Bộ giáo dục v đo tạo học viện chính trị quốc gia
Hồ chí minh
Lê văn trung
đổi mới quản lý nh nớc
bằng pháp luật đối với doanh nghiệp
nh nớc ở việt nam hiện nay
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nớc và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
Tóm tắt Luận án tiến sĩ luật học
Hà Nội 2006
Công trình đợc hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Ngời hớng dẫn khoa học: 1. PGS,TS. Lê Văn Hoè
2. PGS,TS. Chu Hồng Thanh
Phản biện 1: GS,TSKH. Đào Trí úc
Viện Nhà nớc và Pháp luật
Phản biện 2: GS,TS. Trần Ngọc Đờng
Văn phòng Quốc hội
Phản biện 3: PGS,TS. Nguyễn Tất Viễn
Bộ T pháp
Luận án đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Nhà
nớc họp tại Hội trờng 106b Nhà A14, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
Vào hồi: 16 giờ 00 ngày 30 tháng 12 năm 2006
Có thể tìm hiểu luận án tại Th viện Quốc gia
và Th viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
các công trình của tác giả đ công bố
liên quan đến đề ti luận án
1. Lê Văn Trung (2000), "T tởng Hồ Chí Minh về vấn đề
pháp luật trong quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
6/2000, tr.14-18.
2. Lê Văn Trung (2002), "Hoàn thiện môi trờng pháp lý
trong quản lý nhà nớc đối với doanh nghiệp nhà nớc
hoạt động công ích", Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2002,
tr.12-16.
3. Lê Văn Trung (2003), "Một số vấn đề pháp lý về thực
hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nớc", Tạp
chí Lý luận chính trị, số 5/2003, tr.23-27.
4. Lê Văn Trung (2003), "Vấn đề quản lý nhà nớc bằng
pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nớc ở Việt Nam hiện
nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 8 (77)/2003, tr.48-52.
5. Lê Văn Trung (2004), "Kiểm soát doanh nghiệp nhà nớc
của một số quốc gia trên thế giới", Tạp chí Quản lý nhà
nớc, số 101 (6/2004), tr.40-44.
6. Lê Văn Trung (2004), "Quá trình phát triển quan điểm
của Đảng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nớc", Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 8/2004, tr.20-23.
1
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý nhà nớc (QLNN) bằng pháp luật đối với các lĩnh vực của
đời sống xã hội nói chung, đối với các loại hình doanh nghiệp, trong đó
có hệ thống doanh nghiệp nhà nớc (DNNN) nói riêng, là một chủ
trơng lớn của Đảng trong đờng lối đổi mới. Thực hiện chủ trơng
đó, đất nớc ta đã đạt đợc những thành tựu to lớn và rất quan trọng,
song cũng còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế thể hiện trên những vấn đề
sau:
Một là, mặc dù đã qua 20 năm đổi mới, song QLNN bằng pháp luật
nói chung, đối với DNNN nói riêng vẫn đang đối mặt với nhiều thách
thức. Thực tế cho thấy, hoạt động QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
đang gặp không ít khó khăn, lúng túng, vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả
quản lý; vừa hạn chế quyền tự chủ kinh doanh, ảnh hởng đến kết quả và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai là, hoạt động QLNN bằng pháp luật cha góp phần phát huy vị
trí, vai trò quan trọng của DNNN trong nền kinh tế thị trờng (KTTT)
định hớng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Những năm qua, bên cạnh
những thành tựu đã đạt đợc, DNNN còn bộc lộ nhiều hạn chế mà
nguyên nhân một phần do sự quản lý yếu kém của Nhà nớc. Từ đó,
đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm để đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả của khu vực
DNNN ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, không nh đối với các loại hình doanh nghiệp khác, Nhà nớc
quản lý DNNN đồng thời với hai t cách, vừa là chủ thể của quyền lực
công, vừa là chủ sở hữu. Hiện nay, việc xác lập và thực thi vấn đề này
còn nhiều vớng mắc về lý luận và lúng túng trong thực tiễn. Nhà nớc,
trong hoạt động của mình, một mặt, đang can thiệp quá sâu vào hoạt
động của doanh nghiệp; mặt khác, còn buông lỏng quản lý, có lúc, có
2
nơi để tài sản của Nhà nớc rơi vào tình trạng vô chủ, thất thoát, lãng phí
v.v
Bốn là, sự thay đổi về hình thức tổ chức của DNNN trong nền kinh tế
đang đặt ra đòi hỏi tất yếu phải đổi mới phơng thức, mức độ quản lý
của Nhà nớc. Khái niệm pháp lý mới về DNNN (theo Luật DNNN năm
2003), cùng với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng nh
những kết quả và xu hớng tiếp tục sắp xếp, đổi mới đã tạo xu thế phát
triển mới cho các DNNN. Vì vậy, nếu không đổi mới, hoạt động QLNN
sẽ không những không đảm bảo hiệu lực, hiệu quả mà còn cản trở sự
phát triển của hệ thống doanh nghiệp này.
Từ những lý do và yêu cầu trên, việc tìm tòi giải pháp đổi mới
QLNN bằng pháp luật đối với DNNN, trên cơ sở đó không ngừng đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN là yêu cầu mang tính
thời sự cấp bách. Đó cũng là lý do để tác giả luận án lựa chọn đề tài:
"Đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN ở Việt Nam hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu
Cải cách hệ thống DNNN và đổi mới QLNN đối với khu vực doanh
nghiệp này luôn là mối quan tâm sâu sắc của hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Đây cũng là đối tợng nghiên cứu hết sức phong phú của các
nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau nh kinh tế học, luật học,
chính trị học, khoa học quản lý v.v Chính vì vậy, các công trình khoa
học về chủ đề DNNN rất đa dạng, đợc tiếp cận dới nhiều góc độ
khác nhau.
Qua phân tích tình hình nghiên cứu về DNNN theo từng nhóm công
trình, từ kinh nghiệm quốc tế đến phạm vi trong nớc (bao gồm sách
tham khảo, chuyên khảo; đề tài khoa học; các bài viết đăng trên các
báo, tạp chí; các luận án tiến sĩ), luận án chỉ ra rằng, điểm chung của
các loại công trình nghiên cứu trên là chủ yếu đi sâu bàn về vị trí, vai
trò của DNNN; đánh giá thực trạng của hệ thống DNNN; đề xuất các
giải pháp đổi mới, sắp xếp lại, tổ chức quản lý DNNN Bên cạnh đó,
3
phần lớn các nghiên cứu này tiếp cận trên khía cạnh kinh tế, trong đó
coi trọng các chính sách cải cách DNNN nói chung, cha có công
trình bàn một cách toàn diện về những vấn đề pháp lý trong QLNN đối
với DNNN. Hơn nữa, tuy đã có một số công trình đề cập đến vấn đề
QLNN bằng pháp luật đối với một số lĩnh vực, đối tợng doanh
nghiệp, song cha có công trình nghiên cứu về QLNN bằng pháp luật
đối với DNNN trên cả ba nội dung: xây dựng pháp luật; tổ chức thực
hiện pháp luật; và kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu
QLNN bằng pháp luật đối với DNNN là một vấn đề rộng lớn và
phức tạp, trong khuôn khổ có hạn, luận án chỉ tập trung nghiên cứu
hoạt động này theo hai nhóm pháp luật trực tiếp điều chỉnh về tổ chức,
hoạt động và về sắp xếp, tổ chức lại DNNN. Thời gian nghiên cứu của
đề tài giới hạn chủ yếu từ những năm đổi mới đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích của luận án: Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực tiễn của QLNN bằng pháp luật đối với DNNN, đánh giá thực
trạng, từ đó đề xuất và luận chứng một số quan điểm, giải pháp đổi
mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN.
Nhiệm vụ của luận án:
- Phân tích những vấn đề lý luận về QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN, gồm: khái niệm, nội dung, vai trò, đặc điểm của QLNN bằng
pháp luật đối với DNNN; các yếu tố ảnh hởng đến QLNN bằng pháp
luật đối với DNNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN trên ba nội dung: xây dựng pháp luật; tổ chức thực hiện pháp
luật; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật.
- Phân tích những yêu cầu khách quan của việc đổi mới QLNN
bằng pháp luật đối với DNNN ở Việt Nam hiện nay; đề xuất và luận
chứng một số quan điểm và giải pháp đổi mới QLNN bằng pháp luật
đối với DNNN.
4
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận án đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về
QLNN nói chung, về QLNN bằng pháp luật đối với DNNN nói riêng.
Về phơng pháp nghiên cứu, luận án sử dụng tổng hợp các phơng pháp,
nh: lịch sử - cụ thể; phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh v.v
6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án nêu và phân tích vai trò, các đặc điểm của QLNN bằng
pháp luật đối với DNNN và những yếu tố ảnh hởng đến hoạt động
QLNN bằng pháp luật đối với DNNN ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án phân tích các yêu cầu khách quan và những quan điểm đổi
mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN.
- Luận án đề xuất và luận chứng các giải pháp đổi mới QLNN bằng
pháp luật đối với DNNN, trong đó có các đề xuất về nguyên tắc, hình
thức, nội dung của văn bản pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu nhà nớc đối với DNNN.
7. ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Kết quả của luận án góp phần vào việc bổ sung những vấn đề lý
luận về QLNN bằng pháp luật đối với DNNN, đồng thời góp phần hoàn
thiện những vấn đề pháp lý về đổi mới DNNN ở nớc ta trong thời gian
tới.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo về DNNN và QLNN
đối với DNNN.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chơng, 9 tiết.
5
Chơng 1
cơ sở lý luận về Quản lý nh nớc bằng pháp luật
đối với Doanh nghiệp nh nớc ở Việt Nam hiện nay
1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò của quản lý nh nớc
bằng pháp luật đối với Doanh nghiệp nh nớc
1.1.1. Khái niệm QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
Từ việc phân tích các khái niệm "quản lý", "quản lý nhà nớc",
"quản lý nhà nớc bằng pháp luật", doanh nghiệp nhà nớc, luận án
đa ra khái niệm: QLNN bằng pháp luật đối với DNNN là quá trình
Nhà nớc sử dụng công cụ pháp luật để tác động lên đối tợng quản lý
là hệ thống DNNN nhằm không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả, từ đó phát huy vị trí, vai trò của hệ thống doanh nghiệp này
trong nền kinh tế.
1.1.2. Nội dung của QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
Luận án đã nêu và phân tích ba nội dung của hoạt động QLNN
bằng pháp luật đối với DNNN là: xây dựng pháp luật; tổ chức thực
hiện pháp luật; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật. Trong đó,
pháp luật về DNNN bao gồm hai bộ phận: pháp luật về tổ chức, hoạt
động của DNNN và pháp luật về các biện pháp sắp xếp, tổ chức lại
DNNN. Các nội dung QLNN bằng pháp luật đối với DNNN không
tách biệt mà quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung
cho nhau trong thực tiễn QLNN đối với DNNN.
1.1.3. Vai trò của QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
Luận án đã nêu và phân tích các vai trò của QLNN bằng pháp luật
đối với DNNN ở Việt Nam hiện nay trên những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, QLNN bằng pháp luật là phơng thức hữu hiệu nhằm
tách bạch hoạt động QLNN và hoạt động quản lý sản xuất - kinh
doanh trong các DNNN.
6
Thứ hai, QLNN bằng pháp luật là biện pháp quan trọng nhằm xác
lập địa vị pháp lý của DNNN trong nền kinh tế, đồng thời quy định các
quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ sở hữu Nhà nớc đối với DNNN.
Thứ ba, QLNN bằng pháp luật đối với DNNN góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đa hệ thống DNNN chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và
lợi ích của quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thứ t, QLNN bằng pháp luật là phơng thức cơ bản để thể chế hóa
các quan điểm của Đảng về đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN
trong nền kinh tế.
1.2. Đặc điểm của QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
Luận án phân tích các đặc điểm của QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN theo các yếu tố: đối tợng quản lý, chủ thể quản lý, và công cụ
quản lý.
1.2.1. Đặc điểm về đối tợng quản lý
Đối tợng của QLNN bằng pháp luật đối với DNNN là các doanh
nghiệp có vị trí, vai trò đặc biệt trong nền KTTT định hớng XHCN.
Đặc điểm này đòi hỏi, trong QLNN bằng pháp luật đối với DNNN vừa
tôn trọng tính bình đẳng trong sản xuất - kinh doanh của các loại hình
doanh nghiệp, vừa phải đảm bảo phát huy vị trí, vai trò của DNNN
trong nền kinh tế.
1.2.2. Đặc điểm về chủ thể quản lý
Khác với các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực dân doanh, Nhà
nớc quản lý các DNNN với hai t cách, vừa là chủ thể quản lý công
quyền, vừa là chủ sở hữu. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu về sự hài hoà,
hợp lý trong ứng xử của Nhà nớc trên cả hai t cách, tránh tình trạng
lấn sân, chồng chéo.
7
1.2.3. Đặc điểm về công cụ quản lý
Bên cạnh các quy định áp dụng chung cho mọi loại hình doanh
nghiệp, pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của DNNN còn
có những quy định đặc thù về thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu nhà nớc.
1.3. Các yếu tố ảnh hởng đến hoạt động QLNN bằng
pháp luật đối với DNNN
Luận án chỉ ra rằng, QLNN bằng pháp luật đối với DNNN chịu sự
tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của nhiều yếu tố, trong đó luận án tập
trung phân tích sự ảnh hởng của các yếu tố sau:
1.3.1. Tính chất, trình độ phát triển của nền kinh tế
Nền kinh tế đất nớc đã thực hiện quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hóa hành chính tập trung sang cơ chế thị trờng định hớng
XHCN, tuy nhiên, khu vực DNNN là nơi còn mang nặng dấu ấn của
cơ chế cũ. Điều đó gây nên những khó khăn, trở ngại cho hoạt động
quản lý của Nhà nớc đối với sự phát triển của các doanh nghiệp này.
1.3.2. Tính chất thuộc sở hữu nhà nớc của DNNN
Tính chất thuộc sở hữu nhà nớc ở các mức độ khác nhau của các
DNNN đặt ra những thách thức đối với Nhà nớc trong việc vừa đảm
bảo môi trờng pháp lý cho DNNN hoạt động, vừa đảm bảo thực hiện
vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của sở hữu nhà nớc.
1.3.3. Tính đa dạng về hình thức tổ chức của DNNN
Theo pháp luật hiện hành, các DNNN đợc tổ chức dới nhiều hình
thức khác nhau, đòi hỏi sự quản lý của Nhà nớc phải thích ứng với
từng hình thức, đồng thời đảm bảo tính bình đẳng về mặt pháp lý giữa
chúng.
1.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu của
nền kinh tế vừa tạo cơ hội, đồng thời đặt ra đòi hỏi khách quan cũng
8
nh những thách thức trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về xây
dựng và thực hiện thể chế liên quan đến khu vực DNNN.
Kết luận chơng 1:
- QLNN bằng pháp luật đối với DNNN là quá trình Nhà nớc sử
dụng pháp luật với t cách là một công cụ quản lý để đa hệ thống
DNNN hoạt động theo mục đích mà Nhà nớc đặt ra. Hoạt động
QLNN bằng pháp luật đối với DNNN đợc thực hiện trên ba nội dung:
xây dựng pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật; kiểm tra, thanh tra, xử
lý vi phạm pháp luật.
- So với các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động QLNN bằng
pháp luật đối với DNNN ở Việt Nam có những nét đặc thù. Xét dới
góc độ đối tợng quản lý, DNNN là khu vực kinh tế có vị trí, vai trò
quan trọng trong nền KTTT định hớng XHCN. Với phơng diện chủ
thể, Nhà nớc quản lý DNNN trên hai t cách: vừa là cơ quan quản lý
công quyền, vừa là chủ sở hữu. Về khía cạnh công cụ quản lý, bên
cạnh các quy định áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp,
pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của DNNN còn có những
quy định đặc thù về thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nớc. Nhận thức
sâu sắc các đặc điểm này sẽ có ý nghĩa to lớn trong quá trình đổi mới
QLNN bằng pháp luật đối với DNNN ở Việt Nam hiện nay.
- QLNN bằng pháp luật đối với DNNN chịu sự tác động của nhiều
yếu tố chủ quan lẫn khách quan, trong đó tính chất, trình độ phát triển
của nền kinh tế; tính chất thuộc sở hữu nhà nớc của DNNN; tính đa
dạng về hình thức tổ chức của DNNN; và xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng v.v là những yếu tố có ảnh hởng hết sức sâu
sắc. Các yếu tố này vừa mang lại thời cơ, song cũng đặt ra những thách
thức không nhỏ đối với hoạt động QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN nói riêng, đối với quá trình đổi mới, phát triển hệ thống DNNN
ở Việt Nam nói chung.
9
Chơng 2
thực trạng quản lý nh nớc bằng pháp luật
đối với doanh nghiệp nh nớc ở việt nam
Căn cứ vào việc phân chia hoạt động QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN ở chơng 1, luận án phân tích thực trạng của hoạt động này
trên ba nội dung: xây dựng pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật;
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật.
2.1. thực trạng xây dựng pháp luật về dnnn
2.1.1. Quá trình phát triển của pháp luật về DNNN
Luận án đã nêu khái quát quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về DNNN trên cả hai bộ phận pháp luật: pháp luật về tổ
chức, hoạt động của DNNN và pháp luật về các biện pháp sắp xếp, tổ
chức lại DNNN.
2.1.2. Những thành tựu và hạn chế, bất cập trong xây dựng
pháp luật về DNNN
2.1.2.1. Xây dựng pháp luật về tổ chức và hoạt động của DNNN
- Về những thành tựu, luận án đánh giá: Thứ nhất, các văn bản
pháp luật đã tạo đợc khung pháp lý mới cho tổ chức và hoạt động của
các DNNN trong nền kinh tế, đồng thời đây cũng là căn cứ pháp lý
quan trọng cho việc đổi mới QLNN đối với các DNNN; Thứ hai, khái
niệm pháp lý mới về DNNN đã tạo điều kiện cho việc sắp xếp, đổi mới
khu vực doanh nghiệp này một cách thuận lợi hơn, đặc biệt là cho quá
trình CPH DNNN; Thứ ba, các quy định pháp luật đã từng bớc đảm
bảo tính bình đẳng về mặt pháp lý giữa DNNN với các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Về hạn chế, bất cập, luận án đánh giá:
+ Một trong những hạn chế cơ bản của hệ thống các văn bản pháp
luật về tổ chức, hoạt động của DNNN từ nhiều năm nay là ban hành
10
còn chậm trễ, thiếu tính đồng bộ, cha thể chế hóa kịp thời một số
quan điểm chỉ đạo quan trọng của Đảng về đổi mới DNNN.
+ Một số văn bản không phù hợp với thực tiễn phải sửa đổi, bổ
sung; thậm chí có văn bản phải tạm dừng thực hiện sau khi ban hành.
+ Các quy định pháp luật về thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với
DNNN còn phân tán ở nhiều văn bản khác nhau, phần lớn các văn bản
có giá trị pháp lý không cao.
+ Ra đời trong bối cảnh Đảng có nhiều chủ trơng quan trọng về
đổi mới hệ thống DNNN, song bên cạnh những điểm mới có ý nghĩa
tích cực, Luật DNNN năm 2003 cũng đã bộc lộ một số bất cập, nh:
quan niệm về cổ phần, vốn góp chi phối cha phù hợp với quan niệm
chung trên thế giới; các quy định về mô hình TCT nhìn chung còn sơ
sài, chung chung; vẫn còn duy trì chế độ chủ quản đối với DNNN v.v
2.1.2.2. Xây dựng pháp luật về sắp xếp, tổ chức lại DNNN
- Về những thành tựu, luận án đánh giá: Một là, đối với mỗi biện
pháp sắp xếp DNNN đều đã xây dựng đợc một hệ thống các văn bản
pháp luật tơng đối đồng bộ; Hai là, các cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền đã cố gắng thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng thể
hiện qua việc sửa đổi, thay thế các văn bản pháp luật để tháo gỡ khó
khăn, vớng mắc trong thực tiễn áp dụng; Ba là, hoạt động xây dựng
pháp luật về sắp xếp DNNN thể hiện sự quyết tâm của các cơ quan nhà
nớc, đặc biệt của Chính phủ và Thủ tớng Chính phủ đối với việc đổi
mới, nâng cao hiệu quả khu vực DNNN.
- Về những hạn chế, bất cập, luận án đánh giá:
+ Pháp luật về mô hình TCT còn những hạn chế, tồn tại là: 1, Việc
thành lập TCT ở nớc ta là sự áp dụng mô hình tập đoàn kinh doanh
của các nớc, song cơ sở pháp lý cho sự ra đời đó không mang đặc
điểm vốn có của các tập đoàn kinh tế; 2, Cơ chế pháp lý về việc hình
thành và vận hành của TCT không mang đặc trng chung vốn có,
11
mang tính thông lệ quốc tế; 3, Hành lang pháp lý cha đầy đủ để TCT
nhà nớc thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và năng động trong sản
xuất kinh doanh.
+ Pháp luật về CPH DNNN còn bộc lộ những hạn chế, nh: 1, Có
quá nhiều nghị định về CPH DNNN nhng tháo gỡ đợc khó khăn cũ
thì lại nảy sinh khó khăn mới; 2, Cha có quy chế pháp lý về việc thiết
lập một tổ chức có vai trò, chức năng, nhiệm vụ chính trong việc thực
hiện chơng trình CPH DNNN của Chính phủ; 3, Cha có văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao và ổn định về CPH DNNN v.v
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về dnnn
2.2.1. Thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của DNNN
Về những kết quả đạt đợc, luận án đánh giá: Một là, quá trình thực
hiện pháp luật đã từng bớc xác lập địa vị pháp lý của DNNN là tổ
chức kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản
xuất, kinh doanh; Hai là, DNNN đã bớc đầu thực hiện quyền chủ
động trong tổ chức bộ máy quản lý cũng nh trong sản xuất - kinh
doanh; Ba là, từng bớc giảm bớt chế độ hành chính chủ quản, phân
định chức năng QLNN và chức năng sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp; Bốn là, thông qua việc thí điểm thành lập Công ty Đầu t và
kinh doanh vốn Nhà nớc đã chuyển một số DNNN tách khỏi việc
quản lý của bộ chủ quản.
Về hạn chế, yếu kém, luận án chỉ ra những điểm sau: 1, Cha đáp
ứng một cách triệt để chủ trơng chuyển hẳn DNNN sang hạch toán
kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trờng; 2, Cha tách bạch đợc
vai trò QLNN và vai trò đại diện chủ sở hữu nên vừa buông lỏng quản
lý, vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
3, Việc tổ chức thực hiện pháp luật nhiều lúc còn lúng túng, chồng
chéo; 4, Mô hình TCT Đầu t và kinh doanh vốn Nhà nớc triển khai
chậm, việc chuyển giao chức năng đại diện chủ sở hữu từ bộ chủ quản
12
sang phơng thức mới cha đáng kể, phần lớn DNNN vẫn cha thoát
khỏi cơ chế quản lý cũ.
Luận án chỉ ra nguyên nhân của hạn chế trên là: do nhận thức của
các cơ quan nhà nớc, các cán bộ lãnh đạo DNNN nhìn chung vẫn
cha thoát khỏi cách quan niệm cũ về quản lý hệ thống DNNN; do
năng lực, trình độ quản lý của các cơ quan chức năng cũng nh khả
năng thích nghi với nền KTTT của đội ngũ cán bộ kinh doanh tại các
DNNN còn hạn chế; do sự tác động của vấn đề lợi ích; do những cập
của bản thân hệ thống pháp luật v.v
2.2.2. Thực hiện pháp luật về sắp xếp, tổ chức lại DNNN
2.2.2.1. Tổ chức thực hiện pháp luật về sáp nhập, giải thể, phá
sản, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN
Về những kết quả đạt đợc, luận án đã chỉ ra rằng, qua thực hiện
pháp luật về các biện pháp này đã giảm mạnh số lợng các DNNN
nhỏ, kinh doanh thua lỗ; DNNN từ chỗ dàn trải, phân tán, đến nay đã
tập trung chủ yếu một số ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế;
quy mô DNNN hiện nay chủ yếu là vừa và lớn.
Về những hạn chế, yếu kém, luận án nêu các điểm sau: 1, Vẫn còn
tồn tại nhiều DNNN quy mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo dài, dàn trải
trên nhiều địa bàn, lĩnh vực; 2, Quá trình sắp xếp DNNN chủ yếu mới
thu gọn đầu mối về mặt số lợng, cha có sự chuyển biến thực sự về
cơ cấu và chất lợng; 3, Số lợng DNNN đợc sắp xếp theo các
phơng thức này còn quá ít, không tạo đợc tác động đáng kể trong
việc nâng cao hiệu quả của khu vực DNNN.
Những nguyên nhân của hạn chế là: do quan niệm không đúng về
vai trò và phạm vi hoạt động của hệ thống DNNN; do tâm lý không
muốn mất quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan đến sự tồn tại
của các DNNN; do việc triển khai các nghị quyết của Đảng và việc
ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ chậm, còn nhiều bất cập,
13
vớng mắc; cơ chế, chính sách cha đồng bộ, cha cụ thể; nhiều Bộ,
ngành, địa phơng cha thực sự quan tâm chỉ đạo thực hiện.
2.2.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về TCT và tập đoàn kinh
doanh
Những kết quả đạt đợc là: TCT nhà nớc đã chi phối đợc các
ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; đã bảo toàn, tích tụ và
gia tăng đợc nguồn vốn, huy động đợc nhiều nguồn lực đầu t đổi
mới công nghệ; góp phần tích cực vào việc thực hiện chính sách xã hội
và an sinh xã hội; nhiều TCT đã chuyển sang mô hình kinh doanh đa
ngành, đa lĩnh vực; việc phát triển một số TCT thành tập đoàn kinh
doanh đang đợc tích cực triển khai v.v
Bên cạnh đó, có thể thấy những hạn chế, yếu kém nh: quyết định
thành lập các TCT mang tính hành chính hơn là lôgic kinh tế; mối
quan hệ TCT - đơn vị thành viên và giữa các đơn vị thành viên với
nhau vừa cứng nhắc, gò bó, vừa lỏng lẻo; vai trò điều phối, hợp tác của
TCT cha rõ, thiếu sự gắn kết giữa các doanh nghiệp thành viên; mô
hình tổ chức quản lý TCT tuy đã đợc điều chỉnh nhiều lần nhng vẫn
còn những bất cập, hạn chế.
Về nguyên nhân, luận án cho rằng, do t tởng nóng vội, muốn gò
ép để sớm hình thành các TCT; do các quy định của pháp luật về mô
hình TCT còn cứng nhắc; do tính chất đơn sở hữu trong tổ chức TCT;
do mô hình công ty mẹ - công ty con mới đang ở giai đoạn thử nghiệm
nên cha có môi trờng đầy đủ để các TCT phát triển v.v
2.2.2.3. Tổ chức thực hiện pháp luật về CPH DNNN
- Những kết quả đạt đợc: Đã chuyển đợc một số lợng khá lớn
DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. CPH đã góp
phần giúp DNNN nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp; đã mang lại cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động hơn,
hiệu quả hơn. CPH cũng tạo điều kiện để ngời lao động nâng cao vai
14
trò làm chủ trong doanh nghiệp. Ngoài ra, CPH đã góp phần huy động
đợc thêm vốn của xã hội đầu t vào phát triển sản xuất, kinh doanh
và thúc đẩy phát triển thị trờng chứng khoán, một loại hình thị trờng
còn mới mẻ ở Việt Nam.
- Những hạn chế, yếu kém: Trong tổ chức thực hiện pháp luật về
CPH còn bộc lộ nhiều hạn chế, nh: tiến độ CPH còn chậm; thời gian
thực hiện CPH doanh nghiệp còn dài; một số Bộ, ngành, địa phơng
còn chần chừ, do dự, thậm chí còn bỏ bê trong tổ chức thực hiện. Bên
cạnh đó, việc thu hút vốn ngoài xã hội vào doanh nghiệp CPH còn hạn
chế; tỷ trọng vốn đã CPH so với số vốn nhà nớc trong DNNN còn
nhỏ. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp sau CPH cha có những
chuyển biến tích cực về quản trị doanh nghiệp; phơng pháp quản lý,
lề lối làm việc, t duy kinh doanh vẫn mang dấu ấn của DNNN cũ.
Chính sách đối với ngời lao động trong quá trình thực hiện CPH còn
nhiều bất cập; quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông trong công ty cổ
phần cha đợc phát huy.
- Nguyên nhân của hạn chế: Luận án phân tích các nguyên nhân cơ
bản sau: 1, Do CPH DNNN là vấn đề phức tạp nên trong quá trình
triển khai, sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nớc có nhiều sự thay đổi, bổ
sung; 2, Do nhận thức của các ngành, các cấp, của lãnh đạo doanh
nghiệp và ngời lao động cũng nh của công chúng nhìn chung cha
đầy đủ, đúng đắn về chủ trơng CPH; 3, Do tâm lý lo sợ mất quyền,
mất lợi ích của các cơ quan chủ quản, của lãnh đạo DNNN và tâm lý
sợ mất việc làm của ngời lao động; 4, Do sự yếu kém của môi trờng
thị trờng nh thị trờng chứng khoán cha phát triển, sự hạn chế kiến
thức về công ty cổ phần; 5, Do thiếu môi trờng bình đẳng thật sự giữa
15
các loại hình doanh nghiệp; 6, Do bất cập của các văn bản pháp luật về
CPH v.v
2.3. Thực trạng kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật trong qlnn đối với dnnn
2.3.1. Những kết quả đạt đợc
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật đối với
DNNN trong những năm qua đã có những kết quả sau: 1, Đã từng
bớc hoàn thiện các văn bản pháp luật về thanh tra, xử lý vi phạm pháp
luật; 2, Ngành thanh tra đã tiến hành triển khai hàng năm hàng ngàn
cuộc thanh tra doanh nghiệp, trong đó có các DNNN, phát hiện sai
phạm về kinh tế trị giá hàng ngàn tỉ đồng; 3, Thanh tra Chính phủ đã
tập trung thanh tra những lĩnh vực nổi cộm trong khu vực DNNN thời
gian qua, đặc biệt là vấn đề quản lý đầu t xây dựng, sử dụng đất đai,
dự án đầu t, mua sắm trang thiết bị v.v ; 4, Các Bộ, ngành trong
những năm qua cũng chú trọng tiến hành thanh tra các DNNN thuộc
quyền quản lý, tập trung thanh tra các lĩnh vực đầu t xây dựng, quản
lý và sử dụng đất đai.
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém
Luận án phân tích những hạn chế, yếu kém của hoạt động này là:
cha tổ chức đợc một cách khoa học hệ thống giám sát việc tuân thủ
pháp luật của DNNN cũng nh các cơ quan chức năng trong QLNN
đối với hệ thống doanh nghiệp này; hiện tợng chồng chéo, trùng lắp
diễn ra khá phổ biến; thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra doanh
nghiệp còn dài; thiếu cơ chế đảm bảo và phát huy hiệu quả của công
tác thanh tra; tổ chức thanh tra vẫn còn một số điểm cha hợp lý v.v
Có thể nói những hạn chế trên là những hệ luỵ của nhiều yếu tố:
quy định của pháp luật về các cơ quan chức năng quá phân tán, còn
nhiều điểm bất cập; một bộ phận đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra
yếu kém về năng lực, trình độ; việc trao quyền cho một số cơ quan, cá
16
nhân không đi kèm với trách nhiệm tơng xứng; tổ chức và hoạt động
của các cơ quan trọng tài và toà án cha thích ứng với điều kiện của cơ
chế thị trờng v.v
Kết luận chơng 2:
- QLNN bằng pháp luật đối với DNNN trong những năm qua tuy đã
đạt đợc những thành tựu quan trọng song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế, bất cập. Hoạt động xây dựng pháp luật nhìn chung còn chậm trễ;
thiếu tính thống nhất và đồng bộ; còn nhiều khó khăn, vớng mắc
cha đợc tháo gỡ; Việc tổ chức thực hiện pháp luật tiến hành chậm;
nhiều trờng hợp còn lúng túng, gò bó; hiệu quả còn thấp so với kế
hoạch, yêu cầu đặt ra. Hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu quả; tình trạng vừa chồng chéo, vừa
buông lỏng quản lý vẫn còn diễn ra khá phổ biến.
- Những hạn chế, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan
lẫn khách quan, nh nhận thức cha đúng về vị trí, vai trò của DNNN;
quan niệm về sở hữu và cách thực thực hiện quyền chủ sở hữu đối với
vốn và tài sản của Nhà nớc tại các DNNN còn gò bó, cứng nhắc; sự
bất cập lớn về năng lực, trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ v.v
Chơng 3
Quan điểm v giải pháp đổi mới quản lý nh nớc
bằng pháp luật đối với dNNN ở việt nam hiện nay
3.1. Yêu cầu khách quan đổi mới QLNN bằng pháp luật
đối với DNNN
Luận án khẳng định đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
là một tất yếu khách quan, thể hiện trên những vấn đề sau: Một là, do
yêu cầu của quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền với việc nâng
cao hiệu lực, hiệu quả QLNN bằng pháp luật đối với nền kinh tế nói
chung, các DNNN nói riêng; Hai là, do sự bất cập giữa vị trí, vai trò và
17
thực trạng của hệ thống DNNN mà nguyên nhân chủ yếu là từ sự yếu
kém của QLNN bằng pháp luật đối với khu vực doanh nghiệp này; Ba
là, do thực trạng của hoạt động QLNN bằng pháp luật đối với DNNN
đang còn những tồn tại, bất cập cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện; Bốn
là, do yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của nền kinh
tế.
3.2. Quan điểm đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN
Để đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN, theo tác giả luận
án, cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, đổi mới
QLNN bằng pháp luật đối với DNNN phải đảm bảo vị trí và vai trò của
DNNN trong nền KTTT định hớng XHCN; Thứ hai, phải đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; Thứ ba, bên cạnh pháp luật, phải
đồng thời chú trọng phát huy vai trò của các công cụ, phơng tiện
quản lý khác; Thứ t, phải bám sát và thể chế hóa kịp thời các chủ
trơng của Đảng về đổi mới hệ thống DNNN.
3.3. giải pháp đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với
DNNN ở Việt nam hiện nay
3.3.1. Đổi mới hoạt động xây dựng pháp luật
3.3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện văn bản pháp luật về thực hiện
quyền và nghĩa chủ sở hữu tại các DNNN
Để hoạt động QLNN bằng pháp luật đối với DNNN đợc thực hiện
đầy đủ, ngoài những vấn đề về thành lập, tổ chức quản lý v.v đợc
quy định chung tại Luật Doanh nghiệp, cần phải xây dựng văn bản
pháp luật điều chỉnh việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nớc tại các DNNN.
- Việc ban hành văn bản này cần đảm bảo các nguyên tắc: 1, xác
định rõ tổ chức thống nhất (làm đầu mối) thực hiện quyền chủ sở hữu
18
đối với DNNN; 2, tách bạch rõ ràng chức năng QLNN với chức năng
chủ sở hữu đối với DNNN; 3, tách biệt quyền sở hữu và các quyền về
quản trị kinh doanh, quản trị nội bộ trong DNNN; 4, tách quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu với việc thực hiện các nghĩa vụ xã hội của
doanh nghiệp.
- Về hình thức pháp lý, có thể xây dựng Luật về thực hiện quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nớc tại DNNN (hoặc Luật Sử dụng vốn
Nhà nớc đầu t vào kinh doanh theo tinh thần Nghị quyết Trung ơng
3 (Khóa IX). Văn bản Luật này sẽ thay thế các văn bản dới luật về
những vấn đề liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu nhà nớc đã ban hành. Ngoài ra, văn bản này cũng quy định
những vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát, đánh giá hoạt động
của các chủ thể tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
nhà nớc.
- Về nội dung, văn bản pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ
của chủ sở hữu nhà nớc đối với DNNN cần điều chỉnh những vấn đề
cơ bản sau: 1, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nớc;
2, cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nớc; 3, cơ chế giám sát
thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nớc của các cá nhân, tổ chức
đợc phân công, phân cấp hoặc uỷ quyền.
Ngoài việc pháp điển hóa các quy định đã có, văn bản pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nớc đối với DNNN cần điều
chỉnh thêm những vấn đề sau:
Một, quy định cụ thể sự tham gia của Quốc hội trong việc thực hiện
quyền chủ sở hữu đối với DNNN, nh: Quốc hội quy định khung
chính sách đối với DNNN; giới hạn tỷ lệ vốn nhà nớc đầu t vào kinh
doanh; điều chỉnh phạm vi thành lập mới DNNN (đối với doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nớc); giám sát các tổ chức, cá nhân đại diện
chủ sở hữu nhà nớc đối với DNNN v.v
19
Hai, quy định cụ thể cơ chế giám sát, đánh giá việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ chủ sở hữu nhà nớc của các cơ quan có thẩm
quyền và giám sát, đánh giá hoạt động của DNNN nói chung, hoạt
động của HĐQT tại các DNNN nói riêng.
3.3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về sắp xếp, tổ chức lại DNNN
- Hoàn thiện pháp luật về TCT, hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh: Trong xây dựng pháp luật về mô hình TCT, cần tiếp tục hoàn
thiện mối quan hệ giữa TCT và các doanh nghiệp thành viên theo
phơng thức đầu t vốn, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty
con. Các quy định pháp luật cần tạo điều kiện để thực hiện mô hình
tập đoàn kinh doanh đa sở hữu, đa ngành, đa lĩnh vực, có sự đan xen
của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Hoàn thiện pháp luật về CPH, tiến tới xây dựng văn bản Luật về
CPH: Đến nay, có thể nói đã có đủ điều kiện để ban hành Luật về
CPH DNNN thay thế cho việc ban hành các nghị định nh trớc đây
nhằm nâng cao tính pháp lý của văn bản pháp luật về CPH DNNN.
- Các văn bản pháp lý khác về các biện pháp sáp nhập, giải thể,
phá sản DNNN sẽ áp dụng theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Về
giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, do đây là các biện pháp
ít có ảnh hởng lớn đến quá trình sắp xếp, tổ chức lại DNNN, vì vậy
chỉ nên quy định về hình thức bán doanh nghiệp.
3.3.1.3. Nâng cao chất lợng xây dựng pháp luật về DNNN
Cần có sự đầu t thích đáng phát triển khoa học pháp lý đáp ứng
yêu cầu xây dựng pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ của sở hữu
nhà nớc đối với DNNN (về cán bộ quản lý, về giám sát, đánh giá hiệu
quả, về kiểm tra, kiểm soát ). Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế xây
20
dựng pháp luật theo hớng áp dụng cơ chế phản biện để tránh hiện
tợng "ẩn" lợi ích cục bộ trong văn bản pháp luật. Ngoài ra, cần coi
trọng sự tham gia của DNNN vào quy trình chuẩn bị, soạn thảo, thông
qua pháp luật; sử dụng các chuyên gia sâu về lĩnh vực DNNN v.v
3.3.2. Đổi mới hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật
3.3.2.1. Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục
pháp luật
- Việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với DNNN
cần tiến hành với nhiều nội dung, phù hợp với từng đối tợng khác
nhau (cán bộ lãnh đạo, quản lý DNNN; cán bộ chuyên môn; công
nhân viên chức; ngời lao động )
- Hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong QLNN đối với
DNNN có thể tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau; các hình thức
này cần linh hoạt và có sự bổ sung lẫn nhau.
- Cần nâng cao năng lực, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị -
xã hội, các câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, các cơ quan bảo vệ pháp
luật v.v Đồng thời cần củng cố, kiện toàn các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp nh các câu lạc bộ DNNN.
- Trong hoạt động đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý DNNN, cần chú
trọng chơng trình đào tạo về kiến thức pháp luật về DNNN.
3.3.2.2. Đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan QLNN
Thứ nhất, về thể chế: tiếp tục đổi mới thể chế và thủ tục hành chính,
tập trung trớc hết vào xóa bỏ những quy định mang nặng tính hành
chính, bao cấp; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo
tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nớc đầu t vào kinh
doanh; tập trung xây dựng các văn bản pháp luật quy định cụ thể các
thủ tục trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại DNNN.
21
Thứ hai, về kiện toàn bộ máy nhà nớc quản lý DNNN, cần tập
trung một số hớng sau: Kiên quyết tách chức năng QLNN và chức
năng quản lý kinh doanh để cơ quan nhà nớc tập trung quản lý vĩ mô.
Đối với các cơ quan QLNN, cần có cơ chế phối hợp trong hoạt động,
tránh tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc ngợc lại, buông lỏng
quản lý đối với DNNN. Tiến hành phân cấp mạnh trên cơ sở gắn trách
nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi. Từng bớc hiện đại hóa,
ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ quản lý hiện đại để minh
bạch hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy QLNN đối với
DNNN.
Thứ ba, về đội ngũ cán bộ, công chức: Nhà nớc có chơng trình,
kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ QLNN đối với DNNN đáp ứng yêu
cầu mới của nền kinh tế; đổi mới và đa vào nề nếp quy chế tuyển
chọn, đề bạt cán bộ; có sự thanh lọc đội ngũ cán bộ lựa chọn đợc
những ngời đủ năng lực tham gia điều hành DNNN; nghiêm trị những
kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, kiên quyết
chống tệ cửa quyền, sách nhiễu, cơ chế xin - cho, lãng phí tài sản công
v.v
3.3.3. Đổi mới hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
pháp luật
Để hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật trong
quản lý hệ thống DNNN có hiệu lực, hiệu quả, cần chú trọng các giải
pháp sau:
- Xác định rõ ràng hệ thống giám sát cũng nh cơ quan có trách
nhiệm giám sát đối với việc tuân thủ pháp luật của DNNN, của các cơ
quan chức năng trong QLNN đối với hệ thống DNNN.
- Hạn chế, tiến tới xóa bỏ tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong
hoạt động kiểm tra, thanh tra DNNN; cần có sự phối hợp để có chơng
trình, kế hoạch thích hợp nhất; cần sửa đổi những quy định bất hợp lý,
nh: về thời gian thanh tra, về thẩm quyền ra quyết định của các cơ
quan tiến hành hoạt động kiểm tra, thanh tra
22
- Tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống thanh tra;
phân biệt rõ giữa vị trí, chức năng của cơ quan thanh tra theo cấp hành
chính và cơ quan thanh tra theo lĩnh vực; phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ và phơng thức phối hợp giữa các cơ quan thuộc hệ thống
thanh tra với các cơ quan nhà nớc khác có chức năng kiểm tra, giám
sát DNNN (chức năng giám sát của Quốc hội, của các cơ quan kiểm
toán v.v )
- Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật theo hớng: việc giao
quyền hạn phải gắn với trách nhiệm. Xử lý kịp thời, công khai những
vi phạm pháp luật; chú trọng công tác giáo dục đạo đức, phẩm chất
chính trị, t cách của đội ngũ cán bộ, thanh tra viên cũng nh quan
tâm đến đời sống của họ; hoàn thiện pháp luật về các cơ quan bảo vệ
pháp luật, nhất là các cơ quan tài phán để hoạt động của các cơ quan
này có hiệu lực, hiệu quả.
Kết luận chơng 3:
Để đổi mới QLNN bằng pháp luật đối với DNNN đáp ứng yêu cầu
của phát triển nền kinh tế trong giai đoạn mới, cần tiến hành đồng bộ
các nhóm giải pháp. Về xây dựng pháp luật, cần sớm ban hành văn bản
pháp lý về thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nớc và hoàn
thiện một số văn bản về sắp xếp, tổ chức lại DNNN. Hoạt động tổ
chức thực hiện pháp luật cần đợc đổi mới mạnh mẽ từ công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến đổi mới, hoàn thiện bộ máy
nhà nớc và đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu cải cách hành
chính. Để QLNN bằng pháp luật đối với DNNN đạt hiệu lực, hiệu quả,
cần tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp
luật theo hớng xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trên cơ sở tôn trọng, đảm bảo quyền tự do kinh
doanh và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các DNNN.