn đề trong cuộc sống cần ưu tiên hơn là nguyên nhân chủ


13
yếu. Nếu tuyên truyền, vận động tốt về xây dựng văn hoá gia đình trong điều
kiện mới sẽ giúp các gia đình có nếp sống văn hoá cao hơn.
7. Đóng góp mới của luận văn

- Tổng hợp và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hoá gia
đình ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa
gia đình và phát huy vai trò của văn hóa gia đình trong đời sống xã hội ở
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho học viên và sinh viên chuyên ngành
LL & PPDHBM Chính trị và các cơ quan chức năng khi nghiên cứu về văn hóa
gia đình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung đề tài gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả xây dựng văn
hoá gia đình trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Thực trạng việc xây dựng văn hóa gia đình ở huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng văn
hoá gia đình ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.


14
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG
VĂN HOÁ GIA ĐÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Văn hóa gia đình và cấu trúc của văn hóa gia đình trong giai
đoạn hiện nay
1.1.1. Văn hóa gia đình
- Khái niệm về gia đình
Trong lịch sử xã hội loài người, gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng,
nó là một trong hai nền sản xuất chính của xã hội, là “tế bào” của xã hội. “Gia

đình” là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự vận động, biến đổi của xã
hội. Mỗi giai đoạn lịch sử có quan niệm, những loại hình gia đình khác nhau.
Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người sinh ra, bắt đầu một
cuộc sống. Trong suốt cuộc đời, gia đình luôn là điểm tựa, là cội nguồn của
tình cảm là cái nôi của sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho cuộc sống
của con người và cho xã hội. Gia đình là một nhóm xã hội được cấu trúc theo
những chuẩn mực văn hoá nhất định, như một tập hợp những mối quan hệ
giữa các cá nhân (vợ chồng, bố mẹ, con cái và anh chị em,...). Gia đình là một
thành quả văn hoá đặc thù của con người. Chính vì vậy, gia đình luôn là đề tài
thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều người, nhiều giới, nhiều ngành
khoa học khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, vì mục đích nghiên cứu không
giống nhau, cách tiếp cận khác nhau nên các quan điểm về gia đình được đưa
ra cũng rất phong phú, đa dạng. Khi luận chứng về những điều kiện cho sự
tồn tại và phát triển của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một cách
tiếp cận rất căn bản về gia đình: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [37; 50]. Với quan


15
niệm này, khái niệm gia đình được C.Mác đề cập tới hai khía cạnh: Thứ nhất,
gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người,
cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân con người; Thứ hai, gia đình đựơc
tạo ra chủ yếu bởi hai mối quan hệ: quan hệ hôn nhân (chồng - vợ) và quan hệ
huyết thống (cha, mẹ - các con).
Tuy nhiên, vấn đề gia đình không chỉ được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác nghiên cứu. Vì tầm quan trọng của nó trong quá trình phát triển
của con người, xã hội, vấn đề này còn được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tổ
chức đề cập đến trong những văn bản khác nhau, như bàn về các quyền của
con người và gia đình. Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã xác định “Gia đình là yếu

tố tự nhiên và cơ bản của xã hội và có quyền hưởng sự bảo vệ của xã hội và
của Nhà nước”. Hiến chương cộng đồng Châu Âu khẳng định: “Gia đình với
tư cách là tế bào của xã hội, pháp lý và kinh tế thích hợp để đảm bảo sự phát
triển của nó”. Hai quan điểm này thể hiện rõ sự gắn kết mật thiết giữa gia
đình và xã hội, vai trò của gia đình đối với xã hội.
Ở Việt Nam gia đình cũng được xuất hiện từ rất sớm. Từ buổi bình
minh lịch sử cho đến nay, gia đình vẫn được coi là gốc, là nền tảng của đất
nước. Quan hệ gia đình là gốc, là trung tâm trong đời sống xã hội, trong đời
sống tâm linh của mỗi người cũng như của toàn cộng đồng. Đây được coi là
một đặc trưng của con người Việt Nam truyền thống. Điều này không chỉ
được người Việt Nam mà ngay cả những người nước ngoài cũng dễ dàng
nhận ra. Họ cho rằng: “Tinh thần gia đình là đặc tính cơ bản nhất của con
người Việt Nam thuộc tất cả mọi tầng lớp. Đối với họ, “gia đình là tất cả”
hoặc “Gia đình là cơ sở, là hạt nhân của xã hội An Nam. Đó là một trục trung
tâm mà mọi lợi ích, mọi ý nghĩ đều quay xung quanh nó” [22; 23-24].
Khi bàn tới khái niệm “gia đình”, một số tác giả cũng có nhận định
khác nhau, tuỳ theo góc độ tiếp cận. Từ xa xưa, ông cha ta đã có quan niệm
rất đúng rằng gia đình (nhà, gia tộc, dòng họ) là gốc của nước, gia đình gắn


16
bó chỉnh thể với làng và nước tạo nên một hệ thống chặt chẽ trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước, trong sinh sống làm ăn, giao tiếp, ứng xử, nối dòng
truyền thống cả về mặt sinh học lẫn văn hóa. Gia đình chính là một trong ba
mắt xích trọng yếu để từ đó có thể hiểu sâu sắc về đất nước, con người, lịch
sử và xã hội Việt Nam.
Thực tế, gia đình là một khái niệm phức hợp bao gồm nhiều yếu tố sinh
học, tâm lý, văn hóa, kinh tế… khiến nó không giống bất kỳ một nhóm xã hội
nào. Từ góc độ nghiên cứu khác nhau của từng bộ môn khoa học để có thể
đưa ra những khái niệm cụ thể.

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Gia đình là đơn vị xã hội, thành lập trên
cơ sở dòng máu, bắt đầu có từ thời đại Thị tộc mẫu hệ, trong thời đại phong kiến
thường có cha mẹ, con cháu, có khi chắt nữa, trong thời đại Tư bản chủ nghĩa
thường chỉ có vợ chồng và con cái” [50; 113]. Định nghĩa này khái quát được
một số dấu hiệu đặc trưng của gia đình (chung sống cùng mái nhà, là đơn vị
kinh tế), về cơ sở hình thành, duy trì, biến đổi của gia đình trong lịch sử và
khẳng định gia đình là đơn vị xã hội nhưng chưa nêu được vai trò của gia đình
với xã hội qua các chức năng của nó. Có thể nói, dưới góc độ ngôn ngữ, định
nghĩa gia đình chưa thật đầy đủ, cần phải có định nghĩa mới về gia đình nhằm
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.
“Gia đình” nhìn từ góc độ xã hội học
Gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy có thể xem xét
gia đình như một nhóm xã hội nhỏ, đồng thời như một thiết chế xã hội có vai
trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xã hội hóa con người. Khi nói “gia
đình là tế bào của xã hội” cũng cần lưu ý rằng chính gia đình là một loại quan
hệ xã hội đặc biệt giữa các thành viên vợ, chồng, cha mẹ, con cái... Theo Mác,
gia đình lúc đầu là quan hệ xã hội duy nhất, về sau trở thành quan hệ phụ
thuộc. Khi mà những nhu cầu tăng lên đẻ ra những quan hệ xã hội mới. Gia


17
đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên
của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ con
nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm
đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính
tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
PGS.TS Lê Như Hoa cho biết: “Một số nhà xã hội học quan niệm gia
đình là một nhóm người” [25; 24]. Tác giả đã trích dẫn các quan điểm tiêu
biểu của các nhà xã hội Phương Tây E.W.Burgess và H.J.Cocker coi: gia đình
là một nhóm người được thống nhất với nhau bởi những mối quan hệ hôn

nhân, huyết thống hoặc nhận con nuôi; tạo thành một hộ duy nhất, tác động
qua lại và giao tiếp với nhau theo vai trò xã hội riêng từng người trong số họ:
là chồng vợ, là mẹ cha, anh trai và em gái; tạo thành một nền văn hoá chung.
Kingley Davis định nghĩa gia đình: “Là một nhóm người mà quan hệ của họ
với nhau dựa trên cơ sở dòng dõi và do đó họ là họ hàng thân thích của nhau”
[25; 24]. Các định nghĩa nói trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh bản chất của
gia đình nhưng sự khái quát khá chung chung, không rõ bản chất, chức năng
và sự tác động của gia đình với xã hội và ngược lại.
Nhà nghiên cứu Lê Thi quan niệm:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành
trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh quan hệ hôn
nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại).
Đồng thời gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi
dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống các thành viên gia đình gắn bó với
nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm), giữa họ thường
có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ
(được ghi rõ trong luật hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời trong gia


18
đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và cấm đoán quan hệ
tình dục giữa các thành viên [47; 42].
Ở đây tác giả đề cập tới nhiều nét đặc trưng, bản chất cơ bản của gia
đình nhưng nặng nề về trình bày phân tích chưa khái quát cô động.
Như vậy, dưới góc độ xã hội học, khái niệm gia đình cần được bổ sung
và khái quát cô động phù hợp hơn.
“Gia đình” dưới góc độ tâm lý học
Trong sách “Tâm lý học gia đình”, Ngô Công Hoàn đã đưa ra quan niệm:
“Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết
thống, tâm sinh lý, có chung các giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời

điểm lịch sử nhất định” [26; 26]. Tác giả Nguyễn Đình Xuân trong cuốn sách
“Giáo dục đời sống gia đình” lại quan niệm: “Gia đình là nhóm nhỏ được liên
kết vợ, chồng (hôn nhân) theo quy luật xã hội trước tiên, sau đó mới là quy luật
tính dục tự nhiên” [58; 36]. Các định nghĩa đó đã đề cấp tới nhiều nét bản chất
của gia đình nhưng vai trò và quan hệ tác động của gia đình - xã hội chưa
được khái quát. Nó cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu về gia đình phải có sự bổ
sung phát triển.
“Gia đình” dưới góc nhìn của chủ nghĩa xã hội khoa học
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học định nghĩa: “Gia đình là hình thức
cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành duy trì và củng cố trên cơ sở hôn
nhân và huyết thống” [57; 178]. Đây là định nghĩa đã phản ánh được những nét
bản chất nhất của gia đình. Nhưng nó cũng chưa thể phản ánh rõ một số nét bản
chất cơ bản khác của gia đình.
Tuy nhiên, xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn
vị tình cảm - tâm lý mà còn là một tổ chức kinh tế, tiêu dùng (sở hữu, sản
xuất, thu nhập, chi tiêu); một môi trường giáo dục - văn hoá (văn hoá gia đình
và cộng đồng); một cơ cấu - thiết chế xã hội (có cơ chế và cách thức vận động
riêng...) [57; 178].


19
Liên Hợp Quốc, trong cuốn từ điển “Nhân khẩu học” cho rằng: “Gia
đình là một đơn vị được quy định thông qua mối liên hệ của các cá nhân, nói
lên sự tái thế hệ sau, đặc biệt ở mức độ mà những mối quan hệ này được
những quy phạm và thủ tục pháp lý phê chuẩn” [33; 96].
Gần đây, UNESCO cũng đưa ra quan niệm, gia đình là một nhóm
người có quan hệ họ hàng cùng chung sống và có ngân sách chung. Các định
nghĩa này cũng có những đóng góp và những hạn chế tương tự như quan niệm
gia đình của Tâm lý học, Xã hội học...
“Luật hôn nhân và gia đình” của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2000, khẳng định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với
nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát
sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định [43;12]. Đây là
quan niệm chính thống của nhà nước ta, là cơ sở pháp lý để giải quyết những
vấn đề liên quan đến gia đình nhưng quan niệm này chưa khái quát rõ nét bản
chất quan trọng: gia đình có vai trò to lớn đối với xã hội.
Thực tế cuộc sống gia đình hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học - công nghệ và trước những biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đã xuất hiện một số quan niệm khá lạ lùng về gia đình. Ở
phương Tây, nhiều học giả đưa ra những quan niệm mới về gia đình, từ kiểu
“gia đình không con”, “gia đình khiếm khuyết”, đến “gia đình hợp đồng”,
“gia đình đồng tính luyến ái”... Lại có những gia đình chị em chăm nuôi lẫn
nhau, tuy chúng không có bố mẹ nhưng không thể nói là họ không có gia
đình. Còn có những kiểu gia đình không hoàn thiện, như: “gia tình thương”
(do các nhân, hoặc nhóm tìm những trẻ mồ côi đưa về chăm nuôi dạy dỗ), gia
đình “gà trống nuôi con”, “phụ nữ đơn thân nuôi con”... Điều này thể hiện sự
đa dạng, phức tạp của sự biến đổi về hôn nhân và gia đình, những chuẩn mực
của gia đình truyền thống và gia đình hạt nhân đang bị xói mòn trong xã hội.


20
Tuy nhiên đây không phải là những mô hình gia đình phổ biến đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới.
Từ thực tế đã phân tích, cần có một định nghĩa gia đình mang tính khái
quát cao, phản ánh được khá đầy đủ nét bản chất đặc trưng về gia đình phù
hợp với lịch sử hình thành và phát triển cùng những biến đổi của gia đình.
Nhưng đây là vấn đề không đơn giản đặc biệt trong xã hội hiện đại, cùng với
sự vận động, biến đổi của xã hội thì các hình thức, kiểu loại gia đình cũng
biến đổi hết sức phức tạp, đa dạng.
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, đặc biệt trong giai

đoạn hiện nay, vấn đề gia đình và khái niệm gia đình cần được nghiên cứu
thêm. Tuy nhiên, trong một chừng mức nhất định, ở những nét cơ bản, mọi
người đều có những điểm chung nhất về nội dung của khái niệm gia đình như:
Gia đình là tế bào của xã hội, trong đó các thành viên cùng sinh sống dựa trên
mối quan hệ hôn nhân, hoặc huyết thống, cùng chung sống với nhau giúp đỡ,
yêu thương, kính trọng lẫn nhau và có trách nhiệm về đạo đức với nhau, cùng
có chung những giá trị vật chất và tinh thần, cùng thực hiện các chức năng
khách quan phù hợp với yêu cầu, đặc điểm mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của giới nghiên cứu, dưới góc độ chuyên
ngành của chính trị học, chúng tôi quan niệm: “Gia đình là khái niệm được
dùng để chỉ một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân
và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái,
ông bà, họ hàng nội ngoại) cùng chung sống. Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng
cho cả một đời người, là môi trường văn hoá đầu tiên giáo dục nếp sống và
hình thành nhân cách, là nơi hội tụ, chọn lọc và sáng tạo văn hoá của con
người và xã hội loài người”.
Tóm lại, gia đình là tế bào của xã hội, là tổ chức xã hội đầu tiên của
cuộc sống con người. Nó là một đơn vị kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) và là một


21
tập thể mang trọng trách truyền chủng. Đây là một tập thể căn bản, phổ thông
nhất thế giới vì không có một nền văn hóa, một thế hệ nào không có gia đình,
chỉ khác nhau là ở mỗi hình thái xã hội sẽ có các hình thức gia đình tương
ứng, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
- Khái niệm văn hoá
Văn hóa là một khái niệm không chỉ có nội dung cực kỳ rộng lớn, mà
hình thức thể hiện của nó cũng vô cùng phức tạp, không dễ nắm bắt. Thuật
ngữ văn hóa xuất hiện rất sớm. Ngay từ thời La Mã cổ đại, trong tiếng La tinh
đã xuất hiện từ “văn hóa” (culture). Từ văn hóa lúc đầu có nghĩa “gieo trồng

trên đất đai” sau chuyển nghĩa sang “vun trồng cho trí óc, vun trồng tin thần,
giáo dục con người”. Theo định nghĩa của từ Hán - Việt “văn hoá” có nghĩa là
“văn trị giáo hoá”, “hoá nhân dịch tục” tức là phải giáo dục cảm hoá con
người để có thể quản lý, điều hành xã hội bằng “văn”. Thông qua nhân nghĩa,
nhân văn coi trọng giáo dục để bình ổn xã hội, tạo lập kỷ cương. Văn hoá
trong từ nguyên của cả phương Đông và phương Tây đều có chung một nghĩa
căn bản là sự giáo hoá, vun trồng nhân cách con người, làm cho con người và
cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Trong báo cáo "Văn hóa và sự phát triển của chủ nghĩa Tư bản ở các
trung tâm chính của nó" của tác giả Đỗ Lộc Liệp đã viện dẫn lời nhà Triết
học và cổ sinh học người Pháp - Viện sĩ TeilharDe Chardin (1881 - 1955)
cho rằng sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ khi xuất hiện sự sống đó là sinh
quyển, rồi đến sự xuất hiện tri quyển chỉ có ở loài người; Tri quyển chính là
văn hóa biểu hiện thành “thiên nhiên thứ hai”, “thế giới nhân tạo” của con
người [35; 9].
Theo Đác Uyn thì văn hóa hình thành là do: Thứ nhất, có sự tác động của
chọn lọc tự nhiên, khích lệ, đã tạo thuận lợi cho những người có năng khiếu tinh
thần phát triển, làm cho sự đoàn kết ở cộng đồng thêm chặt chẽ. Thứ hai, nếp
ứng xử mang lại lợi ích cho xã hội được truyền lại cho thế hệ sau.


22
Theo quan niệm của J.Sepanxki, nhà xã hội học Ba Lan thì “văn hóa”
là toàn bộ sản phẩm vật chất và tinh thần của hoạt động người, những hệ
thống giá trị và khuôn mẫu ứng xử được cộng đồng xã hội thừa nhận và
truyền lại cho các cộng đồng người khác và cho các thế hệ tương lai thông
qua các thiết chế xã hội - văn hóa của nó [44; 52].
Các định nghĩa trên đều xem văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực của
con người sống trong một cộng đồng xã hội nhất định. Hoạt động sáng tạo ấy
đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu tồn

tại và phát triển, tạo ra những giá trị và chuẩn mực xã hội đóng vai trò nền tảng
tinh thần, điều tiết và thúc đẩy xã hội tiến lên. Toàn bộ những thành quả sáng tạo
ấy được tích lũy lại, thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa như gia đình, nhà
trường, mà truyền lại cho các thế hệ tương lai và cho các cộng đồng khác nữa.
Văn hóa không chỉ là chất keo liên kết làm cho xã hội phát triển bền vững mà
còn là cầu nối giữa các thế hệ, giữa các cộng đồng người và giữa cá nhân và
cộng đồng người, tạo nên tính liên tục và đa dạng của đời sống.
F.Mayor, nguyên tổng giám đốc UNESCO quan niệm: “Văn hoá là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân các cộng đồng)
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy hình thành
hệ thống giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những đặc tính riêng của mỗi
dân tộc” [52; 23].
Trong hội nghị quốc tế của UNESCO năm 1982 tại Mêhicô, người ta
đưa ra hơn 200 định nghĩa văn hóa, cuối cùng chấp nhận một quan niệm về
văn hóa như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét
riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của
một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá
trị, những tập tục và tín ngưỡng”.


23
Đứng trước sự tiến công mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá, vấn đề giữ
gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá của các dân tộc, các quốc gia đang
gặp phải những thách thức to lớn đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Vì
vậy, UNESCO đưa ra định nghĩa về văn hoá trên cơ sở nhấn mạnh đến nội
dung đó nhằm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong
việc chống xu thế nhất thể hoá văn hoá, hướng tới tôn trọng và bảo vệ những
giá trị văn hoá độc đáo của các quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh định
nghĩa về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,

loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [39; 431].
Qua một số quan niệm trên cho thấy, lao động sáng tạo là cội nguồn,
khởi điểm của văn hóa, nhưng sáng tạo phải hướng về các giá trị nhân bản,
nhằm hoàn thiện con người thì mới trở thành văn hóa đích thực. Định nghĩa
của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về văn hóa thể hiện tinh thần của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, đã phản ánh được bản chất của văn hóa chính là hoạt động
sáng tạo của con người trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Mặt
khác, trong điều kiện chỗ này, chỗ kia những người Mác xít quan niệm tôn
giáo là đối tượng của cách mạng cần loại trừ ra khỏi đời sống xã hội, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh coi tôn giáo chính là văn hóa, là sản phẩm sáng tạo của con
người để “thích ứng với nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Sự
sáng tạo độc đáo và sâu sắc trong định nghĩa về văn hóa của Người thể hiện ở
chỗ Người không chỉ quan tâm đến kết quả của sự sáng tạo mà còn chú ý đến
“phương thức sử dụng” những kết quả đó. Nếu phương thức sử dụng những


24
kết quả đó không đúng sẽ gây ra phản văn hóa. Tư tưởng thể hiện trong định
nghĩa văn hóa của Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất gần gũi với định nghĩa của
UNESCO đưa ra tại Hội nghị quốc tế năm 1982 đã nêu ở trên. Mặc dù có
nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa, tuy nhiên chúng ta có thể tìm được
những điểm chung cơ bản như sau:
Thứ nhất, văn hoá là hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình
lịch sử, chỉ trình độ con người. Văn hoá biểu hiện ở những hệ giá trị xã hội.
Nói cách khác, văn hoá là toàn bộ sự hiểu biết, kinh nghiệm của con người

được tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội.
Thứ hai, văn hoá là mô hình các thiết chế xã hội để nhằm đảm bảo cho
sự trao truyền, vận dụng các giá trị, chuẩn mực văn hoá. Hệ thống thiết chế xã
hội - văn hoá bao gồm: gia đình, nhà trường, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã
hội, tôn giáo. Các tổ chức ấy hình thành trên cơ sở các mối quan hệ giữa các
thành viên của nhóm, của cộng đồng với các quy định, thể chế, giá trị, truyền
thống của nhóm, của cộng đồng ấy. Các mô hình thiết chế xã hội đó có sức
mạnh vật chất, tinh thần để thực hiện các chức năng văn hoá mà xã hội đặt ra.
Trong các mô hình thiết chế - xã hội đó, tổ chức gia đình có một vị trí đặc biệt
quan trọng, gắn bó cả cuộc đời con người. Bởi vì con người bắt đầu từ gia
đình, văn hóa con người bắt đầu từ văn hóa gia đình và mang dấu ấn của văn
hóa gia đình. Gia đình như một nhóm xã hội được cấu trúc theo những chuẩn
mực văn hóa nhất định. Theo cách nhìn đó, gia đình là một thành quả văn hóa
của con người, hơn nữa là một thành tố văn hóa con người. Vì vậy, gia đình là
thiết chế xã hội - văn hoá quan trọng trong các mô hình thiết chế xã hội.
Thứ ba, văn hoá chính là phương thức ứng xử của con người. Nếu con
người muốn tồn tại và phát triển, con người không chỉ ứng xử với môi trường tự
nhiên mà còn ứng xử với môi trường xã hội (quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội
và cả văn hoá của con người), không như loài vật chỉ tồn tại với tự nhiên và ứng


25
xử trong môi trường tự nhiên. Các phương thức, quy tắc ứng xử tạo nên hệ thống
giá trị chuẩn mực, khuôn mẫu được tích luỹ trong đời sống cộng đồng tạo thành
hệ giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng. Gia đình là môi trường đặc biệt, thể hiện
phương thức ứng xử đầu tiên của con người, để ứng xử xã hội.
Thứ tư, văn hoá gắn với giáo dục, đào tạo con người hay nói cách khác,
giáo dục là một hiện tượng văn hoá của con người và cũng là một phương
thức trao truyền văn hoá. Con người sinh ra chỉ mới là cá thể, để được là cá
nhân, đặc biệt có nhân cách, con người phải chịu sự tác động của môi trường

xã hội. Nếu không có giáo dục, con người sẽ về trạng thái dã man, mông muội
như động vật. Như vậy, văn hoá chỉ có ở loài người, đó là năng lực học hỏi,
thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, phương thức ứng xử, hệ thống biểu
tượng, thiết chế, thể chế xã hội nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau
để tồn tại và phát triển.
Thứ năm, văn hóa trong thời đại ngày nay là nền tảng tinh thần của xã
hội. Trước đây chúng ta thường lý giải cơ sở kinh tế là nền tảng xã hội, trên
cơ sở đó xây dựng kiến trúc thượng tầng trong đó có văn hóa. Vì vậy văn hóa
chịu sự quy định chặt chẽ của nền kinh tế. Tuy nhiên, đời sống xã hội có hai
mặt vật chất và tinh thần, nếu kinh tế là nền tảng vật chất thì văn hóa là nền
tảng tinh thần của đời sống xã hội, và với tư cách như vậy văn hóa vừa là mục
tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, sự phát triển của
mỗi quốc gia - dân tộc chỉ có thể trở nên năng động, hiệu quả, bền vững
chừng nào quốc gia đó đạt được sự kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá
trong tiến trình phát triển.
Từ nội dung của văn hoá, ta có thể thấy rằng gia đình là một hiện tượng
văn hoá của con người, xuất hiện và tồn tại vì sự tồn tại và phát triển của con
người. Gia đình biến đổi cùng sự đổi thay của các cộng đồng người trong quá
trình lịch sử văn hoá của các dân tộc, của các quốc gia, các thời đại. Văn hoá là
tiền đề quan trọng trong sự hình thành gia đình và là yếu tố cơ bản của gia đình.


×