Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Tổ chức dạy học dự án nội dung kiến thức phản ứng hạt nhân môn vật lý chương trình đào tạo bậc đại học ở trường sỹ quan phòng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.49 MB, 109 trang )

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang trong quá trình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đảng và
Nhà nước luôn xác định con người là nhân tố quyết định cho q trình này.
Chính vì vậy chiến lược cho giáo dục và đào tạo luôn được Đảng và Nhà
nước coi trọng. Điều này được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và những quy định của các cấp, ban, ngành. Trong Điều 9, luật
Giáo dục năm 2005 quy định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực” 24, tr.3 . Trong Luật cũng
quy định rõ: “Phát triển giáo dục phải gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, tiến bộ khoa học, cơng nghệ, củng cố quốc phịng, an ninh… Kết hợp
giữa đào tạo và sử dụng” 24, tr.3 .
Để tạo ra nguồn nhân lực cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước, giáo dục đại học giữ vai trò quan trọng. Mục tiêu của giáo dục đại
học được quy định trong Điều 39, luật Giáo dục năm 2009 quy định: “Mục
tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề
nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ tổ quốc” 24, tr.11. Để thực hiện được mục tiêu này cần có
phương pháp đào tạo phù hợp. Trong luật Giáo dục năm 2005 có nêu:
“Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học phải coi trọng bồi
dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển
tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện cho người học
tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng” 24, tr.12.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của khoa học, công
nghệ. Khoa học, công nghệ đã và đang phát triển hết sức mạnh mẽ, đạt được
nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Kho tàng tri thức của nhân loại ngày càng dày
lên nhanh chóng. Cùng với đó, sự phát triển của cơng nghệ thơng tin và xu


2


hướng hội nhập của các quốc gia, của các nhà trường khiến cho kiến thức
khơng cịn nằm trong phạm vi nhà trường. Theo đó, hệ thống giáo dục ở mỗi
quốc gia liên tục phải có những đổi mới để phù hợp với tình hình, đặc biệt là
đổi mới giáo dục ở bậc đại học – bậc học tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao cho mỗi quốc gia. Ở nước ta, việc đổi mới giáo dục ở bậc đại học đặc biệt
được đề cao trong những năm gần đây, trong đó đổi mới về phương pháp đào
tạo là một khâu quan trọng. Tháng 11 năm 2005, Chính phủ ra Nghị quyết “về
đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt nam giai đoạn
2006 – 2020”. Trong Nghị quyết có nêu: “Triển khai đổi mới phương pháp
đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học; phát huy tính chủ động của người
học; sử dụng cơng nghệ thơng tin và truyền thông trong hoạt động dạy và học.
Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng internet.
Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước”

8, tr.5 . Như vậy, cốt lõi của việc đổi mới giáo dục ở bậc đại học là chuyển từ
đào tạo kiến thức và kỹ năng sang chủ yếu là đào tạo về năng lực. Những chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục - đào tạo luôn được
Bộ Quốc phòng quán triệt và tổ chức thực hiện ở hệ thống các trường trong
Quân đội. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương) đưa ra
Nghị quyết số 86 về công tác giáo dục – đào tạo trong tình hình mới, trong đó
có nêu: “Đẩy mạnh vận dụng phương pháp dạy học hiện đại, sát thực tế, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và bồi dưỡng năng lực tư duy, rèn luyện
năng lực hoạt động thực tiễn cho người học...” 11, tr.21 .
Trường Sĩ quan Phịng hóa – binh chủng Hố học là nơi đào tạo chủ
chốt nguồn nhân lực cho bộ đội Hoá học - lực lượng chuyên môn của Quân
đội nhân dân Việt Nam, có chức năng bảo đảm hố học cho các hoạt động tác
chiến và làm nòng cốt trong phòng chống vũ khí huỷ diệt lớn (vũ khí hạt

nhân, vũ khí hố học và vũ khí sinh học). Tháng 9 năm 1998, Thủ tướng
Chính phủ đã ký quyết định giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học cho Nhà
trường. Từ đó, đối tượng đào tạo có trình độ đại học trở thành đối tượng đào
3


tạo trọng tâm, mũi nhọn của Nhà trường.
Trong những năm gần đây, tại trường Sĩ quan Phịng hố, để nâng cao
chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối tượng đào tạo bậc đại học thì việc đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng của Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc
phòng được Nhà trường xác định là một trong những giải pháp hàng đầu. Tuy
đạt được nhiều kết quả khả quan trong cơng tác này nhưng vẫn cịn một số
hạn chế nhất định, nhất là ở một số môn khoa học cơ bản. Trong hệ thống các
môn học tại Nhà trường, môn Vật lý là một trong những môn học quan trọng.
Ở đó, kiến thức về “Phản ứng hạt nhân” là kiến thức cơ sở cho nhiều môn học
khác. Thực tế tại trường Sĩ quan Phịng hố, việc dạy học nội dung “Phản ứng
hạt nhân” đang được tiến hành theo phương pháp thuyết trình truyền thống và
việc dạy học nội dung này theo phương pháp truyền thống hiện nay đang gặp
phải những khó khăn nhất định. Kiến thức về phản ứng hạt nhân đặc biệt là
những ứng dụng của nó rất phức tạp. Những ứng dụng của phản ứng hạt nhân
vô cùng đa dạng và vẫn tiếp tục phát triển. Điều đó địi hỏi kiến thức về phản
ứng hạt nhân cần liên tục được cập nhật để phù hợp với thực tiễn tình hình.
Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học ở nội dung kiến thức này
cần coi trọng bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự
nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều
kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng là hết sức
cần thiết. Một trong những kiểu tổ chức dạy học đáp ứng tốt những yêu cầu
đó là “dạy học theo dự án”.
Với những lí do như trên, tôi lựa chọn đề tài: “Tổ chức dạy học dự án
nội dung kiến thức “phản ứng hạt nhân” môn Vật lý chương trình đào tạo

bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vào cuối thế kỷ XVI, dạy học dự án bắt đầu được sử dụng ở nước Ý,
trong một số trường dạy về kiến trúc. Khi đó, các sinh viên được tham gia các
dự án thiết kế một số cơng trình kiến trúc. Tư tưởng dạy học theo dự án sau
4


đó được du nhập vào một số quốc gia mà trước hết là được sử dụng trong một
số trường đại học. Ban đầu dạy học dự án xuất hiện ở một số mơn học về kiến
trúc, sau đó là các môn xã hội và tự nhiên. Ở những môn học khác nhau có
những cách tiếp cận dạy học dự án theo những cách riêng.
Trong khoảng thời gian từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ
XIX, dạy học dự án được áp dụng khá phổ biến ở một số trường kỹ thuật ở
Pháp, Đức và Thuỵ Sĩ.
Dạy học dự án được du nhập vào Mỹ vào năm 1896, người giới thiệu là
William B. Rogers. Tuy nhiên đến đầu thế kỷ XX, cơ sở lí luận dạy học dự án
mới được các nhà sư phạm ở Mỹ xây dựng và sau này nhanh chóng được phát
triển ở Mỹ. Năm 1918, Kilpartrick đưa ra kiểu tổ chức dạy học dự án mà ở đó
tập trung chủ yếu vào hoạt động có tính mục đích trong một mơi trường xã
hội của sinh viên. Hoạt động có tính mục đích dựa trên sự quan tâm, nhu cầu,
thái độ và khả năng của sinh viên.
Ở Việt Nam, đã có những nghiên cứu về dạy học dự án. Điển hình là
năm 2003, dạy học dự án được nghiên cứu và thực hiện trong chương trình
“dạy học cho tương lai” được Bộ Giáo dục – Đào tạo kết hợp với công ty
Intel Việt Nam phối hợp thực hiện; dự án Việt – Bỉ nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo và bồi dưỡng giáo viên các trường tiểu học và trung học cơ sở các tỉnh
miền núi phía Bắc...
Dạy học dự án được PGS. TS Đỗ Hương Trà (Đại học Sư phạm Hà
Nội) nghiên cứu và áp dụng vào dạy học môn Vật lý, đặc biệt là dạy học Vật

lý ở trường THPT. Những nghiên cứu này được trình bày trong cuốn sách:
“Các kiểu tổ chức dạy học hiện đại trong dạy học Vật lý ở trường phổ thông”
do Nxb Đại học Sư phạm phát hành năm 2011.
Tiếp đó, dạy học dự án được nghiên cứu, áp dụng dạy học cho một số
nội dung cụ thể trong chương trình Vật lý phổ thơng bởi một số tác giả, tiêu
biểu như: đề tài nghiên cứu về việc “Tổ chức dạy học dự án nội dung kiến thức
dòng điện xoay chiều – sách lớp 12 nâng cao” được tác giả Vũ Văn Dụng thực
5


hiện trong luận văn cao học tại trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia
Hà Nội vào năm 2009; đề tài nghiên cứu về việc “Tổ chức dạy học dự án nội
dung kiến thức dòng điện trong chất bán dẫn – sách giáo khoa Vật lý lớp 11
nâng cao” được tác giả Phạm Văn Hoạch thực hiện trong luận văn cao học tại
trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2009.
Dạy học dự án vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu và áp dụng vào thực
tiễn dạy học ở các cấp, các ngành học, các nhà trường và ở các môn học khác
nhau. Tuy nhiên, đến nay những nghiên cứu về việc áp dụng dạy học dự án ở
các trường quân sự và ở trường Sĩ quan Phịng hố vẫn chưa được thực hiện.
Chưa có những cơng bố về việc nghiên cứu và áp dụng dạy học dự án trong
việc dạy học Vật lý chương trình đào tạo bậc đại học ở các trường qn đội và
cũng chưa có những cơng bố về việc nghiên cứu và áp dụng dạy học dự án
trong việc dạy học nội dung kiến thức “phản ứng hạt nhân” ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tổ chức dạy học dự án nội dung kiến thức “phản ứng hạt nhân” mơn
Vật lý chương trình đào tạo bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố” nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện năng lực nghiên cứu
khoa học, hoạt động thực tiễn cho người học.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu

Học viên đào tạo bậc đại học tại trường Sĩ quan Phịng hố, binh chủng
Hố học, một số giảng viên đã và đang tham gia giảng dạy môn Vật lý,
chương trình mơn Vật lý ở trường Sĩ quan Phịng hoá.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung kiến thức “Phản ứng hạt nhân” mơn Vật lý chương trình đào
tạo bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố.
- Hoạt động dạy học trong dạy học dự án.
5. Mẫu khảo sát
Học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy kỹ thuật hoá khoá 2010 - 2014, khoá
6


2009 - 2013 và một số giảng viên đã và đang trực tiếp giảng dạy môn Vật lý ở
trường Sĩ quan Phịng hố.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về việc dạy học nội dung kiến thức “phản ứng hạt nhân”
cho đối tượng đào tạo bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố.
Thời gian nghiên cứu 7 tháng.
7. Vấn đề nghiên cứu
Làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện
năng lực nghiên cứu khoa học, hoạt động thực tiễn cho người học thông qua
việc tổ chức dạy học dự án nội dung kiến thức “Phản ứng hạt nhân” mơn Vật
lý chương trình đào tạo bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố?
8. Giả thuyết khoa học
Vận dụng những quan điểm lí luận dạy học hiện đại nói chung và lí
luận về dạy học dự án nói riêng vào tổ chức dạy học dự án nội dung kiến thức
“Phản ứng hạt nhân” môn Vật lý chương trình đào tạo bậc đại học ở trường Sĩ
quan Phịng hố sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn
luyện năng lực nghiên cứu khoa học, hoạt động thực tiễn cho người học.
9. Phương pháp nghiên cứu đề tài

- Nghiên cứu lí thuyết: nghiên cứu lí luận dạy học đại học, dạy học
trong các trường quân đội và dạy học dự án.
- Phỏng vấn, phát phiếu điều tra tới một số giảng viên đã và đang giảng
dạy, các học viên đã và đang học tập mơn Vật lý tại trường Sĩ quan Phịng
hố nhằm điều tra thực trạng dạy học nội dung kiến thức “Phản ứng hạt nhân”
mơn Vật lý chương trình đào tạo bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố.
- Thực nghiệm sư phạm: tổ chức dạy học thực nghiệm để đánh giá tính
khả thi của đề tài.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:

7


Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức dạy học dự án.
Chương 2: Tổ chức dạy học dự án nội dung kiến thức “Phản ứng hạt nhân”
mơn Vật lý chương trình đào tạo bậc đại học ở trường Sĩ quan Phịng hố.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

8


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC
DẠY HỌC DỰ ÁN
1.1. Bản chất của quá trình dạy học
1.1.1. Bản chất của quá trình dạy học
Theo PGS. TS Phạm Viết Vượng: “Dạy học là một bộ phận của quá
trình sư phạm, với một nội dung khoa học, được thực hiện theo một phương

pháp sư phạm đặc biệt, do nhà trường tổ chức, giáo viên thực hiện nhằm giúp
học sinh, sinh viên, học viên... (gọi chung là người học) nắm vững hệ thống
kiến thức khoa học và hình thành kỹ năng, nâng cao năng lực hoạt động, nâng
cao trình độ học vấn, phát triển trí tuệ và hồn thiện nhân cách” 30, tr.23 .
Dạy học là hoạt động phối hợp của hai chủ thể, đó là giáo viên và
người học, trong đó giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy, người học là chủ
thể của hoạt động học tập. Giáo viên là người tổ chức, định hướng hoạt động
học tập của người học, làm cho việc học tập của người học trở thành hoạt
động độc lập có ý thức. Đối tượng hoạt động của giáo viên là hệ thống kiến
thức, sự phát triển trí tuệ và nhân cách của người học. Mục đích của hoạt
động dạy là làm cho học sinh chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kỹ năng hoạt
động, từ đó phát triển trí tuệ và nhân cách của người học. Nội dung của hoạt
động dạy là tổ chức cho học sinh nhận thức, rèn luyện kỹ năng và kiểm tra,
định hướng hoạt động học. Hoạt động dạy dù diễn ra dưới hình thức nào cũng
khơng thể làm thay việc cho hoạt động học. Hoạt động học tập được tiến hành
bởi người học và là hoạt động có ý thức, mang tính chủ động, tích cực và sáng
tạo. Người học phải xác định mục đích học tập, có động cơ và thái độ học tập
đúng đắn, có kế hoạch học tập chủ động và ln tích cực thực hiện tốt kế
hoạch đó. Đối tượng của hoạt động học là hệ thống tri thức và hệ thống kỹ
năng, năng lực tương ứng. Người học phải chủ động tích cực chiếm lĩnh kiến
thức trong chương trình học để sử dụng chúng trong những tình huống học
tập và thực tiễn cuộc sống. Mục đích của hoạt động học là tiếp thu nền tri
9


thức nhân loại để chuyển hố thành trí tuệ và nhân cách bản thân để trở thành
người lao động thông minh, năng động và sáng tạo.
Theo quan điểm của dạy học hiện đại, hoạt động dạy học phải luôn
hướng về người học, hướng về hoạt động học (quan điểm này được nhiều nhà
lí luận dạy học gọi là “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”). Người học vừa

là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình dạy học. Người học là trung tâm
của những cải tiến về nội dung, phương pháp dạy học và hình thức tổ chức
dạy học. Dù theo quan điểm nào thì hoạt động dạy và hoạt động học tập ln
gắn bó khơng thể tách rời, chúng thống nhất biện chứng với nhau tạo thành
hoạt động chung.
1.1.2. Bản chất của quá trình dạy học đại học
Quá trình dạy học đại học là bộ phận quan trọng của quá trình dạy học và
mang những đặc thù riêng. Theo quan điểm tiếp cận hoạt động, quá trình dạy
học đại học là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa giảng viên và sinh
viên, trong đó giảng viên là chủ thể của hoạt động dạy và sinh viên là chủ thể
của hoạt động học tập nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ dạy học đại học.
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt: “Quá trình nhận thức và học tập của sinh
viên ở các trường đại học là q trình nhận thức có tính chất nghiên cứu.
Trong q trình học tập ở trường đại học, mỗi sinh viên phải tự mình chiếm
lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở nghề nghiệp
tương lai ở trình độ đại học và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những
yêu cầu do thực tiễn nghề nghiệp đòi hỏi và những yêu cầu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ đặt ra. Khi tiến hành hoạt động học tập ở đại học,
người sinh viên tiến hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu trên cơ
sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo và phát triển ở mức độ cao. Điều này có
nghĩa dưới vai trị chủ đạo của giảng viên, sinh viên khơng tiếp nhận máy
móc tri thức sẵn có, mà họ tiếp nhận kiến thức với óc phê phán, có thể khẳng
định, hồi nghi, phủ định, lật ngược vấn đề, đào sâu hoặc mở rộng vv... Mặt
khác, trong quá trình học tập ở đại học, sinh viên cũng tham gia vào quá trình
10


tìm kiếm chân lí mới, đó là hoạt động nghiên cứu khoa học. Quá trình nghiên
cứu khoa học giúp sinh viên từng bước vận dụng tri thức khoa học, phương
pháp luận khoa học, phương pháp nghiên cứu, tự tu dưỡng, rèn luyện những

phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách
khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống và thực tiễn
nghề nghiệp đặt ra. Rõ ràng có thể thấy, hoạt động học tập, nhận thức của
sinh viên cao hơn quá trình học tập, nhận thức của học sinh phổ thơng và tiếp
cận với q trình nhận thức của các nhà khoa học” 15, tr.44 .
Nếu như quá trình dạy học ở bậc trung học phổ thơng giúp hình thành ở
người học thế giới quan khoa học, cơ sở nhân sinh quan khoa học và những
phẩm chất của một người cơng dân nói chung thì q trình dạy học đại học
giúp hình thành ở người học thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng và những phẩm chất của một người cán bộ khoa học kỹ thuật, người
cán bộ quản lí có trình độ cao.
1.2. Đặc điểm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học và
đặc điểm của quá trình dạy học ở các trường quân sự
1.2.1. Đặc điểm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học
Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là hai thành tố đặc biệt quan
trọng của quá trình dạy học đại học. Hai thành tố này quyết định trực tiếp đến
chất lượng của dạy học đại học.
a. Phương pháp dạy học đại học
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt: “Phương pháp dạy học ở đại học là tổng
hợp các cách thức hoạt động của giáo viên và sinh viên nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ dạy học ở đại học, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ
thuật, cán bộ quản lí, nghiệp vụ có trình độ đại học” 15, tr.120 .
Phương pháp dạy đại học tạo nên cách thức hoạt động của giảng viên
và sinh viên trong trong quá trình tổ chức điều khiển hoạt động dạy và quá
trình tổ chức, tự điều khiển hoạt động học. Phương pháp dạy học đại học bị
chi phối bởi nội dung dạy học đại học, tức là phương pháp dạy học đại học
11


phải phù hợp với nội dung dạy học đại học. Nếu như lựa chọn và vận dụng

hợp lí các phương pháp dạy học thì nội dung dạy học sẽ trở thành một bộ
phận hữu cơ trong vốn kinh nghiệm riêng của sinh viên đại học.
Phương pháp dạy học đại học mang những đặc điểm đặc trưng riêng
biệt. Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt, phương pháp dạy học đại học có các đặc
điểm sau:
“Phương pháp dạy học đại học gắn liền với nghề nghiệp đào tạo ở
trường đại học. Đặc điểm này thể hiện tính mục đích đào tạo rõ nét của trường
đại học, nó địi hỏi phương pháp dạy học các bộ môn cơ bản, cơ sở và chuyên
ngành phải hướng vào mục tiêu đào tạo của nhà trường, nó yêu cầu người
giảng viên ngoài việc trang bị kiến thức khoa học còn cần phải chú ý rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho sinh viên.
Phương pháp dạy học đại học gắn liền với thực tiễn xã hội, thực tiễn
cuộc sống và phát triển của khoa học, công nghệ. Đặc điểm này phản ảnh mối
liên kết có tính quy luật giữa giáo dục – đào tạo với khoa học và sản xuất của
các trường đại học. Nó địi hỏi người giáo viên trong q trình giảng dạy phải
ln bám sát yêu cầu thực tiễn kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học,
công nghệ để kịp thời đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo ở đại học.
Phương pháp dạy học đại học ngày càng tiếp cận với phương pháp
nghiên cứu khoa học. Đặc điểm này phản ánh yêu cầu cao về mục đích, nội
dung dạy học ở đại học. Nó địi hỏi giáo viên trong q trình giảng dạy phải
chú ý trình bày các quan điểm khác nhau, các học thuyết khác nhau về một
vấn đề nào đó, phải quan tâm bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học
cho sinh viên.
Phương pháp dạy học đại học có tác dụng phát huy cao độ tính tích
cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên. Đặc điểm này một mặt phản ánh yêu cầu
của mục đích, nội dung dạy học ở đại học, mặt khác phản ánh đặc điểm của
đối tượng sinh viên. Nó địi hỏi thầy giáo phải tơn trọng ý kiến của sinh viên,
12



tổ chức, điều khiển sinh viên tích cực tham gia hoạt động học tập, nghiên cứu
khoa học.
Phương pháp dạy học hiện đại rất đa dạng và thay đổi tuỳ theo loại
trường đại học, đặc điểm của môn học, điều kiện, phương tiện dạy học, đặc
điểm nhân cách của giảng viên và sinh viên. Đặc điểm này phản ánh tính chất
phong phú, phức tạp của hoạt động dạy học ở đại học; nó địi hỏi người giảng
viên trong q trình dạy học phải vận dụng các phương pháp dạy học đại học
một cách linh hoạt, sáng tạo, sao cho phù hợp với các yếu tố nói trên, đặc biệt
là đặc điểm của bộ môn và đối tượng sinh viên.
Phương pháp dạy học đại học ngày càng gắn liền với các thiết bị và các
phương tiện dạy học hiện đại. Đặc điểm này phản ánh mối quan hệ hữu cơ
giữa phương pháp và phương tiện dạy học; nó địi hỏi người giáo viên, các
cán bộ quản lí cần quan tâm tới việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
cho dạy học, phải tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt là
các phương tiện dạy học hiện đại nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong dạy học”

15,tr.120122 .
b. Hình thức tổ chức dạy học đại học
“Hình thức tổ chức dạy học ở đại học là hình thức hoạt động dạy học tổ
chức theo trật tự và chế độ nhất định nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học
đại học đã quy định. Trong đó, có sự thể hiện thống nhất giữa mục đích,
nhiệm vụ, nội dung, các phương pháp và phương tiện dạy học” 15, tr.157 .
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt: “Cho đến nay, vẫn chưa có sự phân loại rõ
ràng về các hình thức tổ chức dạy học ở đại học. Tuy nhiên, dựa theo lịch sử
phát triển của các hình thức tổ chức dạy học nói chung, căn cứ vào kết quả
nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn của các nhà lý luận dạy học, các cán bộ
giảng dạy ở đại học, căn cứ vào tính chất và chức năng của các loại hình tổ
chức dạy học ở đại học chúng ta có thể chia các hình thức tổ chức dạy học ở
đại học thành 3 loại sau đây:

Loại 1: các hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp sinh viên tìm tịi tri
13


thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Các hình thức này bao gồm: diễn giảng,
thảo luận, Xêmina, tự học, giúp đỡ riêng, làm bài tập, thí nghiệm, thực hành
học tập và thực hành sản xuất, bài tập nghiên cứu, khóa luận, luận văn (đồ án)
tốt nghiệp, dạy học chương trình hóa…
Loại 2: các hình thức tổ chức dạy học nhằm kiểm tra và đánh giá tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo của sinh viên. Bao gồm các hình thức: kiểm tra, sát
hạch, thi (thi học kỳ, thi lên lớp hoặc thi hết học phần, thi chuyển giai đoạn,
thi tốt nghiệp), bảo vệ khóa luận, luận văn (đồ án) tốt nghiệp.
Loại 3: các hình thức tổ chức dạy học có tính chất ngoại khóa. Bao
gồm: các nhóm ngoại khóa theo mơn học của sinh viên, câu lạc bộ khoa học
của sinh viên, các hình thức nghiên cứu và phổ biến khoa học của sinh viên,
các hoạt động xã hội của sinh viên, hội nghị học tập của sinh viên…”

15,tr.157159 .
Trong quá trình dạy học ở các trường đại học hiện nay, các hình thức tổ
chức dạy học hay được sử dụng như: diễn giảng, Xêmina, thực hành, tự học ở
đại học và nghiên cứu khoa học. Trong đó, nghiên cứu khoa học là hình thức
đặc biệt quan trọng và khơng thể thiếu. Bởi lẽ, qua nghiên cứu khoa học, sinh
viên bước đầu tập vận dụng một cách tổng hợp những tri thức đã học về nghề
nghiệp tương lai của mình, qua đó có thể mở rộng, đào sâu và hồn thiện vốn
hiểu biết của họ. Trong quá trình học tập ở trường đại học, sinh viên thường
tham gia các hình thức nghiên cứu khoa học theo mức độ từ thấp đến cao: làm
bài tập nghiên cứu, khóa luận, luận văn tốt nghiệp (đồ án, thiết kế tốt nghiệp).
1.2.2. Đặc điểm của quá trình dạy học ở các trường quân sự
Các trường quân sự là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống nhà
trường của mỗi quốc gia. Ở nước ta, các trường quân sự là những trung tâm

hàng đầu về đào tạo các cán bộ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho
Quân đội nhân dân Việt Nam; bồi dưỡng nâng cao trình độ qn sự, chính trị
qn sự cho các cán bộ trong và ngồi qn đội.
Q trình dạy học trong các nhà trường quân sự vừa mang những đặc
14


điểm chung của quá trình dạy học và vừa mang những đặc điểm đặc thù riêng.
Theo tác giả Đặng Đức Thắng: “Quá trình dạy học trong các nhà
trường quân sự là một bộ phận của quá trình sư phạm nhà trường qn sự, là
q trình có mục tiêu, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa hoạt động của
người dạy và người học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực
nghề nghiệp quân sự, phát triển khả năng tư duy sáng tạo, giáo dục những
phẩm chất cần thiết cho học viên đáp ứng yêu cầu của quân đội và xã hội”

26, tr.58  59.
“Quá trình dạy học trong nhà trường quân sự không chỉ diễn ra trong
trường, lớp, phịng thí nghiệm mà cịn ở hoạt động dã ngoại, trên khơng, trên
biển, trong những tình huống gần với chiến đấu. Q trình dạy học được tiến
hành trong mơi trường hoạt động quân sự, tuân theo những yêu cầu kỷ luật
quân sự. Quá trình dạy học trong nhà trường qn sự khơng chỉ góp phần đào
tạo một chun gia quân sự mà còn đào tạo họ trở thành nhà tổ chức, nhà sư
phạm quân sự, nhà giáo dục, người thầy của cấp dưới” 26, tr.59  60 .
a. Nhiệm vụ của quá trình dạy học trong các nhà trường quân sự.
Theo tác giả Đặng Đức Thắng, quá trình dạy học trong các nhà trường
quân sự có nhiệm vụ sau đây:
“- Trang bị hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực tương ứng
với ngành nghề, một chức danh quân sự nhất định. Đây chính là nhiệm vụ
“dạy chữ, dạy nghề”, một nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của quá trình dạy học
trong các nhà trường quân sự. Nhiệm vụ này đòi hỏi nhà trường quân sự phải

làm cho cho người học có được hệ thống kiến thức khoa học cơ bản, cơ sở
chuyên ngành, các kiến thức của khoa học tự nhiên, xã hội, quản lý, quân sự
vv... Bên cạnh đó phải giúp cho người học có được hệ thống các kỹ năng, kỹ
xảo, năng lực tương ứng với chức trách, nghiệp vụ trong tương lai, hệ thống
các kỹ năng hoạt động sáng tạo trong điều kiện hoạt động quân sự và các quy
tắc, chuẩn mực thái độ ứng xử của người sĩ quan, người cán bộ quân đội.
- Phát triển trí tuệ cho người học. Q trình dạy học trong nhà trường
15


quân sự còn thực hiện nhiệm vụ quan trọng khác là phát triển trí tuệ, phát
triển khả năng sáng tạo cho học viên. Đối với nghệ thuật quân sự, cần đặc biệt
quan tâm phát triển tư duy lý luận, tư duy nghề nghiệp, bồi dưỡng phương
pháp tự học, phương pháp nghiên cứu khoa học cho người học để họ có thể sử
dụng chúng trong hoạt động nghề nghiệp quân sự.
- Hình thành thế giới quan khoa học, lý tưởng, phẩm chất đạo đức cách
mạng. Đây chính là nhiệm vụ “dạy người” của quá trình dạy học trong các
nhà trường quân sự. Nhiệm vụ này nhằm hình thành ở người học các quan
điểm, niềm tin đúng đắn, hình thành các chuẩn mực văn hố, đạo đức, các nét
tính cách, phẩm chất cần thiết của người cán bộ trong quân đội cách mạng.
- Chuẩn bị tâm lí cho người học. Đây là một nhiệm vụ đặc trưng của
quá trình dạy học trong nhà trường quân sự. Nhiệm vụ này đòi hỏi trong quá
trình dạy học phải hình thành cho người học tâm thế, sẵn sàng nhận nhiệm vụ,
cơng tác trong mọi hồn cảnh đa dạng của hoạt động quân sự” 26, tr.62  64 .
b. Nội dung dạy học trong nhà trường quân sự
Nội dung dạy học là một trong những thành tố của đặc trưng của quá
trình dạy học đại học. Trong nhà trường quân sự, nội dung dạy học là hệ
thống các kiến thức khoa học, kỹ xảo, kỹ năng nghiệp vụ, phương pháp sáng
tạo, chuẩn mực giá trị mà học viên cần chiếm lĩnh để hình thành, phát triển
năng lực, phẩm chất của người cán bộ quân đội.

Nội dung dạy học trong nhà trường quân sự chính là nội dung đào tạo
các cán bộ, chuyên gia quân sự, nó phản ánh trình độ phát triển của khoa học
nói chung, của khoa học và nghệ thuật quân sự nói riêng. Mặt khác, nội dung
dạy học trong các nhà trường quân sự còn là sự phản ánh và biểu hiện cụ thể
yêu cầu của xã hội, của nhiệm vụ xây dựng và phát triển quân đội; đồng thời
là sự phản ánh năng lực nhận thức của học viên trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Theo tác giả Đặng Đức Thắng, nội dung dạy học trong các nhà
trường quân sự bao gồm các bộ phận như sau:
- Hệ thống các kiến thức khoa học về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, về
16


kỹ thuật quân sự. Đây là một thành phần rất quan trọng của nội dung dạy học
nhằm trang bị cho học viên những hiểu biết toàn diện, đúng đắn về thế giới
quan, về nghề nghiệp mà họ đảm nhiệm; đồng thời tạo cơ sở xây dựng thế
giới quan khoa học cho học viên trong nhà trường quân sự. Theo tính chất và
chức năng của các kiến thức trong quá trình đào tạo, thì hệ thống các kiến
thức khoa học có thể chia thành ba loại: kiến thức cơ bản, kiến thức cơ sở
chuyên ngành và kiến thức chuyên ngành.
- Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo, năng lực nghề nghiệp quân sự. Đây chính
là những cách thức hành động đã được tự động hoá và cách thức vận dụng
đúng đắn, sáng tạo các kiến thức được trang bị và năng lực được hình thành
vào thực tiễn hoạt động quân sự để giải quyết các nhiệm vụ qn sự khác
nhau. Chính thơng qua việc bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, năng lực
nghề nghiệp qn sự đã góp phần tích cực trong việc giúp học viên nắm được
cách thức vận dụng lí thuyết vào thực tiễn nhằm biến kiến thức chung thành
vốn tri thức cá nhân của học viên; đồng thời tạo cơ sở tiền đề quan trọng cho
học viên có khả năng tiến hành tự học, tự nghiên cứu khoa học và đặc biệt
tiến hành hoạt động nghề nghiệp quân sự đạt được hiệu quả cao nhất.
- Hệ thống những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo. Hoạt động học tập

của học viên trong nhà trường quân sự cũng như hoạt động nghề nghiệp quân
sự phải là hoạt động sáng tạo. Do đó, q trình dạy học phải tự trang bị cho
học viên những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, nhằm giúp họ biết tổ chức
hoạt động học tập của mình một cách tối ưu. Mặt khác, trên cơ sở đó đảm bảo
cho học viên sau khi tốt nghiệp dễ dàng thích ứng và xử lý sáng tạo những
tình huống mà thực tiễn hoạt động quân sự đặt ra.
- Hệ thống các giá trị và chuẩn mực về thái độ đối với tự nhiên, đối với
xã hội, đối với người khác và đối với bản thân. Việc xác định hệ thống các giá
trị và chuẩn mực đúng đắn trong nội dung dạy học trong các nhà trường quân
sự sẽ đảm bảo cho học viên có cách ứng xử đúng đắn, thích hợp đối với mối
quan hệ trong quá trình học tập tại nhà trường và hoạt động nghề nghiệp quân
17


sự sau này. Trên cơ sở đó hình thành cho học viên những nhận thức đúng đắn,
những tình cảm tốt đẹp, những thái độ và hành động đúng đắn trong mọi tình
huống khác nhau của thực tế cuộc sống và thực tiễn hoạt động quân sự.
c. Hình thức tổ chức dạy học trong các nhà trường quân sự
Hình thức tổ chức dạy học trong các nhà trường quân sự cơ bản giống
với các hình thức tổ chức dạy học ở các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp thông thường. Tuy nhiên, ở các nhà trường quân sự hệ thống các hình
thức dạy học đươc xác định theo tiến trình dạy học và tính chất hoạt động
phối hợp giữa người dạy và người học, có tính đến những nét đặt thù của hoạt
động dạy học trong lĩnh vực quân sự. Quá trình dạy học trong nhà trường
qn sự khơng chỉ diễn ra trong trường, lớp, phịng thí nghiệm mà cịn ở hoạt
động dã ngoại, trên khơng, trên biển, trong những tình huống gần với chiến
đấu. Quá trình dạy học được tiến hành trong môi trường hoạt động quân sự,
tuân theo những yêu cầu kỷ luật quân sự.
1.3. Dạy học dự án
1.3.1. Thế nào là dạy học dự án

Dạy học dự án là mơ hình dạy học được tiến hành thơng qua quá trình
người học giải quyết một tình huống thực tiễn gắn nội dung học tập (gọi là dự
án) để đạt được mục đích của q trình dạy học.
Theo GPS. TS Đỗ Hương Trà: “Dạy học dự án không đặt nặng mục
tiêu dạy kiến thức mà xuất phát từ nội dung học giáo viên khéo léo đưa ra một
dự án hấp dẫn, kích thích người học tham gia thực hiện. Người học trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ được giao tất nhiên phải tự tìm hiểu những nội
dung cần học thông qua các nguồn tài liệu và thông qua trao đổi một cách có
định hướng: các nhiệm vụ cần thực hiện, phiếu đánh giá kết quả thực hiện
từng nhiệm vụ” 26, tr247 .
Dạy học dự án hướng đến phát triển kiến thức, kỹ năng và năng lực của
người học. Dự án đặt người học vào vai trò như: người giải quyết vấn đề,
người ra quyết định, điều tra viên hay người viết báo cáo. Khi học, người học
18


thường làm việc theo nhóm và hợp tác với các chuyên gia bên ngoài cộng
đồng để trả lời các câu hỏi và hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của bài học. Học
theo dự án đòi hỏi người học phải nghiên cứu và thể hiện kết quả học tập của
mình thông qua cả sản phẩm lẫn phương thức thực hiện.
1.3.2. Mục tiêu của dạy học dự án
Mục tiêu của dạy học dự án hướng tới phát triển năng lực tư duy bậc
cao như phân tích, tổng hợp, đánh giá, sáng tạo và phát triển kỹ năng sống
như kỹ năng hợp tác, làm việc độc lập vv...
Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, người học tìm kiếm
thơng tin (trong đó có nội dung bài học), xử lý thơng tin, phê phán, đánh giá,
lựa chọn công cụ (kiến thức, công nghệ…) để thực hiện nhiệm vụ học tập.
Cũng trong q trình học tập, chính người học là người đề xuất vấn đề cần
giải quyết, quyết định cách thức tiến hành và trực tiếp tiến hành dự án. Quá
trình này giúp phát triển ở người học năng lực phân tích, tổng hợp, đánh giá

và sáng tạo.
Dạy học dự án tạo môi trường học tập của người học giống với thực
tiễn cuộc sống, ở đó, người học phải tự giải quyết những vấn đề của thực tiễn
đặt ra. Trong quá trình học tập, mỗi thành viên thực hiện một phần trong dự
án tổng thể. Điều này đòi hỏi người học phải đặt mình trong một tổ chức có
sự liên minh chặt chẽ, vừa có sự chun mơn hố cao và vừa có sự hợp tác
chặt chẽ giữa các thành viên trong nhóm học tập.
Khi tiến hành dự án, năng lực tư duy bậc cao như phân tích, tổng hợp,
đánh giá, sáng tạo và kỹ năng sống như kỹ năng hợp tác, làm việc độc lập
vv... sẽ được phát triển.
1.3.3. Đặc điểm của dạy học dự án
Theo phân tích của PGS. TS Đỗ Hương Trà, dạy học dự án gồm những
đặc điểm sau:
“a) Thiết lập mối liên hệ giữa nội dung học tập với cuộc sống ngoài học
đường, hướng tới các vấn đề của thực tiễn sinh động đang diễn ra.
19


Nhiều nội dung học (thường là các kiến thức cổ điển) có rất ít mối liên
hệ với cuộc sống ngày hơm nay, sách giáo khoa lại ln thiếu tính cập nhật nên
những ứng dụng trong sách nhanh chóng lạc hậu. Điều đó làm cho ý nghĩa của
việc học trở nên khó thuyết phục khiến người học khơng thể hứng thú.
Dạy học dự án làm cho nội dung học trở nên có ý nghĩa thực tiễn là
cách làm cho người học hứng thú với việc học tập. Học sinh đóng vai và thực
hiện hành vi của những người đang hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể nào
đó và qua các dự án đó, người học được tham gia vào những hoạt động đời
thường có ý nghĩa vượt qua khỏi phạm vi lớp học.
b) Phát triển những kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề xuất phát từ yêu
cầu của thực tiễn.
Phát hiện vấn đề cần giải quyết là kỹ năng quan trọng giúp con người

làm chủ cuộc sống, làm chủ công việc. Phát hiện và thúc đẩy sự xuất hiện,
tiến triển của vấn đề theo ý muốn của mình là cách để con người thành công
trong cuộc sống và cơng việc trong thời hiện đại.
Q trình khám phá, tìm hiểu bao gồm một loạt các hoạt động để thỏa
mãn óc tò mò bẩm sinh của con người về thế giới. Trong dạy học dự án, việc
khám phá tìm hiểu này mang một ý nghĩa cụ thể hơn, người học được khuyến
khích đặt câu hỏi, lập kế hoạch, tiến hành tìm hiểu, quan sát và suy nghĩ về
những gì mình đã khám phá.
Có thể coi dạy học dự án là một tập con trong dạy học khám phá. Một
nghiên cứu về dạy học dự án kết luận rằng, dự án như vậy thường tập trung
vào những câu hỏi hoặc vấn đề “thôi thúc người học phải đối mặt” và “chiến
đấu” với những khái niệm và nguyên tắc trọng tâm của mơn học. Hơn nữa,
những hoạt động chính trong dự án đã bao hàm quá trình, khám phá tìm hiểu,
giải quyết vấn đề cấu trúc kiến thức của người học.
c) Tạo cơ hội cho người học tự tìm hiểu chính mình, tự khẳng định mình
Dạy học truyền thống với các nội dung học thường mang tính hàn lâm,
lý thuyết chỉ phù hợp với số ít người học có tiềm năng phát triển tư duy suy
20


luận lơgic, cịn với số đơng người học có phong cách học khác kiểu dạy học
này có thể gây ra áp lực làm cho họ mất dần sự tự tin vào bản thân. Dạy học
dự án cũng như nhiều chiến lược dạy học tích cực khác là dạy học đa phong
cách, giúp cho người học có cơ hội phát hiện và phát huy điểm mạnh, khắc
phục điểm yếu của mình.
d) Phát triển năng lực
Dạy học dự án giúp phát triển khả năng giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều
hành, ra quyết định… là những kỹ năng sống rất quan trọng quyết định sự thành
công của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của thế kỷ XXI. Rèn luyện
những kỹ năng sống là mục tiêu của nhiều mơ hình dạy học tích cực hiện nay.

e) Phát triển kỹ năng tư duy bậc cao (tổng hợp, đánh giá)
Phát triển tư duy bậc cao ngay trong quá trình học tập là mục tiêu có
thể và cần phải đạt tới ở các cấp học khác nhau. Ở đây, quan điểm phát triển
tư duy một cách tuần tự từ thấp đến cao khơng cịn là quan điểm phù hợp với
tất cả người học vốn có phong cách tư duy khác nhau. Để giải quyết một vấn
đề thực tiễn người học phải phân tích, so sánh, đánh giá, lựa chọn thông tin,
giải pháp, phải tự thiết kế tổng thể kiến thức mới ngay trong quá tình xử lý
những thơng tin (kiến thức) tìm được liên quan của thông tin đã xử lý với vấn
đề cần giải quyết.
f) Tạo điều kiện cho nhiều phong cách, tiềm năng học tập khác nhau, tạo mơi
trường cho sự hịa trộn, thúc đẩy lẫn nhau trong người học vì sự phát triển
tồn diện.
Dạy học dự án và nhiều các mơ hình dạy học tích cực khác đều nhằm
thu hút những người học có phong cách học tập, tư duy khác nhau, hợp tác
với nhau cùng giải quyết một vấn đề thực tiễn. Trong dạy học, sự lặp lại,
nhàm chán có thể khiến người học khơng cịn thấy ý nghĩa của các nội dung
được học. Trong dạy học dự án với nhiệm vụ giải quyết một số vấn đề có thực
trong cuộc sống mà nội dung cần học chỉ là một phần trong số thơng tin mà
người học có thể và phải tìm kiếm và xử lý, làm cơ sở cho việc giải quyết vấn
21


đề. Khi đó, nội dung cần học khơng cịn khơ khan nữa mà nó thực sự có ý
nghĩa, hiểu biết của người học luôn vượt ra khỏi khuôn khổ nội dung học và
tiến đến gần thực tiễn hơn.
Để giải quyết tốt vấn đề tất cả người học trong một nhóm phải thực sự
cộng tác, phải hiểu nhau, phải biết điểm mạnh, điểm yếu của nhau, nhiều
người học tỏ ra kém cỏi trong dạy học truyền thống lại thường có nhiều ý
tưởng hay, mới lạ, thường có những điểm mạnh mà nhiều người học khác
khơng có. Qua sự hợp tác với nhau, mỗi người học tự khẳng định được điểm

mạnh của mình, họ cảm thấy tự tin và thầy cần phải cố gắng hơn trong cả
những giờ học kiểu truyền thống. Còn với số người học trong kiểu dạy học
truyền thống được đánh giá tốt cũng tự nhìn thấy những điểm mạnh (tư duy
suy luận lôgic) và hạn chế (ý tưởng, phương án…) của mình, họ học tập được
nhiều điều ở những người học có phong cách học tập khác. Hợp tác làm cho
người học thấy khả năng cũng như hạn chế, điểm mạnh cũng như điểm yếu của
mình và bạn, thấy được rằng cá nhân mỗi người khó có thể có khả năng giải
quyết và giải quyết tốt tất cả các vấn đề khác nhau trong học tập, nghề nghiệp
và cuộc sống mà cần phải biết hợp tác, tương trợ lẫn nhau, thấy được rằng xung
quanh họ khơng có ai là hoàn toàn yếu kém mà ngược lại mỗi người có điểm
mạnh riêng mà mình có thể hợp tác tốt trong nhiều vấn đề cụ thể.
g) Làm cho nhiệm vụ học tập tới tất cả mọi người học.
Mỗi người học đều phải đóng góp vào q trình thực hiện các nhiệm vụ
học tập, đó là trách nhiệm, đồng thời cũng là mong muốn được tự khẳng định
mình của mỗi cá nhân.
h) Kết quả thực hiện dự án phải là những sản phẩm có thể trưng bày, trình bày
được, đó là kết quả của việc giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống.
Các sản phẩm này có thể là một bài trình diễn đa phương tiện, một
trang web, một ấn phẩm, hay một mơ hình vật thật (mơ hình mạch điện cầu
thang, mơ hình máy báo cháy, mơ hình phanh từ…) có các chức năng vận
hành như vật thật hoặc các thí nghiệm để kiểm chứng một thơng tin (từ các
22


quả chanh người ta có thể làm ra điện…)” 25, tr.248 250 .
1.3.4. Nội dung Vật lý có thể tổ chức dạy học dự án
Từ đặc điểm gắn liền với thực tiễn cuộc sống cho nên Vật lý là môn
học có nhiều cơ hội tổ chức dạy học dự án.
Có thể tổ chức dạy học dự án những nội dung kiến thức ứng dụng của
vật lý trong kỹ thuật và đời sống. Vật lý là mơn học có rất nhiều những ứng

dụng trong kỹ thuật và đời sống. Ví như những kiến thức về chuyển động cơ
học có thể áp dụng nghiên cứu những chuyển động gần gũi trong thực tế như
chuyển động của chiếc ô tô, chuyển động của một học sinh khi thực hiện bài
tập thể dục môn nhảy xa vv... Những kiến thức về dòng điện trong chất bán
dẫn là cơ sở cho những ứng dụng kỹ thuật chế tạo bảng đèn điện tử quảng
cáo. Những kiến thức về mạch dao động điện từ là cơ sở cho những ứng dụng
cho việc chế tạo ra máy phát, thu sóng điện từ. Tuy nhiên khơng phải bất kỳ
kiến thức ứng dụng của mơn Vật lý cũng có thể tiến hành dạy học dự án được.
Những ứng dụng phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật cao, cơ sở vật chất hiện đại và
chứa đựng những rủi ro thì khơng nên tiến hành tổ chức dạy học theo dự án.
Dạy học dự án cũng có thể tiến hành với những nội dung Vật lý mà có
thể vận dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn thu hút được cộng đồng quan
tâm, đặc biệt là những vấn đề đó đã và đang đặt ra những thách thức đối với
cộng đồng, những vấn đề mà cộng đồng địi hỏi cần có sự giải quyết thấu đáo.
Những nội dung kiến thức này có thể kể đến như: ứng dụng của phản ứng hạt
nhân, định luật phân rã phóng xạ trong vấn đề nhà máy điện hạt nhân, bom
hạt nhân, sự cố phóng xạ. Mức độ quan tâm của cộng đồng càng cao, tính cấp
thiết của vấn đề càng lớn thì càng thu hút được sự quan tâm của người học.
1.3.5. Các loại dự án học tập
Tuỳ theo cách phân loại mà có các loại dự án học tập khác nhau. Theo
GS. TS Đỗ Hương Trà:
“a) Phân loại theo chuyên môn
Dự án trong môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học. Ví
23


du: dự án thiết kế mạch điện trong trường học, thiết kế hệ thống đèn báo trên
xe khách, dự án thiết kế mơ hình các máy điện (mơn Vật lý), dự án tìm hiểu
virut cúm gia cầm (mơn Sinh học), dự án thiết kế mơ hình nhà máy hóa chất
Sunphat (mơn Hóa học)…

Dự án liên mơn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều mơn khác nhau. Ví
dụ: dự án cải tạo hồ bơi của trường (toán - lý - mỹ thuật - kỹ thuật).
Dự án ngồi chun mơn: là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào
các môn học, ví dụ dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường, dự án tìm hiểu
năng lượng mặt trời, dự án quảng bá du lịch địa phương.
b) Phân loại theo sự tham gia của người học
Dự án cho nhóm người học, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm
người học là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trường phổ thơng cịn có
dự án tồn trường, dự án dành cho một khối lớp, dự án cho một lớp học.
c) Phân loại theo sự tham gia của giáo viên
Dự án dưới sự hướng dẫn của một giáo viên, dự án với sự cộng tác
hướng dẫn của nhiều giáo viên.
d) Phân loại theo quỹ thời gian
K.Frey đề nghị cách phân chia sau:
Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 - 6 giờ học.
Dự án trung bình: dự án trong một số ngày nhưng giới hạn là một tuần
hoặc 40 giờ học.
Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần
(hay 40 giờ học) có thể kéo dài nhiều tuần.
Cách phân chia theo thời gian này thường áp dụng ở trường phổ thông.
Trong đào tạo đại học, có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.
e) Phân loại theo nhiệm vụ
Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có thể phân loại các dự án theo
các dạng sau:
Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng. Ví dự dự án tìm
24


hiểu các hiện tượng thời tiết…
Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện

tượng, quá trình.
Dự án thực hành: có thể gọi là dự án kiến tạo sản phẩm, trọng tâm là
việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động
thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như: trang trí, trưng bày, biểu
diễn, sáng tác.
Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên.
Các dạng dự án khơng hồn tồn tách biệt nhau, trong từng lĩnh vực
chun mơn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng”

25, tr.251 252 .
1.3.6. Các bước chuẩn bị của giáo viên và học sinh cho một dự án học tập
Theo phân tích của PGS. TS Đỗ Hương Trà, để triển khai dạy học dự
án, cần tiến hành các bước chuẩn bị sau:
“a) Triển khai bài học thành dự án, xác định các chuẩn kiến thức và thiết lập
mục tiêu học tập.
Bước đầu tiên trong việc thiết kế dự án là xác định những chuẩn kiến
thức mà giáo viên muốn người học đáp ứng được khi hồn thành dự án. Sau
đó, từ những chuẩn kiến thức này phát triển cả mục tiêu học tập và những câu
hỏi có ý nghĩa. Có 3 mục tiêu học tập cần phải nhắm tới đó là: mục tiêu về
kiến thức, mục tiêu về kỹ năng và mục tiêu về thái độ. Trong đó, chú ý thiết
lập những mục tiêu tập trung vào những hoạt động học tập với tư duy bậc cao
chứ không phải là những kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
Từ nội dung bài học (thường là những bài học có nhiều ứng dụng trong
thực tiễn), giáo viên hình thành ý đồ tổ chức bài học thành dự án và suy nghĩ
về ý tưởng dự án:
- Giáo viên ln cần phải nhìn thấy, phải tìm thấy những vấn đề thực tiễn
đang diễn biến trong cuộc sống xung quanh có liên quan đến nội dung bài học.
- Giáo viên phải nhìn thấy những vấn đề lớn mà thế giới đang phải đối
25



×