Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quan điểm đức trị của nho giáo sơ kỳ và ảnh hưởng của nó đối với ý thức chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.14 KB, 86 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

QUAN ĐIỂM ĐỨC TRỊ CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ VÀ
ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI Ý THỨC CHÍNH
TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngƣời hƣớng dẫn : Th.S Dƣơng Đình Tùng
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hƣơng Giang
Lớp
: 10SGC

Đà Nẵng, tháng 5 năm 2014


2

LỜI CẢM ƠN
Có được như ngày hơm nay, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến q
thầy cơ khoa Giáo dục Chính trị, các thầy cơ Trường ĐHSP Đà Nẵng cùng
các thầy cơ giáo khoa Lý luận Chính trị - Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng đã
tận tình dạy dỗ, chỉ bảo em trong suốt 4 năm học vừa qua.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thạc sỹ Dương Đình
Tùng, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian
thực hiện khóa luận này.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do những hạn chế về điều kiện, thời
gian và trình độ nên khơng tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được
sự góp ý của thầy cơ và các bạn để đề tài được hồn thiện hơn.
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Hương Giang


3

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 5
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 7
5. Bố cục đề tài ................................................................................................... 7
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu ........................................................................ 7
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN ĐIỂM ĐỨC TRỊ .. 10
1.1. Nguồn gốc và tiền đề cho sự ra đời của Nho giáo sơ kỳ .......................... 10
1.1.1. Khái niệm Nho giáo ............................................................................... 10
1.1.2. Nguồn gốc kinh tế - xã hội ..................................................................... 10
1.1.3. Tiền đề lý luận ........................................................................................ 14
1.1.4. Quá trình vận động và phát triển về mặt tư tưởng của nho giáo sơ kì qua
các tác gia tiêu biểu .......................................................................................... 17
1.2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm Đức trị của nho giáo sơ kỳ ...... 25
1.2.1. Cơ sở hình thành đường lối Đức trị ....................................................... 25
1.2.2. Mục đích của đường lối Đức trị ............................................................. 28

1.2.3. Nội dung cơ bản của đường lối Đức trị ................................................. 29
CHƢƠNG 2. ẢNH HƢỞNG QUAN ĐIỂM ĐỨC TRỊ CỦA NHO GIÁO
ĐỐI VỚI Ý THỨC CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY ........................ 42
2.1. Khái lược về sự du nhập và phát triển Nho giáo ở Việt Nam................... 42
2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ..................... 44
2.2.1. Sự ảnh hưởng của Nho giáo qua các triều đại phong kiến .................... 44
2.2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh ........................ 47


4

2.3. Ảnh hưởng của quan điểm Đức trị đối với ý thức chính trị ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................ 50
2.3.1. Khái niệm ý thức chính trị ‎.................................................................... 50
2.3.2. Ảnh hưởng tích cực của quan điểm Đức trị đối với ý thức chính trị ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................... 51
2.3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của quan điểm Đức trị đối với ý thức chính trị ở
nước ta hiện nay. .............................................................................................. 58
2.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác những giá trị tích cực và hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực trong quan điểm Đức trị đến ý thức chính trị ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................................... 66
2.4.1. Phải có cái nhìn biện chứng đối với tư tưởng Đức trị của Nho giáo ..... 66
2.4.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và
nhân dân ........................................................................................................... 68
2.4.3. Xây dựng mối quan hệ biện chứng giữa đức trị và pháp trị, đạo đức và
pháp luật ........................................................................................................... 70
2.4.4. Khai thác điểm tích cực của Nho giáo nói chung và tư tương Đức trị nói
riêng vào quản lí đất nước ................................................................................ 74
2.4.5. Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên76
2.4.6. Hình thành và giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật cho nhân dân

thông qua truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong q trình xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ......................... 77
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 83


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học, triết
học phát triển phong phú và rực rở nhất không chỉ của nền văn minh phương
Đông mà của cả nhân loại. Sự phát triển kinh tế - xã hội ở thời kỳ này, đặc
biệt là thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nhiều tư
tưởng triết học với những triết gia vĩ đại mà tên tuổi gắn liền với lịch sử nhân
loại, cũng như lịch sử Trung Hoa như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Lão
Tử, Trang Tử… Có thể nói, sự phát triển đó khơng chỉ góp phần vào lịch sử
Trung Hoa mà còn làm cho lịch sử tư tưởng nhân loại trở nên phong phú và
đa dạng.
Khi bàn về những hệ tư tưởng của Trung Hoa, người ta khơng thể khơng
nhắc tới Nho giáo, một học thuyết chính trị xã hội mà tầm ảnh hưởng của nó
đã vượt ra khỏi quốc gia dân tộc mà nó nảy sinh, để trở thành một trong
những tư tưởng chính thống của những nhà nước phong kiến trong thế giới
Hán hóa ở phương Đông. Do vậy, nghiên cứu về Nho giáo là một yêu cầu
quan trọng để hiểu về nhà nước phong kiến phương Đơng nói chung và nhà
nước phong kiến Việt Nam nói riêng. Sự phát triển của Nho giáo cũng những
hệ phái tư tưởng khác, theo dòng lịch sử với sự tham dự của những thế sau, hệ
tư tưởng này có nhiều biến đổi với so với thời kì ban đầu, nên nghiên cứu về
nho giáo sơ kỳ là điều kiện tiên quyết để thấy được những giá trị cũng như
hạn chế của nó trong lịch sử vận động của nhân loại.

Một trong những nội dung quan trong, và có thể nói là cống hiến của
Nho giáo sơ kỳ đối với vận động xã hội là tư tưởng Đức trị. Tư tưởng này, tuy
về thời cuộc khi nó ra đời không được tán tụng và áp dụng rộng rãi, nhưng về
sau khi xã hội ổn định thì nó được xem là một trong những tư tưởng tiến bộ,
được các triều đại phong kiến áp dụng.


6

Theo dòng lịch sử, bằng nhiều con đường khác nhau, Nho giáo đã du
nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Những tư tưởng chính trị xã hội của hệ tư
tưởng này đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống chính trị Việt Nam
trong thời kỳ phong kiến, và dường như nó đã trở thành một bộ phận gia nhập
vào văn hóa Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu về tư tưởng Đức trị của Nho giáo
sơ kỳ, và làm rõ những ảnh hưởng của tư tưởng ấy trong đời sống chính trị xã
hội Việt Nam, và những biểu hiện của nó trong ý thức chính trị của xã hội
Việt Nam là một yêu cầu quan trọng.
Hiện nay, xã hội Việt Nam đang buớc vào xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là nhà nước hoạt động trên tinh thần
thượng tôn pháp luật nhưng cũng là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Việc
khai thác những tích cực trong tư tưởng đức trị của nho giáo sơ kỳ và hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực là một yêu cầu đề nâng cao ý thức chính trị của
người dân Việt Nam hiện nay.
Từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Quan điểm Đức trị
của Nho giáo sơ kỳ và ảnh hưởng của nó đối với ý thức chính trị ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Từ việc làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng đức trị đến ý thức chính trị của
Việt Nam hiện nay, tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm khai thác

những tích cực và hạn chế những tiêu cực của tư tưởng ấy trong việc nâng cao
ý thức chính trị của xã hội Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Trên cở sở mục đích nghiên cứu luận văn cần
làm rõ những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ tư tưởng Đức trị của Nho giáo sơ kỳ.
+ Phân tích, đánh giá những điểm tích cực và hạn chế của tư tưởng Đức
trị, và bước đầu làm rõ sự ảnh hưởng của nó trong đời chính trị của xã hội
Việt Nam.


7

+ Bước đầu đưa ra những giải pháp nhằm khai thác những giá trị đồng
thời loại bỏ những hạn chế của quan điểm đức trị quá trình xây dựng ý thức
chính trị ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Quan điểm Đức trị của Nho giáo sơ kỳ và vấn đề ý thức
chính trị ở Việt Nam
- Phạm vi: Nho giáo sơ kỳ và ý thức chính trị ở Việt Nam hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Vận dụng những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật, kết hợp với
những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: logic và lịch sử, phân tích và tổng
hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch, và những phương pháp trong nghiên cứu
liên ngành.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
gồm 2 chương (6 tiết)
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Nho giáo là đề tài được nhiều nhà khoa học trong nước và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, cớ thể nói chúng ta đã có một hệ thống đồ

sộ những cơng trình nghiên cứu về Nho giáo trên nhiều bình diện khác nhau.
Liên quan trực tiếp, gián tiếp đến đề tài, có thể khái qt những cơng trình
nghiên cứu sau:
Một số cơng trình xuất bản thành sách như:
Nguyễn Thanh Bình trong “Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nữa đầu thế kỷ XIX)”.[6].
Nghiên cứu Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị xã hội được các
triều đại phong kiến Việt Nam tiếp nhận và sử dụng làm hệ tư tưởng, công cụ
cai trị và quản lý xã hội. Tác giả cho rằng học thuyết chính trị xã hội là căn cứ
chủ yếu để hình thành đường lối Đức trị. Nguyễn Hiến Lê, “Khổng Tử”.[20].


8

Tác giả đã nghiên cứu một cách hệ thống học thuyết của Khổng Tử, đặc biệt
là tư tưởng chính trị trong đó có tư tưởng Đức trị. Tác giả cho rằng, chính
danh là bước đầu đưa tới chính sách Đức trị, là điều kiện để Đức trị tồn tại và
phát triển. Vũ Khiêu“Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo”.[30]. đã trình bày
sự thống nhất biện chứng giữa Đức trị và Pháp trị trong hệ tư tưởng Nho giáo,
coi chúng như hai mặt của một vấn đề. Tác giả đã bàn đến nội dung và ảnh
hưởng của Đức trị trong đời sống của nhân dân. Nguyễn Tài Thư “Nho giáo
và Nho học ở Việt Nam”.[41]. Dưới góc độ triết học đã trình bày nội dung của
Nho học và vai trị của nó trong lịch sử tư tưởng.
Một số cơng trình nghiên cứu các bài viết trên nhiều tạp chí tiêu biểu
như:
Nguyễn Thị Kim Bình, “Đường lối Đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử Mạnh Tử”, in trên tạp chí khoa học và công nghệ số 4 năm 2008 và bài viết
Khái niệm “Đức” trong tư tưởng Khổng Tử qua “Luận ngữ”. Nguyễn Tài
Thư “Mấy vấn đề nho học và xã hội Việt Nam hiện nay”, tạp chí triết học số
8, tháng 11/2004. Nguyễn Thế Kiệt “Tìm hiểu tư tưởng Đức trị trong Nho
giáo”. Nguyễn Thanh Bình “Tư tưởng về đạo trị nước ở các nhà Nho Việt

Nam”. Minh Anh,“chúng ta kế thừa gì ở Nho giáo”, Tạp chí Triết học số 8
tháng 11/2004 đã bàn về nội dung của học thuyết Nho giáo và ảnh hưởng của
nó trong xã hội hiện nay. Trong khn khổ mục đích nghiên cứu của các đề
tài là khác nhau nên vẫn chưa nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu về tư tưởng
Đức trị và ảnh hưởng của nó đối với ý thức chính trị hiện nay.
Ý thức chính trị là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử có
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu về vấn đề nay như:
Ban tuyên giáo trung ương, (2007), “Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai
trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam”.[5].
Cuốn sách đã phê phán các quan điểm sai trái thù địch trên mặt trận tư tưởng,


9

nêu lên cuộc đấu tranh trên mặt trận này. Đồng thời dự báo tình hình, phương
hướng và nhóm giải pháp nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị phê
phán quan điểm sai trái. Nguyễn Quốc Phẩm, (chủ biên), (2000), “Hệ thống
chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng
dân tộc thiểu số”.[34]. Tác giả đã trình bày thực trạng tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị cấp cơ sở đồng thời đưa ra các giải pháp kiện toàn tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị. Hồng Chí Bảo, (chủ biên), “Hệ thống
chính trị ở nơng thơn nước ta hiện nay”.[4]. Nghiên cứu vấn đề từ quan điểm
lý luận đến thực tiễn đồng thời đưa ra phương hướng, giải pháp đổi mới nâng
cao hệ thống chính trị ở nước ta.
Ngồi ra một số cơng trình nghiên cứu khoa học như : Lê Thị Tuyết
Ba,“Vai trò của pháp luật đối với việc hình thành và phát triển ý thức đạo
đức nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 10/2006. Nguyễn Duy Quý (chủ
nhiệm), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài KX.04.01 Cơ sở lí luận
và thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã hội chũ nghĩa của dân, do dân, vì

dân, Hà Nội, 2005.
Những cơng trình trên tuy chưa trực tiếp bàn về sự ảnh hưởng tư tưởng
đức trị trong ý thức chính trị ở Việt Nam hiện nay nhưng có thể nói, những
kiến giải đó đã gợi mở cho chúng tơi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài
của mình, đặc biệt là những luận giải về những mặt tích cực và tiêu cực trong
tư tưởng đức trị của nho giáo sơ kỳ của các nhà nghiên cứu


10

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN ĐIỂM ĐỨC TRỊ
CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ
1.1. Nguồn gốc và tiền đề cho sự ra đời của Nho giáo sơ kỳ
1.1.1. Khái niệm Nho giáo
Nho giáo sơ kỳ là tư tưởng về các vấn đề chính trị - xã hội. Trong lịch sử
Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ
chữ Nho, theo Hán tự từ “Nho” gồm từ “Nhân” (người) đứng gần chữ “Nhu”.
Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền được thiên hạ
cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung “Nho”
là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa. Với ước vọng xây dựng
một xã hội thịnh trị, Khổng Tử đã biên soạn, san định lại hệ tư tưởng trước
thành hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Tiếp đó, Mạnh Tử học trị của Khổng
Tử đã phát triển thành hệ thống Nho giáo mà khơng có sự sai lệch về tư tưởng
thành hệ hoàn chỉnh.
Tại Trung Quốc, Nho giáo được độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ
tư tưởng chính thống của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Nho giáo là hệ tư
tưởng có khuynh hướng bảo vệ lợi ích giai cấp phong kiến duy trì chế độ
qn chủ chun chế nên nó có sự lan rộng về mặt phạm vi trên nhiều quốc
gia. Cụ thể là thế giới Hán hóa như Việt Nam, Nhật Bản, Đài Loan, Triều

Tiên…
1.1.2. Nguồn gốc kinh tế - xã hội
Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử văn minh nhân loại
nói chung hay và tư tưởng triết học nói riêng. Triết học phương đơng chiếm
một vị thế đáng kể, bằng những nội dung phong phú, đa dạng và những giá trị
trên các vấn đề chính trị - xã hội, Nho giáo đã để lại những dấu ấn đậm nét
trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Vào thời cổ đại cùng với một số nền văn
minh lớn trên thế giới như văn minh Ấn Độ, văn minh Ai Cập, văn minh


11

Lưỡng Hà…văn minh Trung Quốc là một trong những nền văn minh lâu đời,
phát triển rực rỡ và đạt nhiều thành tựu lớn lao. Văn minh Trung Quốc không
chỉ là cái nơi lớn của nền văn hóa mà cịn là quê hương của nhiều hệ thống,
nhiều tư tưởng triết học lớn phát triển sớm với nội dung phong phú và có ảnh
hưởng sâu rộng đến nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới. Triết học Nho giáo
hay bất kỳ một triết thuyết nào cũng ra đời trên nền xã hội nhất định, chính xã
hội ấy với những điều kiện chủ quan đã sản sinh ra hệ tư tưởng đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội, và Nho giáo cũng không phải là ngoại lệ. Nghiên
cứu về hệ tư tưởng, trước hết phải nghiên cứu về những tiền đề, điều kiện vật
chất hình thành nên tư tưởng đó. Xã hội Trung Quốc cổ đại là một xã hội xuất
hiện sớm, theo tài liệu ghi chép về lịch sử Trung Hoa thì thời cổ đại Trung
Quốc đã trải qua các triều đại bắt đầu từ nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu (hay
còn gọi là tam đại)
Nhà Hạ được khởi đầu bằng sự cai trị của vua Vũ và kết thúc bằng sự lật
đổ vua Kiệt của Thành Thang ( Khoảng từ thế kỷ XXII đến thế kỷ XVII
TCN). Kinh tế lúc này đã chuyển từ sinh hoạt du mục sang định cư nông
nghiệp. Nhà Thương (Khoảng từ thế kỷ XVIII đến thề kỷ XII TCN) thời gian
này trình độ sản xuất cịn thấp, cơng cụ lao động cịn lạc hậu, thơ sơ, quan hệ

sản xuất là quan hệ gia trưởng cho nên kinh tế xã hội còn kém phát triển. Nhà
Chu (Từ 1135 đến 221 TCN) và được chia làm 2 thời kì: Tây Chu khoảng từ
1135-770 TCN và Đơng Chu khoảng từ 770 – 221 TCN.
Thời Tây Chu vua tự xưng là “thiên tử”, là lãnh chúa tối cao thống trị
toàn bộ đất đai và thần dân trong nước “dưới bầu trời khơng có chỗ nào
khơng phải là đất của vua, khắp mặt đất không nơi nào không phải là tôi nhà
vua” [8,tr135]. Nhà Chu thực hiện chế độ phong hầu kiến địa phong chức
tước, cấp đất đai cho người thân thích và cơng thần mỗi người làm chư hầu
mỗi nơi để trấn áp và khai hóa những dân chúng chưa thuần phục. Và theo lệ
thì mỗi năm mỗi lần thiên tử đi tới các nước chư hầu để kiểm tra đời sống của


12

người dân đó là quan hệ giữa thiên tử và chư hầu. Còn giữa các chư hầu với
nhau được thực hiện bởi một minh ước tạo nên một hệ thống ràng buộc về
kinh tế, chính trị, xã hội. Nhà Chu thực hiện chế độ quốc hữu hóa tư liệu sản
xuất (ruộng đất) và sức lao động, ruộng đất và mỗi thành viên đều thuộc
quyền quản lí của vua chúa. Xã hội thì có sự phân chia làm 2 hạng người đó
là qn tử (q tộc) và tiểu nhân (kẻ hèn), bởi vì thế mà các chư hầu ra sức
bốc lột sức lao động, của cải của nông dân họ phải thường xuyên đi lao dịch,
xây lũy, đắp thần..lao động nặng nhọc.
Xã hội Tây Chu còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi chế độ “Tông pháp”, trật tự
xã hội được duy trì ổn định. Muốn chế độ “Tơng pháp” đứng vững nhà Chu
tạo ra chữ hiếu đề cao hiếu để con cái hiếu với cha mẹ, kẻ dưới tôn trọng vầng
lời người trên. Việc lo lương thực cho dân được nhà Chu thực hiện bằng
chính sách “Tỉnh điền‟ chia đất cơng cho dân (Một khoanh đất công chia
thành 9 ô vuông các gia đình cày cấy trên đất đó và nộp lúa cho vua). Vì vậy
mà xã hội Tây Chu là xã hội thịnh vượng về kinh tế, ổn định về chính trị xã
hội, đạo đức, kĩ cương được giữ vững.

Đến đời U Vương (thế kỷ VIII TCN) thì triều đình loạn. U Vương bị Rợ
Khuyết Nhung giết. Chu Bình Vương nối ngơi sợ Rợ Khuyết Nhung uy hiếp
Chu Bình Vương phải dời đơ về phía đơng thuộc đất Lạc Ấp vào khoảng năm
770 TCN đời Đông Chu bắt đầu. Trung Quốc bước sang thời kỳ đầy biến
động Xuân thu- Chiến quốc là thời kì xã hội chiếm hữu nơ lệ theo kiểu
phương Đông bắt đầu suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành, thể
chế chính trị - xã hội và những quy tắc xã hội cũ đã lỗi thời những thể chế
mới đang manh nha hình thành thì lúc này mệnh lệnh nhà Chu khơng cịn ai
theo, chế độ “tơng pháp” cũng bị xóa bỏ, nhà Chu khơng cịn khống chế được
các chư hầu. Chư hầu khơng tuân lệnh thiên tử, dân không tuân lệnh quan. Số
bộ lạc nhỏ cứ giảm dần từ 1600 xuống 1000, 500, và cuối cùng chỉ còn lại vài
trăm, chư hầu nhỏ bị chư hầu lớn ức hiếp cầu cứu thiên tử, thiên tử cũng


13

khơng thể cứu nổi, thiên tử chỉ có danh mà khơng có thực. Nhà Chu lại bị các
dân tộc du mục hiếu chiến quấy phá.
Nhà vua vẫn giữ được cái danh thiên tử nhưng mất hết quyền lực, chế độ
phong kiến lung lay. Đất đai thì phải chia cắt để phong cho vương hầu công
khanh nên mỗi ngày mỗi thu hẹp lại, chỉ trong vào sự cống hiến của chư hầu
mà chư hầu thì như nước Lỗ trong 242 năm chỉ triều cống có 3 lần. Nhà Chu
càng suy yếu thì chư hầu càng mạnh lên. Họ lộng quyền, tranh giành nhau
không ngớt, mượn danh nghĩa tôn Chu để sát phạt nhau. Số chư hầu trước kia
trên một 1000, tới đầu Đơng Chu chỉ cịn lại trên 100 vì nhiều nước nhỏ đã bị
nước lớn thơn tính. Nhưng trong số trên trăm đó, thời Xuân Thu chỉ có 14
nước là đáng kể : Ngô, Việt, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh.
Trong đó chỉ có 5 nước là hung cường, kế tiếp nhau làm minh chủ, tức là ngũ
bá: Tề Hồn cơng 685- 641, Tần Mục cơng 659-621, Tống Tương công 650637, Tấn Văn công 636- 626, Sở Trang cơng 613- 591. Cuối thời xn thu
cịn thêm 2 nước nữa là Ngô và Việt ở đông nam.

Về lĩnh vực kinh tế: Cuối thời Xuân Thu người Trung Hoa đã biết nấu
sắt và có thể có lưỡi cày bắng sắt điều này thúc đẩy kĩ thuật luyện sắt phát
triển. Họ đã biết bỏ phân, làm hai mùa, đào kênh dẫn nước, tháo nước.
Phương pháp canh tác tiến bộ thì có sự khai phá thêm đất đai phát triển kĩ
thuật canh tác góp phần nâng cao năng suất nơng nghiệp. Bọn q tộc có thế
lực chiếm đất cơng thành ruộng tư càng nhiều, chế độ sở hữu tư nhân về
ruộng đất xuất hiên từ đó xuất hiện một số tân địa chủ mới. Cuối Xn Thu
nước Ngơ dựng lị luyện sắt lớn dùng đến 300 người để thụt bể, đổ than.
Nước Tấn trưng thu sắt đúc đỉnh hình.
Do nơng nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, việc trao đổi buôn bán hàng
hóa giữa các vùng, các nước hình thành nghành thương nghiệp ra đời và phát
triển nhanh. Tiền tệ đã xuất hiện và thêm vào đó là số lượng một số thương
nhân làm giàu và có thế lực như Đồn Mộc Tứ, Huyền Cao nước Trinh…Như


14

vậy kinh tế phát triển đã tác động mạnh đễn chính trị xã hội mà tác động rõ rệt
nhất là hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai cấp mới của xã hội. Chính
điều này đã làm mâu thuẫn giữa các giai cấp thống trị và giai cấp bị trị ngày
càng gay gắt.
Việc tranh bá giữa các nước chư hầu, ở nội bộ các nước liên tục xảy ra
các cuộc tranh quyền đoạt lợi kéo dài hơn 200 năm khiến chế độ lễ pháp cũ bị
mất, mệnh lệnh vua không được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, kĩ cương bị đảo lộn,
đạo đức suy đồi cảnh vua giết tơi, con hại cha, anh em vợ chồng lìa nhau
thường xuyên xảy ra thiên hạ trở nên “vô đạo”. Sự tranh giành địa vị xã hội
của các thế lực đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào chiến tranh triền miên.
Đây chính là điều kiện để giải thể chế độ thị tộc nhà Chu hình thành xã hội
phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát
triển. Hồn cảnh lịch sử Đơng Chu rối ren, loạn lạc, xáo trôn giữa cái cũ và

cái mới đã đặt ra và làm xuất hiện nhiều kẻ sĩ ln tranh luận về trật tự xã hội
cũ và hình mẫu về xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “ Bách
gia tư tử” hay “ Bách gia minh tranh” đã chứng kiến sự ra đời của nhiều đạo lí
xử thế, nhiều tư tưởng lớn của các trường phái triết học trong đó tiêu biểu là
Nho giáo.
1.1.3. Tiền đề lý luận
Thời Tây Chu, tôn giáo, chính trị, đạo đức đã ra đời. Về tơn giáo, thời
Tây Chu đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ thượng đế”, “trời
người hợp nhất”. Họ cho rằng, trời là là lực lượng có nhân cách, có ý chí và
uy quyền tuyệt đối. Về chính trị, các nhà tư tưởng Tây Chu dựa vào tư tưởng
tôn giáo xây dựng quan điểm chính trị phản động cho rằng triều đại nhà Chu
do biết làm theo “mệnh trời” nên được “nhân dân” từ tay nhà Ân để “hưởng
dân” và “nhận dân”. Ai chống lại mệnh trời, ý trời thì nhà Chu sẽ trừng phạt.
Vua nhà Chu là thiên tử, thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân. Vì vậy, dân
phải phục tùng vua. Về đạo đức, các nhà tư tưởng Tây Chu lấy hai chữ “đức”


15

và “hiếu” làm cốt để tuyên truyền, củng cố sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị
của tầng lớp quý tộc nhà Chu. Họ cho rằng các bậc tiên vương nhà Chu có
đức nên thượng đế cho hưởng nước, hưởng dân. Vì vậy, các vua sau phải kính
cái đức ấy, phải bồi dưỡng cho con cháu phải thờ tổ tiên, nhớ cơng lao tổ tiên,
giữ gìn phép tắc tổ tiên, đó là đức Hiếu. Có được đức hiếu mới nhận được
mệnh trời mà hưởng nước, hưởng dân mãi mãi, quan điểm đạo đức này là cơ
sở góp phần hình thành đạo đức Nho giáo sau này. Nho giáo ra đời tiếp nhận
các tư tưởng trên của Tây Chu là tiếp nhận một phương thức chính trị mà giai
cấp thống trị Tây Chu đã thực hiện là sử dụng thần quyền để củng cố, sử dụng
vương quyền trong việc cai trị đất nước.
Đến thời Đông Chu, Nho giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,

liên hệ mật thiết với đời sống kinh tế, phản ánh đời sống kinh tế - xã hội thời
bấy giờ. Để khắc phục tình trạng xã hội rối loạn, nhằm đưa xã hội vào trạng
thái ổn định, phát triển. Nho giáo một mặt thừa nhận, sử dụng thần quyền,
đồng thời mặt chủ yếu là khẳng định địa vị vương quyền đứng trên thần
quyền, khẳng định vai trị, vị trí của con người trong biến đổi lịch sử. Nho gia
nêu lên chủ trương cơ bản để quản lý xã hội này là đường lối trị nước Đức trị.
Đức trị là tư tưởng về đường lối cai trị đất nước, quản lý xã hội trên cơ sở
chuẩn mực đạo đức. Vai trò của đạo đức trong quản lý xã hội của Nho gia góp
phần tạo lập xã hội lí tưởng.
Ngồi những tiền đề trên thì Nho giáo ra đời cịn là sản phẩm của 2 nền
văn hóa: Chất du mục phương bắc và chất nơng nghiệp phương nam.
Chất văn hóa du mục phương bắc
Tính “quốc tế” là một trong những đặc tính khác biệt của văn hóa du mục
so với văn hóa nơng nghiệp. Tính quốc tế trong Nho giáo thể hiện ở mục tiêu
cao nhất của người quân tử là “bình thiên hạ”. Bản thân Khổng Tử đã nhiều
lần rời nước Lỗ quê hương của ơng để đi tìm minh chủ. Đối với người qn tử
việc tìm được minh qn cịn quan trọng hơn cả việc làm gì cho đất nước của


16

mình. Trong các truyền thuyết và văn học Trung Hoa việc các nhân tài thay
đổi minh chủ của mình là điều rất thường thấy. Điều này đã ít nhiều ảnh
hưởng đến Nho giáo.
Tính “phi dân chủ” và hệ quả của nó là tư tưởng “bá quyền” coi khinh
các dân tộc khác coi mình là trung tâm cịn “tứ di” xung quanh đều là “bỉ lậu”
cả. Khổng Tử đã nói: “Các nước Di. Địch dù có vua nhưng cũng khơng bằng
Hoa, Hạ (Trung Hoa) khơng có vua” [20,tr78]. Tính phi dân chủ còn được thể
hiện ở chỗ coi thường người dân Nho giáo phân biệt giữa dân thường là hạng
tiểu nhân đối lập với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ông nói: “Chỉ hạng đàn bà và

tiểu nhân là khó dạy, gần thì họ nhờn, xa thì họ ốn” [19,tr297] .
Tính “trọng sức mạnh” thể hiện ở “Dũng” một trong ba đức tính của
người, qn tử phải có. Tuy nhiên, ông nhận ra điều nguy hiểm hơn kẻ nào có
dũng mà ghét cảnh bần hàn tất sẽ loạn.
Tính nguyên tắc thể hiện ở thuyết “chính danh” tất cả phải có tơn ti, trật
tự, ai ở phận nào, việc nào thì phải giữ đúng bổn phận của mình.
Chất nơng nghiệp phương nam
Tính “ hài hịa” là một đặc tính của văn hóa nơng nghiệp trái ngược với
tính trọng sức mạnh của văn hóa du mục. Biểu hiện của tính hài hịa là việc đề
cao chữ “Nhân” và nguyên tắc “Nhân trị” Khổng Tử từng nói: “về cái mạnh
của phương nam ư? Hay cái mạnh của phương bắc ư?...Khoan hòa, mềm mại
để dạy người, không báo thù kẻ vô đạo ấy là cái mạnh của phương nam,
người quân tử ở phía ấy. Xông pha gươm giáo, dẫu chết không nản, ấy là cái
mạnh của người phương bắc – kẻ mạnh ở phía ấy” [10,tr51].
Tính “dân chủ” là tính khác biệt với văn hóa du mục. Khổng Tử nói:
“dân là chủ của thần vì thế thánh nhân xưa lo việc dân rồi mới lo việc thần”
[14,tr187]. Ơng cịn nói:“ Phải làm trước những cơng việc của dân, phải khó
nhọc vì dân” [31,tr201]. Tính dân chủ được thể hiện ở cách cư xử “trung
dung” trong “ngũ luân”. Trong các quan hệ đều thể hiện 2 chiều bình đẳng:


17

vua sáng tôi hiền, cha hiền con hiếu, anh tốt em nhường, bàn bè tin cậy. Tính
trọng văn hóa tinh thần (thi, thư, lễ, nhạc) trong kinh thi, tính trọng văn ngược
lại tính trọng võ của văn hóa du mục.
Việc đồng thời dựa vào 2 nền văn hóa đối nhau đó là nền văn hóa du
mục và văn hóa nơng nghiệp trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động như
thời Xuân thu khiến cho tư tưởng của các nhà Nho như Khổng Tử không
tránh khỏi những giằng co dẫn đến sự đụng đầu của 2 nền văn hóa khiến Nho

giáo thời kỳ này chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn.
Ngoài ra cịn ảnh hưởng về văn hóa như vào thời kỳ nay nhà Chu đã có
những cải thiện về thể chế, lễ nghi, tế tự, thời cổ đại còn cải thiện chữ viết
nhất là ở thời nhà Chu đã dùng thẻ tre tiện hơn mai rùa và xương thú để ghi
lại những điều muốn nhớ, vừa dễ khắc, dễ sắp xếp. Về sau còn biết dùng cây
nhọn nhúng vào sơn để viết lên thẻ tre mau hơn khắc. Nhờ vậy, nhà Chu và
chư hầu nào cũng có sử quan chép sử của triều đình và tương truyền trước
Khổng Tử đã có kinh, thi, lễ, nhạc, dịch.
Trên đây là những điều kiện, tiền đề cơ bản cho sự ra đời và phát triển
của Nho giáo sơ kỳ. Những tư tưởng của Nho giáo đã thống trị trong kiến trúc
thượng tầng trong suốt thời kì phong kiến và ăn sâu vào đời sống của người
dân của một số nước như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…Với những giá trị
tốt đẹp Nho giáo đã có ảnh hưởng đến nhiều nơi trên thế giới.
1.1.4. Quá trình vận động và phát triển về mặt tư tưởng của nho giáo sơ kì
qua các tác gia tiêu biểu
 Khổng Tử
Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên khơng thể khơng nhắc tới đó là
Khổng Tử. Khổng Tử sinh vào mùa đông tháng mười năm Canh Tuất, là năm
thứ hai mươi mốt đời vua Linh Vương nhà Chu, tức vào năm 551 trước công
nguyên. Khổng Tử là người nước Lỗ tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra
trong một gia đình quý tộc nhỏ đang sa sút thuộc làng Xương Bình, huyện


18

Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Mẹ của ông là bà Nhan Thị, cha là Thúc
Lương Ngột là một vị quan nhỏ. Ngay từ nhỏ, Khổng Tử đã nổi tiếng là người
siêng năng, học giỏi và thích chơi trị cúng tế. Thuở đó, q hương ơng là nơi
trụ cột, bảo tồn được nhiều di sản văn hóa cũ của nhà Chu. Khổng Tử – người
sáng lập ra Nho giáo – muốn đem tài đức của mình để giúp vua lập lại trật tự

kỷ cương trong xã hội, tìm ra phương pháp để cứu đời, cứu người, vì sự
nghiệp “bình thiên hạ”. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học
tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ,
thư, số là sáu nghề (lục nghệ) tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ơng đi giảng
dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên
soạn các sách được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch,
Xuân Thu. Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu,
thiên tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu,
cục thể xã hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn
cho mình những thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân, thái độ của Khổng
Tử hết sức phức tạp ơng vừa hồi cổ, vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm
trạng phân vân, dần dần ơng hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ vững
sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học
phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc.
Quan điểm về thế giới của Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ
trụ của người Trung Hoa thượng cổ - những quan niệm được lưu truyền trong
dân gian và được ghi trong sách Dịch. Đấy là quan niệm cho rằng vũ trụ lúc
đầu là cõi hồn mang mênh mông, mờ mịt. Trong cái hỗn mang ấy có cái Lý
gọi là Thái cực vơ hình, huyền diệu chứa đựng hai mặt đối lập nhau là Âm và
Dương. Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ trụ, do đó ơng đã
thể hiện một thái độ không rõ rệt về trời, đất, quỷ, thần. Một mặt ông cho rằng
trời chỉ là giới tự nhiên, trong đó có bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh trưởng.
Ơng vẫn thường dạy học trị của mình “Cũng như dòng nước chảy, mọi vật


19

đều trơi đi, chảy đi, khơng có gì ngừng nghỉ” [39,tr74], ơng coi trời có nói gì
đâu mà bốn mùa cứ vận hành,mọi vật cứ sinh thành mãi, nhưng mặt khác, ơng
lại cho rằng trời là một lực lượng có thể chi phối số phận và hoạt động của

con người, do dó con người phải sợ mệnh trời.
Khổng Tử cho rằng sự thay đổi của xã hội làm cho thiên hạ rối ren không
phải là nguyên nhân một sớm, một chiều mà là một quá trình bắt nguồn từ sự
sa đọa của thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính”. Và cũng
vì quan niệm “danh” khơng được “chính” làm cho xã hội loạn kỷ cương nên
để khôi phục trật tự Khổng Tử chủ trương thực hành thuyết “chính danh”.
Ông cho rằng: Trong xã hội, mỗi vật, mỗi người dều có một cơng dụng nhất
định. Nằm trong một quan hệ nhất định mỗi vật, mỗi người đều có một địa vị
nhất định và tương ứng với nó là một “danh” nhất định. Mỗi “danh” đều có
những tiêu chuẩn riêng vật nào, người nào mang “danh” nào phải thực hiện
bằng được những tiêu chuẩn của “danh” đó. Khổng Tử giải thích thuyết của
mình: “chính” là làm cho mọi việc ngay thẳng “nếu danh bất chính thì lời nói
sẽ khơng đúng đắn. Lời nói khơng đúng đắn thì sẽ dẫn đến việc thi hành sai.
Khi đó người với người trong xã hội sẽ khơng cịn kính trọng nhau, khơng
cịn hịa khí, luật pháp lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi trơng cậy, nhờ vả.
Khi dân khơng cịn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó dù muốn hay khơng xã tắc
cũng khó tránh bề suy sụp.
Triết học Nho gia xác định: quan hệ vua – tôi, cha – con , chồng – vợ,
anh – em, bạn bè là 5 quan hệ thông thường của người đời trong thiên hạ. Mối
quan hệ lại có những tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng; cha hiền – con
thảo, anh tốt – em ngoan, chồng biết điều – vợ lẽ phải, bề trên rộng rãi – bề
dưới kính thuận, vua nhân – tơi trung. Đăc biệt ông nhấn mạnh quan hệ vua
tôi và quan hệ cha con.
Không Tử cho rằng không nên lạm dụng pháp luật để ép dân đi vào tôn ti
trật tự, dùng hình phạt chỉ tạo ra sự hận thù, sợ sệt. Ổn định xã hội hữu hiệu


20

nhất là bằng đức hạnh, bằng lễ tiết vì chỉ có như vậy mới cảm hóa được con

người và làm cho con người hổ thẹn khi có hành vi sai phạm. Điều đó cho
thấy Khổng Tử đã thể hiện tư tưởng dùng đạo đức làm công cụ để thực hiện
thuyết “chính danh” của mình. Nội dung của đạo đức ấy vẫn theo ông, thông
thường nhất và cũng là quan trọng nhất là "Nhân" trong quan niệm của Khổng
Tử là "lòng u người”. Nếu nhìn tồn bộ tư tưởng của ơng "Nhân" là hạt
nhân trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Theo ơng “Nhân” là nội dung,
“Lễ” là hình thức của “Nhân”, và “Chính Danh” là con đường để đạt đến điều
“Nhân” (Sửa mình, khơi phục điều Lễ là người Nhân). Theo Khổng tử: “Quân
tử lấy nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là
đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hịa cái nghĩa, biết cái trinh.
Chính mà cố giữa là đủ làm gốc cho mọi sự” (Quân tử thể Nhân túc dĩ tưởng
Nhân, gia hộ túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hào nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự)
[33,tr80] Người quân tử phải giữ đúng đạo người với bốn đức: Nhân, nghĩa,
lễ, trí. Trong đó “Nhân” đứng đầu các điều thiện, “lễ” là hội hợp được các
điều tốt đẹp, “nghĩa” là định rõ các phận cho hài hịa về lợi của vạn vật, “trí”
là phải giữ vững cái chính là gốc cho mọi sự.
Hệ thống tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong
phú phức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chỉ và thiết lập một trật tự nghiêm
cẩn của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng
của ông ảnh hưởng tới hơn 2500 năm lịch sử Trung Quốc. Khổng Tử tuy sáng
lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được các quân vương
thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh
Tử, Tuân Tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống
trị và các sĩ đại phu triều Hán, đặc biệt đến giai đoạn Đổng Trọng Thư thì tư
tưởng Nho gia của ông mới trở thành tư tưởng chính thống.


21

 Mạnh Tử

Có thể nói Mạnh Tử là mơn đệ xuất sắc của Khổng Tử. Ông là người kế
thừa và phát triển học thuyết Nho gia đạt tới đỉnh cao. Do đó, ơng thường
được đứng tên chung với thầy mình gọi là học thuyết Khổng Mạnh. Khơng
chỉ duy trì những tư tưởng trọng yếu của Khổng tử, Mạnh Tử còn phát triển
học thuyết ấy ngày càng hoàn thiện bằng việc đưa những nội dung mới vào
học thuyết của Khổng Tử như: Tư tưởng dân bản (dân là gốc), thuyết tính
thiện (bản tính con người là thiện), thuyết lương tri (con người bẩm sinh có
mầm mống của các đức tính: lịng trắc ẩn là nguồn gốc của Nhân, biết xấu hổ
và né tránh cái ác là nguồn gốc của Nghĩa, sự khiêm tốn và nhường nhịn là
đầu mối của Lễ, biết phân biệt đúng sai là cơ sở của Trí) chỉ cần trau dồi các
thiên hướng tốt này sẽ phát triển thành các đức tính cốt tử của Nho giáo.
Mạnh Tử họ Mạnh tên Kha, tự Tử Dư, sinh vào năm thứ tư Chu liệt
Vương, 372 TCN. Mạnh Tử vốn là hậu duệ của Mạnh Tơn, thuộc dịng dõi Lỗ
cơng, vì đã di cư sang xứ Châu (nước nhỏ phụ thuộc vào Lỗ), nên coi như là
người Châu. Mạnh Tử theo học thầy Tử Tư từ thuở trẻ (Tử Tư là cháu nội của
Khổng Tử), bình sinh lấy việc tuyên dương đạo Khổng làm chí hướng, cho
nên đến thời trung niên, cũng như Khổng Tử đời trước, chu du qua nhiều
nước như Tống, Tuyết, Tề, Nguỵ, Lỗ, Châu, Lương v.v...
Kể từ năm 52 tuổi, Mạnh Tử bắt đầu du hành sang nước Lương, cho đến
cuối cùng quay về nước Lỗ, đã trải hơn hai mươi năm mà chẳng tìm được vị
minh chúa nào có đồng chí hướng, để thực hiện lý tưởng vương đạo. Chừng
tuổi đã già thì trở về xứ Châu, nơi chôn nhau cắt rốn, tu thân và dạy học. Đến
năm 84 tuổi thì Mạnh Tử mất, thọ hơn Khổng Tử mười một tuổi đời. Ông ca
ngợi Khổng Tử “Từ khi có lồi người đến nay chưa có ai vĩ đại bằng Khổng
Tử” [38,tr92] chứng tỏ Mạnh Tử sùng bái Khổng Tử gần như tuyệt đối, coi
Khổng Tử là thánh tổ, tự đặt mình vào cương vị của người có sứ mạng truyền
bá Khổng học


22


Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin vào
mệnh trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử
nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mĩ cũng có thể cảm hóa được mọi
giới. Mạnh tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới
quan ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ơng cho rằng khơng có việc gì
xảy ra mà khơng do mệnh trời. Từ đó, Mạnh Tử đưa ra thuyết “Muôn vật đều
đầy đủ ở ta. Trở vào mà thực hiện những vật ở mình thì khơng cịn gì vui thú
hơn. Cố gắng làm theo lịng thứ để cầu lấy đạo nhân không đường nào gần
hơn vậy” [40,tr72] nghĩa là khơng phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà
chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả. Ông đã chuyển từ quan điểm duy
tâm khách quan sang quan điểm duy tâm chủ quan.
Trong học thuyết về con người Mạnh Tử đi sâu tìm hiểu bản tính con
người trên cơ sở nhân học của Khổng Tử. Khổng Tử nói nhiều về nhân phân
biệt giữa nghĩa và lợi nhưng không làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt
ấy. Mạnh Tử đã trả lời câu hỏi đó và đưa ra học thuyết nhân chi sơ tính bản
thiện, con người sinh ra bản chất vốn là thiện ông ví “cái bản tính của con
người ta vốn là thiện cũng giống như bản tính tự nhiên của nước là chảy từ
trên cao xuống thấp vậy. Không một người nào sinh ra tự nhiên bất thiện cũng
như không một thứ nước nào lại không chảy xuống thấp” [8,tr221] nhưng do
hoàn cảnh khác nhau nên phân ra kẻ lành, người dữ. Ông quan niệm con
người sinh ra trời đất phú cho đủ nhân, nghĩa, lễ, trí gọi là tứ đoan. Nếu con
người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mạnh thêm, nếu khơng
biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai một đi thì con người trở nên nhỏ
nhen, ti tiện khơng khác gì lồi cầm thú. Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất
con người là thiện nhưng con người hiện thực có thể là ác, đó là do xã hội rối
loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên, để thiết lập quốc gia thái bình
thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng đường lối chính trị lấy
nhân nghĩa làm gốc.



23

Trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử đã phát triển quan niệm
về Nhân của Khổng Tử thành học thuyết nhân chính, là chính trị nhân nghĩa.
Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng của ông về dân quyền, tức đề
cao vai trò của quần chúng nhân dân. Ông cho rằng trong một xã hội thì quý
nhất là dân rồi mới đến vua, đến của cải xã tắc “dân vi quý, quân vi khinh, xã
tắc thứ chi”[40,tr63] Với tinh thần ấy, Mạnh tử chủ trương xây dựng một chế
độ bảo dân, dưỡng dân tức là phải chăm lo, bảo vệ nhân dân và ông yêu cầu
người trị vì đất nước phải quan tâm đến dân, phải tạo cho dân có nhà cửa,
ruộng vường, tài sản bởi vì họ hàm sản mới hàm tâm. Ơng là người chủ
trương khôi phục chế độ tĩnh điền để cấp đất cho dân. Ông khuyên các bậc
vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân có chừng mực. Ơng đề cao điều
nghĩa và chống điều lợi chống việc trên dưới tranh giành lẫn nhau, nêu ra
quan hệ bình đẳng trong quan hệ vua – tôi và những mối quan hệ khác với
ơng những quan hệ đó phải có tính chất 2 chiều đó là quan hệ ngũ luân : vua tôi, cha - con, vợ - chồng, anh – em, bạn bè. Đó là những quan điểm hết sức
mới mẽ và tiên bộ của ông khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị
của trường phái Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẽ toát lên tinh thần nhân bản
theo đường lối lấy dân làm gốc. Như vậy, từ quan điểm lấy dân làm gốc,
Mạnh Tử đã tiến xa hơn Khổng Tử, tích cực hơn Khổng Tử trong việc bảo vệ
dân. Điều này có ý nghĩa rất tích cực trong giai đoạn hiện nay.
 Tuân Tử
Tuân Tử tên Huống, tự khánh. Đời hán đặt tên sách của Tuân Tử là “Tôn
Khánh Tử”, sang thời Đường mới đổi xưng hơ “Tn Tử”. Tn Tử [313-238
TCN] người nước Triệu. Ơng chuyên tâm vào việc trau dồi học vấn, khoảng
trước sau 50 tuổi ông đi du hành qua các nước. Vào năm 50 tuổi, Tuân Tử đến
nước Tề, tuy được nước Tề hết sức kính nể, đã được làm “Tế tửu”, một danh
hiệu vinh dự trong buổi “quốc yến”, nhưng rốt cuộc ông cũng chẳng được
trọng dụng. Sang nước Sở, tại Sở ông được Xuân Thân Quân bổ làm huyện



24

lệnh huyện Lan Lăng, rồi từ đó định cư ln không trở về cố quốc nữa. Vào
những năm cuối cùng khi tuổi về già Tuân Tử mở trường tư thục dạy học và
viết sách, sáng lập ra học phái Lan Lăng, tạo dựng phong khí thư hương cho
xứ này. Từ đó học trị Lan Lăng hay lấy chữ “Khanh” đặt tự để kĩ niệm thầy
Tuân Tử. Tuân Tử đã để lại cho đời bộ tác phẩm gồm 30 thiên thư mà ơng đã
viết trong sách của mình. Đây là bộ tác phẩm có hệ thống tư tưởng hồn chỉnh
nhất của phái Nho học thời Chu – Tần.
Cũng giống như các nhà triết học Nho gia đương thời khác, cuộc đời của
Tuân Tử cũng trải qua biết bao thăng trầm biến cố nhưng với tài năng ơng đã
có nhiều đóng góp lớn cho triết học Trung Hoa cổ đại, đặc biệt tư tưởng chính
trị xã hội tiến bộ của ơng. Tn Tử cũng như Mạnh Tử cả hai đều là nhân vật
lịch sử, thừa kế tư tưởng, phát triển học thuyết của thầy mình là Khổng Tử,
tuy nhiên tư tưởng triết học của Tuân Tư có nhiều điểm khác biệt so với
Mạnh Tử và thầy của mình.
Về thế giới quan triết học Tn Tử khơng quan niệm mệnh trời có ý chí
và có thể sai khiến định đoạt số phận của con người, trời và người theo ơng
khơng có quan hệ với nhau, trời vận hành theo lẽ trường tồn không làm cho
Nghêu tồn tại cũng không làm cho Kiệt suy vong, trời là giới tự nhiên. Số
phận con người không thể do trời định đoạt, con người lo làm ăn, tiết kiệm thì
trời khơng làm nghèo đi được. Con người là bộ phận cao q nhất của giới tự
nhiên có tổ chức xã hội có khn phép đạo đức, con người có thể lợi dụng các
quy luật tự nhiên vào cuộc sống của họ, những hiện tượng trong giớ tự nhiên
là do sự vận hành dịch chuyển của giới tự nhiên khơng phải do quỹ thần gây
ra.
Về chính trị xã hội Tuân Tử cho rằng con người sống tập thể theo xã hội
có lễ nghĩa tổ chức trên dưới khác với con vật. Nguyên nhân khiến xã hội bạo

loạn con người sống tập quần nhưng mỗi cá nhân lại có một năng lực khác
nhau nên họ tranh giành nhau, của cải làm ra ít mà nhu cầu cao nên tranh


25

giành nhau. Vì vậy ơng chủ trương tăng cường sản xuất thực hành tiết kiệm,
tạo ra của cải cho xã hội, phân rõ nghành nghề lấy nông nghiệp làm gốc. Tuân
Tử thấy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, vua là thuyền dân là nước,
nước chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền nhưng hạn chế của ơng là chưa
thấy được tính sáng tạo của quần chúng nhân dân.
Trong học thuyết về con người trái với Mạnh Tử, Tuân Tử đưa ra học
thuyết nhân chi sơ tính bản ác. Theo đó tính người xưa nay là ác vì sinh lý tự
nhiên con người có những ham muốn tột bậc để thõa mãn dục vọng của mình
đó là nguồn gốc sinh ra trộm cắp, tội ác, vô luân trong xã hội. Ơng nói bản
tính cuả con người sinh ra đã là xấu, thích điều lợi do đó xã hội mới loạn, còn
điều thiện như nhân, nghĩa, lễ là do tập qn và q trình học tập mà có, ác là
bẩm sinh, thiện khơng phải bẩm sinh nhưng có thể tạo ra được. Để có được
cái thiện phải có một người thầy và các khn phép ngun tắc, ngồi ra tìm
đến lễ, nhạc để cảm hóa con người.
1.2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm Đức trị của nho giáo sơ kỳ
1.2.1. Cơ sở hình thành đường lối Đức trị
Nho giáo sơ kỳ về thực chất là một học thuyết chính trị - đạo đức mà
biểu hiện tập trung ở đường lối Đức trị. Khác với các học thuyết trị nước của
Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, đường lối Đức trị luôn là đường lối trị nước duy
nhất trong 2000 năm lịch sử. Trước Khổng Tử đã có biết bao nhiêu người có
ý niệm về Đức trị. Khổng Tử là người đầu tiên bàn nhiều nhất về tư cách nhà
cầm quyền. Khổng Tử cho rằng bổn phận của họ là phải sửa mình để làm
gương cho dân và phải giáo hóa dân “Khắc kỉ phục lễ vi nhân, thiên hạ qui
nhân yên” [22, tr195].

Cơ sở hình thành đường lối Đức trị xuất phát từ quan niệm của Nho giáo
sơ kỳ về con người và xã hội. Với Khổng Tử “tính tương cận, tập tương viễn”
(Tính người ta vốn gần nhau, vì tập nhiễm mà thành ra xa nhau như vậy)
[40,tr43] và Mạnh Tử “nhân chi sơ tính bản thiện”, về cơ bản khi con người


×